Đồ án tốt nghiệp
Trang 1 / 128
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biến đổi khí hậu làm tăng các hiện tượng nguy hiểm. Tần suất và cường độ các hiện
tượng bão, mưa lớn, nhiệt độ cao, hạn hán tăng nhiều hơn trong thập kỷ vừa qua. Ở
Việt Nam nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,1
0
C mỗi thập kỷ. Dự báo nhiệt độ ở
hầu hết các vùng của Việt Nam sẽ tăng 2,4
0
C vào cuối thế kỷ này theo kịch bản khí
thải cao của Ủy ban Liên Chính phủ về sự BĐKH (IPCC).
Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới, nước ta với bờ biển dài và hai vùng đồng
bằng lớn, khi mực nước biển dâng cao từ 0,2 - 0,6 m, sẽ có từ 100.000 - 200.000 ha đất
bị ngập và làm thu hẹp diện tích sản xuất nông nghiệp. Nếu nước biển dâng lên 1m sẽ
làm ngập khoảng từ 0,3 đến 0,5 triệu ha tại đồng bằng sông Hồng và những năm lũ lớn
khoảng trên 90% diện tích của đồng bằng Sông Cửu Long bị ngập từ 4-5 tháng, vào
mùa khô khoảng trên 70% diện tích bị xâm nhập mặn với nồng độ lớn hơn 4g/l. Ước
tính Việt Nam sẽ mất đi khoảng 2 triệu ha đất trồng lúa trong tổng số hơn 4 triệu ha
hiện nay, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực quốc gia và ảnh hưởng đến hàng
chục triệu người dân.
Từ xưa, người dân miền Nam Việt Nam khá nhanh nhẹn trong việc thích ứng với
các quy luật diễn biến thời tiết hằng năm như lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, khan
hiếm nước ngọt, Nông dân đã sáng tạo ra nhiều hình thức “sống chung với lũ”, xây
đê lửng, làm nhà sàn, điều chỉnh lịch thời vụ, Tuy nhiên khoảng năm 2005 về trước,
vấn đề biến đổi khí hậu – nước biển dâng dường như còn khá xa lạ và chưa được quan
tâm đúng mức đối với nhiều người dân và giới lãnh đạo ở miền Nam Việt Nam, mặc
dầu phần lớn trong số họ cũng đã từng nghe đến hiện tượng này.
Đồ án tốt nghiệp
Trang 2 / 128
Các năm gần đây, những diễn biến khí hậu bất thường đã xuất hiện thường xuyên
hơn ở Việt Nam khiến mọi người bắt đầu chú ý và đã có những hoạt động ban đầu
nhằm đối phó và thích ứng với hoàn cảnh mới. Báo chí đã thường xuyên có những
phóng sự về biến đổi khí hậu. Một số Hội thảo về Biến đổi Khí hậu đã được tổ chức ở
TP. HCM và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
Thiên tai cùng với sức ép lên môi trường do sự phát triển kinh tế - xã hội quá nhanh ở
Nam Bộ và các quốc gia thượng nguồn Đông Nam Á khác, trước tình trạng này người
dân Nam Bộ thích nghi bằng nhiều cách khác nhau. Những người sống phụ thuộc trực
tiếp vào nông nghiệp (nông dân trồng lúa) đặc biệt dễ bị tổn thương khi những trận lụt ,
nhiễm mặn và hạn hán liên tiếp xảy ra phá hoại mùa màng.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được biết đến là vùng đất giàu tiềm năng,
có mật độ dân cư đông đúc và do đó đóng vai trò rất quan trọng trong kinh tế xã hội
nước ta. Hàng năm tổng sản lượng nông nghiệp của ĐBSCL chiếm khoảng 50% tổng
sản lượng của cả nước. Ngoài ra, vùng ĐBSCL cũng là nguồn đóng góp sản lượng thủy
sản chủ yếu. Trong cơ cấu nông nghiệp của đồng bằng thì lúa là cây trồng chính, là
nguồn cung cấp sản lượng gạo cho xuất khẩu chủ yếu – khoảng 80% tổng sản lượng
của cả nước. Là nước xuất khẩu gạo lớn hàng đầu trên thế giới, nên vai trò của ĐBSCL
không chỉ hết sức quan trọng đối với an ninh lương thực của Việt Nam mà còn của cả
thế giới. Việc sản xuất lúa ở đây phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước, và bị chi phối
chính bởi vấn đề xâm nhập mặn vào mùa khô và ngập lũ vào mùa mưa. Tác động có
lợi về phương diện nước để tưới lúa sẽ là không đáng kể nếu so sánh với tác động bất
lợi về phương diện lũ gây ra bởi biến đổi khí hậu
Đồ án tốt nghiệp
Trang 3 / 128
Hình 1: Phân bố độ sâu lũ tại thời điểm lũ mở rộng nhất với hai kịch bản “hiện
tại”(2000s) và “tương lai” (2090s) ở Đồng bằng sông Cửu Long.
[23]
Hình trình bày tác động tổng hợp đồng thời của nước biển dâng và lưu lượng lũ
thượng nguồn sông Mekong tăng lên gây ra bởi biến đổi khí hậu. Rất rõ ràng là lũ
trong kịch bản “tương lai” (2090s) lớn hơn rất nhiều so với lũ trong kịch bản “hiện tại”
(2000s) trên cả hai phương diện độ sâu ngập lũ cũng như diện tích bị ngập lũ. Vùng
ngập lũ mở rộng rất nhiều về phía biển, đặc biệt là ở các tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu,
Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, và Cà Mau, những nơi mà trước đó hiếm khi chịu ảnh
hưởng bởi lũ ngay cả đối với trận lũ lịch sử năm 2000. Diện tích vùng ngập lũ (có
chiều sâu ngập lũ ≥ 0.5 m) sẽ tăng thêm khoảng 23% tổng diện tích của ĐBSCL, trong
đó diện tích vùng ngập có chiều sâu > 2.0 m tăng từ 4% trong kịch bản “hiện tại”
(2000s) lên 25% tổng diện tích đồng bằng. Trong kịch bản “hiện tại” không có vùng
nào có chiều sâu ngập lũ > 3.0 m, nhưng trong kịch bản “tương lai” thì diện tích vùng
Đồ án tốt nghiệp
Trang 4 / 128
ngập với độ sâu lớn như vậy chiếm khoảng 4% tổng diện tích đồng bằng, chủ yếu là
nằm ở các tỉnh An Giang và Long An.
Hình 2: So sánh phân bố thời đoạn sản xuất lúa tiềm năng giữa hai kịch bản ở Đồng
bằng sông Cửu Long.
[23]
Với thời gian của một vụ lúa trung bình là 110 ngày, kết quả tính toán cho thấy khoảng
thời gian có thể trồng lúa biến động rất đáng kể trên toàn đồng bằng, từ biên giới
Campuchia ra tới vùng ven biển. Diện tích tiềm năng cho trồng lúa 3 vụ sẽ giảm từ
31% xuống còn 5% tổng diện tích toàn đồng bằng, trong khi diện tích tiềm năng cho
lúa 1 vụ sẽ tăng từ 21% lên tới 62%. Long An nằm ở miền Nam Việt Nam, trong vùng
thiên tai của đồng bằng sông Cửu Long, kinh tế Long An phụ thuộc nhiều vào sản xuất
nông nghiệp, một trong những ngành nhạy cảm nhất đối với BĐKH.
Đồ án tốt nghiệp
Trang 5 / 128
BĐKH tác động đến Long An trên hai phương diện: Một là mức độ bị ảnh
hưởng bởi BĐKH và một số biện pháp cần đưa vào chính sách và quy hoạch của tỉnh
và hai là những biện pháp đối phó. Cần Đước là huyện thuộc vùng kinh tế trọng điểm
của tỉnh Long An, con sông Vàm Cỏ Đông làm ranh giới với huyện Tân Trụ, và một
đoạn Vàm Cỏ làm ranh giới với huyện Châu Thành, phía đông giáp sông Soài Rạp,
phía đông bắc giáp huyện Cần Giuộc, phía bắc giáp huyện Bến Lức. Địa hình khá bằng
phẳng hơi nghiêng về phía biển Đông chia ra làm hai vùng thượng - hạ ranh giới là nơi
kinh Xóm Bồ nối với Rạch Đào. Tuy nhiên, ở vùng hạ một số khu vực dọc theo sông
Vàm Cỏ khá thấp, đặc biệt là hai xã Long Hựu Đông, Long Hựu Tây được bao bọc bởi
sông lớn nên đất nhiễm mặn. Long Hựu Đông xã cuối cùng của tỉnh Long An, nằm đối
mặt với Biển Đông có đồn Rạch Cát, một pháo đài phòng thủ ven biển kiên cố, kiến
trúc độc đáo, được Pháp xây dựng hồi năm 1910, nay được công nhận là di tích lịch sử
cấp quốc gia đáng được chú ý. Với đặc trưng văn hóa lúa nước, địa bàn nhiều sông
rạch chằng chịt, trong quá trình khai phá, chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại
xâm xây dựng quê hương đã để lại nhiều di sản văn hoá, di tích lịch sử có giá trị lớn
như: Nhà trăm cột, Đồn Rạch Cát, lăng mộ và đền thờ Tổng binh Nguyễn Văn Tiến,
Đình Vạn Phước gắn với nơi thờ tự Nghệ nhân - nhạc sư Nguyễn Quang Đại, di tích
lịch sử cách mạng Ngã tư Rạch Kiến, chùa Phước Lâm…, là địa phương có nhiều nghề
truyền thống nổi tiếng như: dệt chiếu, đóng ghe (mũi đỏ), chạm khắc gỗ, làm bánh
phồng…, đặc biệt nổi tiếng với địa danh đặc sản “Gạo Nàng thơm Chợ Đào” và là một
trong những chiếc nôi của phong trào đờn ca tài tử cải lương Nam Bộ. Nên việc chịu
ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và làm tổn hại đến những giá trị hiện có của huyện là
điều không thể tránh khỏi.
Đồ án tốt nghiệp
Trang 6 / 128
Hình 3 : Bản đồ huyện Cần Đước
Đồ án tốt nghiệp
Trang 7 / 128
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề ảnh hưởng của BĐKH đến ngành nông
nghiệp trồng lúa và đưa ra giải pháp thích ứng.
Đối tượng nghiên cứu: Ngành nông nghiệp trồng lúa
Phạm vi không gian: huyện Cần Đước, tỉnh Long An.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu chung:
- Nghiên cứu thực trạng diễn biến BĐKH và phân tích sự đánh giá của cộng đồng
về tác động của BĐKH đến nông nghiệp trồng lúa. Trên cơ sở đó tìm ra các giải
pháp để ứng phó với những tác động của BĐKH.
- Phát triển bền vững ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn trong bối cảnh
chịu tác động của BĐKH.
Mục tiêu cụ thể:
Đánh giá của cộng đồng và các hoạt động để ứng phó đối với vấn đề BĐKH ở vùng
nước ngọt, vùng trồng lúa trên địa bàn huyện Cần Đước tỉnh Long An. Đề xuất một
số giải pháp nhằm ứng phó với BĐKH để góp phần ổn định và phát triển nông
nghiệp trồng lúa của huyện thời gian tới.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu BĐKH trên thế giới, Việt Nam và đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL)
Tìm hiểu số liệu điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội hiện trạng nông nghiệp
huyện Cần Đước, tỉnh Long An.
Tìm hiểu, phân tích nguyên nhân ảnh hưởng của BĐKH đến ngành nông nghiệp
trồng lúa huyện Cần Đước, tỉnh Long An.
Hiện trạng cây lúa trên địa bàn huyên Cần Đước tỉnh Long An.
Đồ án tốt nghiệp
Trang 8 / 128
Đề xuất phương án, giải pháp thích ứng của cây lúa với BĐKH.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cách tiếp cận:
Phỏng vấn nông hộ và các tác nhân thị trường: Bộ bảng câu hỏi phỏng vấn nông
hộ.
Ý kiến chuyên gia.
Phương pháp thu thập số liệu:
- Số liệu sơ cấp: Thu thập số liệu từ cơ quan ban ngành tại địa phương như Sở Tài
nguyên và Môi trường, sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, phòng Nông nghiệp
huyện, các báo cáo tổng kết của tỉnh Long An.
- Số liệu thứ cấp: Số liệu thu được gồm điều tra cấu trúc với bảng câu hỏi soạn sẵn,
phỏng vấn trực tiếp nông dân. Các thông tin thu thập bao gồm nhận thức của người
dân về BĐKH, xu hướng của khí hậu/ thời tiết và cơ sở hạ tầng/ nước sinh hoạt , tác
động của BĐKH và phương pháp ứng phó BĐKH.
Phương pháp thân tích, đánh giá.
6. Các kết quả đạt được của đề tài
Đề tài tổng quan được các ảnh hưởng của BĐKH ngành nông nghiệp trồng lúa của
huyện Cần Đước . Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp các kế hoạch hành động đã
được đề xuất một cách khoa học và hợp lý trong tầm nhìn ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn để áp dụng trực tiếp tại tỉnh Long An.
Nhận biết được những khó khăn về mặt nhận thức của người dân trong việc tiếp
cận các nguồn thông tin BĐKH và các giải pháp thích ứng.
Đồ án tốt nghiệp
Trang 9 / 128
7. Kết cấu chương mục của đồ án
Chương 1: Tổng quan về biến đổi khí hậu
Chương 2: Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến ngành nông nghiệp trồng lúa ở huyện
Cần Đước tỉnh Long An.
Chương 3: Xây dựng biện pháp thích ứng cho cây lúa và người nông dân do sự ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu.
Đồ án tốt nghiệp
Trang 10 / 128
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
1.1. Khái niệm về Biến đổi khí hậu (BĐKH)
1.1.1. Định nghĩa
Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thủy
quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên
và nhân tạo trong một giai đoạn nhất định tính bằng thập kỷ hay hàng triệu năm. Sự biến
đổi có thể do thay đổi thời tiết bình quân hay thay đổi sự phân bố các sự kiện thời tiết
quanh một mức trung bình. Sự biến đổi khí hậu có thể giới hạn trong một vùng nhất định
hay có thể xuất hiện trên địa bàn toàn Địa cầu.
Định nghĩa chung nhất cho sự biến đổi khí hậu là sự thay đổi các đặc điểm mang
tính thống kê của hệ thống khí hậu khi xét đến những chu kỳ dài hoặc hàng thập kỷ hoặc
lâu hơn, mà không kể đến các nguyên nhân.
Trong Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu ( United Nations
Framework Convention on Climate Change) (UNFCCC) định nghĩa biến đổi khí hậu: “là
sự thay đổi của khí hậu mà trực tiếp hoặc gián tiếp do tác động của hoạt động con người
dẫn đến thay đổi thành phần khí quyển toàn cầu và ngoài ra là những biến thiên của khí
hậu được quan sát trên một chu kỳ trong thơi gian dài.”
1.1.2. Nguyên nhân, hậu quả về BĐKH toàn cầu.
Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo
ra các chất thải khí nhà kính, hoặc các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ và bể
chứa khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác.
Để đối phó với thách thức về môi trường toàn cầu, tại “ Hội nghị thượng đỉnh Trái
Đất” năm 1992 tổ chức tại Braxin. Các Bên của Công ước đã thống nhất sẽ ổn định nồng
Đồ án tốt nghiệp
Trang 11 / 128
độ khí nhà kính (KNK) trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can thiệp nguy
hiểm của con người đối với hệ thống khí hậu. Mục tiêu của Nghị định thư Kyoto (KP)
nhằm hạn chế sáu loại khí nhà kính: CO
2
, CH
4
, N
2
O, HFCs, PFCs và SF
6
.
CO
2
gây ra khoảng 9 - 26% hiệu ứng nhà kính, phát thải khi đốt nhiên liệu hóa
thạch (than, dầu, khí), là nguồn KNK chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO
2
cũng sinh ra từ các hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng (nung đá chứa cácbônát)
và cán thép.
CH
4
gây ra khoảng 4 - 9% hiệu ứng nhà kính. Sinh ra từ các bãi rác, lên men
thức ăn trong động vật nhai lại, hệ thống khí, dầu tự nhiên, khai thác than.
N
2
O phát ra từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzon (ODS) và HFC-23 là sản
phẩm phụ của quá trình sản xuất HCFC-22.
Có rất nhiều các ảnh hưởng tiêu cực của hiện tượng biến đổi khí hậu và nóng lên
toàn cầu đối với môi trường và con người. Các hiện tượng mà chúng ta quan sát được bao
gồm sự gia tăng mực nước biển, tan băng ở Bắc cực, ảnh hưởng đến nông nghiệp, sự lan
tràn của các bệnh dịch nhiệt đới, ảnh hưởng tới hệ sinh thái, đa dạng sinh học và tác động
tiêu cực đến nền kinh tế.
Hiện tượng nóng lên toàn cầu làm gia tăng mực nước biển: Theo báo cáo của IPCC
(WHII.IPCC, 2007)
[15]
thì sự biến đổi khí hậu hiện tại và tương lai sẽ làm gia tăng các tác
động đối với các hệ thống đới bao gồm gia tăng xói mòn bờ biển, ngập lụt do nước dâng,
hạn chế các quá trình sản xuất sơ cấp của sinh vật, tăng cường ngập lụt đới bờ, làm thay
đổi chất lượng nước mặt và tính chất của nước ngầm, làm mất mát tài sản và sinh cư gần
bờ biển, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, giao thông, du lịch,…
Nhiệt độ tăng , độ ẩm cao làm gia tăng sức ép về nhiệt đối với cơ thể con người,
nhất là người già, trẻ em, làm bệnh tật đặc biệt là các bệnh nhiệt đới, bệnh truyền nhiễm
Đồ án tốt nghiệp
Trang 12 / 128
thông qua sự phát triển của các loài vi khuẩn, các côn trùng và vật chủ mang bệnh, chế độ
dinh dưỡng và vệ sinh môi trường thủy sản. Nhiệt độ tăng lên ảnh hưởng đến các sinh thái
tự nhiên, làm dịch chuyển các ranh giới nhiệt của các hệ sinh thái lục địa và hệ sinh thái
nước ngọt, làm thay đổi cơ cấu các loài thực vật và động ở một số vùng, một số loài có
nguồn gốc ôn đới và á nhiệt đới có thể mất đi dẫn đến suy giảm tính đa dạng sinh học.
Theo ước tính của Diễn đàn khí hậu Châu Âu (European Climate Forum) thì ở Úc khi
nhiệt độ tăng lên 1,5 - 2
0
C so với giai đoạn tiền công nghiệp thì sẽ đe dọa các loài và hệ
sinh thái khu vực núi cao, các rạng san hô và đất ngập nước nhiệt đới. Ở Nga, quần thể
gấu Bắc cực cư trú ở rìa Bắc nước Nga và loài báo tuyết ở vùng núi cao Altai-Sayan sẽ bị
đe dọa tuyệt chủng. Khu vực Bắc Cực, nhiệt độ tăng lên làm tan băng sẽ làm gấu bắc cực,
hải mã, chim biển và hải cẩu tới con đường tuyệt chủng và các loài khác như cáo bắc cực,
loài chim cú tuyết…sẽ bị đặt vào mức rủi ro. Khu vực Nam Phi, 25% các loài thực vật đặc
hữu bản địa sẽ bị biến mất khi nhiệt độ nóng lên khoảng 2,4
0
C.
Làm khan hiếm tài nguyên nước: Nước biển tăng sẽ làm tăng xâm nhập mặn vào
nước ngầm, ảnh hưởng đến sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp khu vực đới bờ. Tăng khả
năng bốc hơi làm giảm hiệu lực của các hồ chứa. Việc tăng các hiện tượng cực đoan nghĩa
là tăng lượng mưa đối với các khu vực đất cứng - khu vực mà không có khả năng hấp thụ
nó từ đó dẫn đến là tăng hiện tượng lũ quét thay vì cung cấp lũ quét thay vì cung cấp độ
ẩm cho đất và gia tăng mực nước ngầm. Việc giảm dòng chảy bề mặt đã ảnh hưởng đến
tưới tiêu mùa màng đặc biệt là khu vực Nam châu Phi và Trung Phi.
Ảnh hưởng đến sức khỏe con người: Ảnh hưởng trực tiếp từ việc gia tăng nhiệt độ
làm tăng số lượng người trong ngày vì nhiều lý do: người có vấn đề về tim mạch sẽ nhạy
cảm hơn bởi hệ thống tim mạch của họ phải hoạt động vất vả hơn để giữ cơ thể mát mẻ
trong thời tiết oi bức, thể trạng suy kiệt vì nhiệt và các vấn đề về hệ thống hô hấp sẽ tăng.
Nhiệt độ không khí cao hơn cũng sẽ tăng nồng độ ôzon ở mặt đất nó làm tổn hại đến phổi
và các bệnh về hen suyễn. Tăng nhiệt độ có hai ảnh hưởng trái ngược nhau về tỉ lệ tử
vong, nhiệt độ cao hơn trong mùa đông sẽ làm làm giảm những cái chết do lạnh, trong
mùa hè lại làm tăng số người chết do nhiệt.
Đồ án tốt nghiệp
Trang 13 / 128
Ngoài ra, biến đổi khí hậu còn ảnh hưởng về kinh tế - xã hội, môi trường như đe
dọa an ninh, chủ quyền lãnh thổ, mất mát các giá trị văn hóa, rừng,…
1.2. Biến đổi khí hậu thế giới
Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), 2007 dự đoán một số tác động
cho các khu vực thế giới như sau:
Bảng 1.1: Bảng dự đoán một số khu vực bị tác động bởi biến đổi khí hậu của thế
giới.
[15]
Châu Phi
Vào năm 2020, khoảng 75 - 200 triệu người gánh chịu các sức ép khan
hiếm tài nguyên nước. Và ở một số quốc gia sản lượng nông nghiệp có
thể giảm đến 50%. Sản xuất nông nghiệp bao gồm cả việc tiếp cận với
nguồn lương thực, ở nhiều nước Châu Phi bị tổn thương nghiêm trọng.
Điều này ảnh hưởng đến an ninh lương thực và làm gia sự thiếu ăn, suy
dinh dưỡng.
Đến cuối thế kỷ 21, mực nước gia tăng gây ảnh hưởng đến các khu vực
vùng duyên hải ven biển nơi tập trung đông dân cư. Chi phí để thích ứng
với vấn đề này sẽ chiếm từ khoảng từ 5 - 10% tổng sản phẩm quốc nội.
Đến năm 2080, khu vực khô hạn và bán khô hạn sẽ tăng khoảng 5 - 8%.
Châu Á
Vào những năm 50 của thập kỷ này, nguồn nước ngọt ở Trung, Nam và
Đông Nam Á, đặc biệt là lưu vực các sông lớn ngỳa càng trở nên khan
hiếm. Khu vực đới bờ đặc biệt là các thành phố lớn sẽ bị đe dọa bởi lụt
lội của nước biển dâng trong khi đó thì các đồng bằng lớn thì bị ngập lụt
bởi các con sông.
Đồ án tốt nghiệp
Trang 14 / 128
Biến đổi khí hậu cộng hưởng với quá trình đô thị hóa nhanh chóng, phát
triển kinh tế và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa đã gây sức ép đối
với nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Bệnh dịch tiêu chảy gia tăng và hoành hành ở khu vực Đông, Nam và
Đông Nam Á gây ra nhiều cái chết. Ngoài ra, lụt lội và hạn hán và
những thay đổi chu trình thủy văn cũng đe dọa đến tính mạng của con
người.
Úc và New
Zealand
Vào năm 2020, các mất mát đáng kể về đa dạng sinh học xảy ra ở một
số khu vực giàu có về tài nguyên sinh vật bao gồm các rạn san hô lớn ở
New Zealand, khu vực đất ngập nước nhiệt đới ở Queensland (Úc).
Vào năm 2030, vấn đề an ninh nguồn nước trở nên cấp bách, khốc liệt
hơn ở Đông Úc, phía Bắc và một số vùng ở phía đông New Zealand.
Cũng vào khoảng thời gian này hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp sẽ
giảm mạnh ở phía Nam và Đông Úc. Khu vực phía đông New Zealand
hoạt động sản xuất này bị ảnh hưởng do hạn hán và cháy rừng. Tuy
nhiên, ở một số vùng khác lại được hưởng lợi.
Vào năm 2020, sự gia tăng dân số và hoạt động phát triển vùng đới bờ ở
một số khu vực của Úc và New Zealand đã làm trầm trọng thêm các rủi
ro liên quan đến sự gia tăng mực nước biển, tần số và cường độ của các
cơn bão cũng như lụt lội.
Đồ án tốt nghiệp
Trang 15 / 128
Châu Âu
Các tác động tiêu cực ở khu vực Châu Âu bao gồm tăng rủi ro của lũ
quét ở vùng nội địa và lũ lụt thường xuyên hơn ở khu vực đới bờ bởi sự
gia tăng cường độ của các cơn bão và nước biển dâng.
Khu vực vùng núi đối mặt với sự sụt giảm của băng tuyết núi cao, giảm
độ cao bao phủ của băng tuyết, từ đó dẫn đến giảm hoạt động du lịch
vào mùa đông và làm mất đi nhiều loài động thực vật (ở một số khu vực
mát về băng tuyết bao phủ, hoạt động du lịch và các loài sinh vật đến
60% trong kịch bản phát thải khí thải nhà kinh cao vào năm 2080).
Ở khu vực Nam Âu, biến đổi khí hậu làm tồi tệ hơn các điều kiện như
độ tăng cao và hạn hán. Đây là vùng mà vốn đã dễ bị tổn thương với các
dao động khí hậu. Biến đổi khí hậu làm tài nguyên nước, tiềm năng thủy
điện, hoạt động du lịch vào mùa hè, năng suất màu màng nói chung bị
sụt giảm ở khu vực này.
Biến đổi khí hậu cũng tăng rủi ro về các đợt nóng và cháy rừng.
Mỹ Latinh
Vào giữa thế kỷ này, sự gia tăng nhiệt độ và giảm nguồn tài nguyên
nước đã dẫn đến sự thay thế dần rừng nhiệt đới bằng các thảo nguyên
nhiệt đới (Savanna) ở khu vực phía nam Amazon. Thự vật bán khô hạn
sẽ được thay thế dần bởi thực vật vùng đất khô hạn.
Có một rủi ro cho sự mất mát đa dạng sinh học đáng kể đó là sự tuyệt
chủng các loài ở nhiều khu vực nhiệt đới châu Mỹ Latinh. Năng suất các
vụ mùa quan trọng và động vật nuôi sẽ giảm. Điều này gây ra hậu qua
Đồ án tốt nghiệp
Trang 16 / 128
nghiêm trọng đối với an ninh lương thực. Thay đổi nền mưa và biến mất
các dãy núi băng cao cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước cho
con người, hoạt động nông nghiệp và năng lượng.
Bắc Mỹ
Khu vực miền núi phía Tây nóng lên làm giảm băng tuyết, lụt nhiều hơn
về mùa đông và làm giảm lưu lượng dòng chảy vào mùa hè từ đó làm
gia tăng sự cạnh tranh về việc phân bổ tài nguyên nước.
Vào đầu thế kỷ này, sự thay đổi thời tiết ở mức vừa phải đã đem lại một
sự gia tăng sản lượng nông nghiệp 5 - 20% nhưng có sự dao động giữa
các vùng.
Các thành phố hiện đang trãi qua các đợt nóng có thể sẽ pải gánh chịu
thêm các đợt nóng nữa với sự gia tăng cả về tầng suất và nồng độ và thời
gian. Điều này sẽ tác động tiêu cực đến sức khỏe con người.
Các quần xã, nơi sinh cư của các loài sinh vật và của các động vật ven
biển sẽ bị sức ép từ biến đổi khí hậu nhiều hơn do sự gia tăng các hoạt
động phát triển và ô nhiễm ở khu vực này.
Vùng cực
Giảm độ dày và quy mô của các dãy băng và các tản băng ở biển, thay
đổi hệ sinh thái tự nhiên đã đem đến nhiều bất lợi cho nhiều sinh vật bao
gồm chim di cư, động vật có vú và chim săn mồi.
Đối với Bắc cực chịu tác động của sự thay đổi băng tuyết, các tác động
có hại bao gồm, các hoạt động đến cơ sở hạ tầng và cách sống truyền
thống,…
Đồ án tốt nghiệp
Trang 17 / 128
Các đảo
nhỏ
Mực nước dâng cao sẽ làm trầm trọng hơn các tai biến về lụt lội, nước
biển dâng trong bão, sói mòn và các thảm họa vùng bờ khác, đe dọa các
cơ sở vật chất, nơi ở của các cộng đồng dân cư sinh sống trên các đảo
đó.
Tàn phá các điều kiện vùng bờ như tăng sói mòn bờ biển, làm chết các
rạn san hô. Điều này sẽ ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên thiên nhiên ở
khu vực này.
Đến giữa thế kỷ, biến đổi khí hậu làm giảm tài nguyên nước ở nhiều đảo
nhỏ ví dụ: Các đảo ở vùng Ca -ri-bê và Thái Bình Dương đến mức mà
nó không đáp ứng đủ nhu cầu khi ít mưa.
Với nền nhiệt độ cao hơn sẽ làm gia tăng sự xâm nhập của các loài
ngoại lai, đặc biệt là các đảo ở vĩ độ trung bình đến cao.
Nguồn: Biến đổi khí hậu và cơ chế phát triển sạch, Hà Nội, 2008
1.2.1. Châu Á
Các sông băng trên toàn cầu đang tan ở mức báo động. Sông băng là những khối
nước đá trôi chậm rãi, tích trữ tuyết qua hàng thập kỷ, thậm chí hàng thế kỷ. Sông băng
chảy xuống núi, tan ra ở những đoạn thấp hơn trong khi tuyết vẫn tiếp tục tích tụ phía trên.
Do có sự tái tích tụ liên tục này thông qua tích trữ tuyết vào mùa đông, sông băng giữ
được nước trong suốt những tháng mùa đông, cung cấp nước cho sông ngòi trong suốt
những tháng mùa hè, giúp điều hòa các dòng chảy.
Các khối sông băng đang thu nhỏ lại tạo thêm một lần cung cấp nước “phụ trội”
cho các vùng hạ lưu. Vì khả năng tích trữ của sông băng mất đi, nguy cơ lũ lụt sẽ tăng về
trung hạn. Điều này ảnh hưởng đến nông nghiệp nông thôn và những khu vực nằm trong
Đồ án tốt nghiệp
Trang 18 / 128
vùng châu thổ. Sự biến mất của sông băng đồng nghĩa với việc cung cấp nước giảm dòng
chảy sẽ không đến đúng thời gian thích hợp, nước sẽ không đến đúng mùa trồng trọt.
Dãy Himalaya vốn được biết đến như một tháp nước lớn của Châu á. Trong các
dòng sông được tiếp nước bởi sông băng bắt nguồn từ dãy Himalaya bao quanh Cao
nguyên Tây Tạng có cả những dòng sông lớn chảy đi khắp nơi trên thế giới. Năm 2000,
lưu vực các sông Ấn, Hằng, Brahmaputra, Irrawaddy, Salween, Mê Kông, Dương Tử,
Hoàng Hà cấp nước cho 1,4 tỉ người , gần ¼ dân số thế giới.
Kết quả của việc tăng cường canh tác trên những vùng đất được cấp nước và phát
triển điện năng là có nhiều triệu người hiện đang phụ thuộc một cách gián tiếp vào lương
thực và các nguốn năng lượng của các con sông lớn này cung cấp. Nhưng những con sông
này cũng đồng thời là nguồn cung cấp các nguồn sinh kế trực tiếp cho người làm nông
nghiệp cần tưới tiêu, đánh bắt, nuôi trồng thủy sản. Những thay đổi của các con sông như
vậy cùng các dạng sinh kế phụ thuộc vào chúng có thể gây ra những ảnh hưởng sâu sắc về
kinh tế, văn hóa và nhân khẩu học.
Hình1.1: Bản đồ biến đổi khí hậu ở Châu Á
[18]
Đồ án tốt nghiệp
Trang 19 / 128
Bản đồ này phát họa những khối sông băng (màu trắng viền xanh) ở dãy Himalaya
và những con sông chính bắt nguồn từ đó. Những con sông này cung cấp nước cho
các khu vực rộng lớn (màu xanh sẫm) và các trung tâm dân cư chính (màu đỏ). Tuy
nhiên những khối sông băng nuôi dưỡng chúng đang bị thu nhỏ lại. Sự giảm dòng
chảy sẽ ảnh hưởng đến những khu vực cấp nước, nhưng khả năng di cư khỏi vùng
nông nghiệp vẫn là khó dự đoán và còn phụ thuộc vào các ứng phó mang tính thích
nghi xây dựng đập và áp dụng các kỹ thuật tưới tiêu hiệu quả. Những ảnh hưởng
rộng hơn về an ninh lương thực ở vùng đông dân này có thể là nghiêm trọng.
1.2.2. Mexico và Trung Mỹ
Mexico và Trung Mỹ đang đứng trước sự đe dọa của nhiều hiểm họa liên quan đến khí
hậu. Khu vực này được biến đến với nhiều cơn lốc xoáy nghiêm trọng, như cơn bão Mitch
năm 1998 đã tàn phá Honduras và Nicaragua, cũng như cơn bão Stan năm 2005 đã ảnh
hưởng đến Mexico và Guatemala. Cơn bão nhiệt đới năm 2007 đã gây lũ lụt nặng ở bang
Tabasco, khiến 80% diện tích bị nhấn chìm trong nước.
Các quá trình gây thoái hóa chậm của đất bao gồm phá rừng, xói mòn đất và sa mạc
hóa đã ảnh hưởng lớn đến nhiều vùng Mexico và Trung Mỹ. Trong các hệ sinh thái khô
hạn và bán khô hạn dễ bị tổn thương ở khu vực phí bắc Mexico, hơn 60% diện tích đất bị
xem là đang trong tình trạng xói mòn toàn bộ hoặc đang trong tình trạng xói mòn nhanh
chóng; vùng đất đồi núi với độ dốc cao trong toàn vùng cũng đang phải trải qua nạn phá
rừng và xói mòn đất. Ở những vùng khô hạn như Tlaxcala, nơi nền nông nghiệp phụ thuộc
vào nước mưa, tuy nhiên lượng mưa thất thường làm cho mùa màng thất bát và thu nhập
giảm sút.
Các xu hướng di cư trong nước và quốc tế đã hình thành khá rõ ở Mexico và Trung
Mỹ, song khó mà dự đoán được ảnh hưởng có thể có của các xu thế khô hóa liên quan đến
biến đổi khí hậu. Tuy nhiên các tác nhân môi trường như hiện tượng sa mạc hóa và thời
tiết cực đoan đã dẫn đến những kịch bản phức tạp cho tình trạng di cư của con người trong
Đồ án tốt nghiệp
Trang 20 / 128
khu vực. Cơ hội để một số người di cư theo mùa, gửi tiền hỗ trợ và trở về quê nhà là một
dẫn chứng cho thấy di cư tạm thời là một chiến lược thích nghi trước tình trạng môi
trường đang bị hủy hoại.
Hình1.2: Bản đồ biến đổi khí hậu ở Mexico và Trung Mỹ
[18]
Bản đồ này phát họa những thay đổi về lượng nước bề mặt được dự đoán cho năm
2080. Lượng nước bề mặt là một chỉ số đo lượng nước sẳn có và lượng nước mưa
chảy trên mặt đất sau quá trình bốc hơi, thoát hơi ở thực vật và bổ sung hơi ẩm cho
đất. Mexico và Trung Mỹ sẽ bị ảnh hưởng mạnh bởi sự giảm sút lượng hơi nước bề
mặt. Bản đồ gốc trái phía trên cho biết lượng nước chảy bề mặt trung bình hàng
năm trong giao đoạn 1960 - 1990, một giá trị để so sánh giá trị suy giảm trong
tương lai. Bản đồ ở gốc bên trái phía dưới cho thấy những vùng đất thích hợp với
canh tác nông nghiệp dùng nước mưa sẽ bị ảnh hưởng đặc biệt bởi quá trình khô
Đồ án tốt nghiệp
Trang 21 / 128
hóa đang gia tăng không ngừng ở khu vực. Bản đồ ở gốc phải phía dưới cho biết
tần suất lốc xoáy trong giai đoạn 1980 - 2000.
1.2.3. Khu vực Sahel
Tây Phi là vùng đất với các hệ sinh thái đa dạng, từ nhiệt đới ẩm ở phía Nam cho tới khô
hạn ở phía Bắc. Trong khi các dự đóan biến đổi khí hậu về lượng mưa tuyết theo mùa
hoặc hàng năm vẫn chưa chắc chắn, thì dự báo về sự gia tăng cường độ mưa bổ sung vào
tính biến đổi khí hậu vốn đã cao của vùng dường như sẽ khiến tần suất của hạn hán và lũ
lụt gia tăng. Sự thiếu nước và thoái hóa đất ảnh hưởng tới nhiều vùng trong khu vực
Sahel, một khu vực nằm trong phía nam Sahara và phía bắc của một khu vực ẩm ướt kéo
dài, từ Mauritania và Senegal tới Sudan. Khu vực Sahel thuộc Tây Phi đã chứng kiến hai
đợt hạn hán - một đợt hạn hán từ năm 1968 - 1974 làm 100.000 người chết, phần lớn là trẻ
em và một đợt khác ít khắc nghiệt hơn vào năm 1982 - 1984 làm được xem là một trong
những đợt hạn hán tồi tệ nhất trong lịch sử. Những đợt hạn hán này và hệ quả sau đó là sự
thoái hóa đất ngày nay, được hiểu một phần là do sự ấm lên của các biển nhiệt đới, một
hiện tượng mà bản thân nó cũng xuất phát từ biến đổi khí hậu do con người gây ra.
Khoảng 44% dân số Tây Phi làm nông nghiệp, phần lớn trong số đó là tự cung tự
cấp. Mặc dù khu vực có khí hậu đa dạng này phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, những vùng
thực sự được tưới tiêu ở đây lại nằm trong vùng được cấp nước ít nhất thế giới tính trên
một đơn vị diện tích. Mặc dù khu vực Sahel đã chứng kiến một sự “xanh hóa” trở lại từ
sau đợt hạn hán vào giữa những năm 1980, thì khoảng 2,6% diện tích khu vực này vẫn có
tỉ lệ tăng dân số cao thứ hai thế giới (sau Trung Phi). Sự tăng dân số này kết hợp với sự
vận động của khí hậu và tình trạng thoái hóa đất có thể dẫn tới: Giảm sản xuất nông
nghiệp theo đầu người, bao gồm cả hăn nuôi gia súc, thiếu củi đun, giảm lượng mưa ở một
số khu vực kéo theo nền nông nghiệp dùng nước mưa và tưới tiêu, thiếu lương thực và nạn
đói trong những năm hạn hán, luồng di cư ra thành thị hoặc tới những khu công nghiệp
màu mỡ hơn, như những vùng mới mở gần đây ở khu vực Savannah.
Đồ án tốt nghiệp
Trang 22 / 128
Hình1.3: Bản đồ biến đổi khí hậu ở khu vực Sahel
[18]
Bản đồ phát họa sự suy giảm lượng nước chảy trên bề mặt dự đoán đến năm 2080
trên mật độ dân cư. Lượng nước bề mặt là một chỉ số đo lượng nước sẳn có và
lượng nước mưa chảy trên mặt đất sau quá trình bốc hơi, thoát hơi ở thực vật và bổ
sung hơi ẩm cho đất. Bản đồ giữa cho biết diện tích thích hợp cho canh tác dùng
nước mưa. Bản đồ phía bên phải cho biết sự phân bố đồng cỏ, một nguồn siinh kế
quan trọng của khu vực Sahel.
1.2.4. Đồng bằng sông Hằng
Tính cả sông Hằng và Bangladesh có bảy con sông lớn và hơn hai trăm con sông
nhỏ, tất cả tạo nên vùng địa lý châu thổ đặc trưng của Bangladesh và lối sống của người
dân nơi đây. Hơn năm triệu người Bangladesh sống trong những vùng rất dễ bị tổn thương
Đồ án tốt nghiệp
Trang 23 / 128
bởi lốc xoáy và sóng thần và hơn một nửa dân số sống dọc theo 100 km bờ biển mà hầu
hết chưa cao hơn mực nước biểm 12 m. Lũ lụt đang khiến khoảng 500.000 người bị mất
chổ ở mỗi năm. Năm 2007, có hai có hai biến cố thời tiết đã tán phá đất nước này. Một
trận lụt làm 3.363 người chết và ảnh hưởng tới 10 triệu người khác, đồng thời làm giảm
13% sản lượng mùa màng. Chỉ vài tháng sau đó, cơn lốc xoáy Sidr đã phá hủy 1,5 triệu
ngôi nhà cùng nhiều vùng trồng trọt và rừng ngập mặn lớn, ảnh hưởng tới 30 trên tổng số
64 quận của cả nước.
Luồng di cư tạm thời do lũ lụt và các thảm họa khác, thường là hướng tới Dhaka và
các trung tâm đô thị khác, vừa được xem như một chiến lược ứng phó vừa là chiến lược
sinh tồn để thoát khỏi sự xói mòn bờ sông, sự tàn phá của những cơn lốc xoáy và tình
trạng mất an ninh lương thực.
Hình 1.4: Bản đồ biến đổi khí hậu khu vực sông Hằng
[18]
Bản đồ mô tả những vùng có mực nước biển dâng cao 1 và 2 mét (tương ứng là
xanh nước biển sẫm và nhạt) trên bản đồ với mật độ dân cư với khu vực thành thị
Đồ án tốt nghiệp
Trang 24 / 128
được đánh dấu. Bản đồ gốc trái phía trên cho biết những khu vực chịu ảnh hưởng
của lốc xoáy nhiệt đới thường xuyên nhất trong đó mực nước biển dâng ít hơn phía
đông nam của đồng bằng bị ảnh hưởng nhiều nhất. Bản đồ ở gốc trái phía dưới cho
biết diện tích bị ảnh hưởng bởi trận lụt năm 2007. Bản đồ ở giữa cho biết tình hình
phân bố đất nông nghiệp. Đồng bằng này có 8,5 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó
486 ngàn ha sẽ bị nhấn chìm khi mực nước biển dâng lên 2 mét.
1.2.5. Đồng bằng sông Nile
Ở Ai Cập, những hiện tượng diễn tiến chậm như nước biển dâng và sa mạc hóa
đang tác động đến đồng bằng sông Nile. Những vùng có khả năng sản xuất tốt nhất ở Ai
Cập là đồng bằng sông Nile và thung lũng sông Nile (chiếm 3% tổng diện tích). Sự dâng
lên của mực nước biển sẽ khiến dân cư vốn đang gia tăng nhanh chóng di chuyển đến
những vùng đông đúc hơn. Tình trạng sa mạc hóa và thoái hóa đất đang diễn ra ở những
vùng rộng lớn phía Đông và phía Tây sông Nile. Những vùng đất đó có thể trở thành
hoang hóa bởi tác động kép của hai nhân tố liên quan đến biến đổi khí hậu là sa mạc hóa
và nước biển dâng. Trong tương lai, hiện tượng nước dâng còn có thể ảnh hưởng thêm tới
16% dân số.
Tổng diện tích các cồn cát và đất bị ảnh hưởng bởi sự xâm lấn của cát và đất bị ảnh
hưởng bởi sự xâm lấn của cát ước tính xấp xỉ 800.000 ha. Năng suất của đất hiện đã giảm
khoảng 25% so với năng ban đầu. Tốc độ xói mòn hàng năm ước tính là khoảng giữa 0,8 -
5,3 tấn/ha/năm. Sa mạc hóa và thoái hóa đất đã khiến một bộ phận dân phải di cư trong
nước để tìm kế sinh nhai.
Đồ án tốt nghiệp
Trang 25 / 128
Hình 1.5: Bản đồ biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Nile
[18]
Bản đồ mô tả những vùng có mực nước biển dâng cao 1 và 2 mét (tương ứng là
xanh nước biển sẫm và nhạt) trên bản đồ với mật độ dân cư với khu vực thành thị
được đánh dấu. Bản đồ cũng cho biết biên giới của đồng bằng sông Nile. Đồng
bằng sông Nile nuôi sống 40,2 triệu người vào năm 2000, trong số đó 10,7 triệu
người sống ở vùng sẽ bị nhấn chìm khi mực nước biển dăng lên 2 mét. Bản đồ lồng
thêm vào cho biết tình trạng phân bố đất nông nghiệp. Đồng bằng có 1,5 triệu ha
đất nông nghiệp trông đó 518 ngàn ha sẽ bị nhấn chìm khi mực nước biển dăng lên
2 mét.
1.3. Biến đổi khí hậu Việt Nam