Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận môn cơ sở lý luận báo chí xu hướng của báo in hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.85 KB, 13 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Báo chí là sản phẩm thuộc kiến trúc thượng tầng, nó ra đời và phát triển
do nhu cầu thơng tin của xã hội. Vì thế, một mặt báo chí được sử dụng như
một phương tiện tuyên truyền, giáo dục, cổ động nhân dân, mặt khác nó trở
thành diễn đàn của mọi người về các lĩnh vực của đời sống. Khơng có một
đảng phái, tổ chức, lực lượng kinh tế xã hội nào không sử dụng báo chí với tư
cách như một phương tiện thơng tin để phục vụ các mục tiêu của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong thời gian qua, báo chí nước ta
đã phát huy thế mạnh của mình trong việc phản ánh sự thay đổi kỳ diệu của
Việt Nam sau thời kỳ đổi mới. Ngồi việc thơng tin về tình hình phát triển
mọi mặt của xã hội như kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục… đáp ứng nhu cầu
thơng tin cho tồn thể nhân dân. Trong q tình hội nhập thời cơ và thách
thức, báo chí cịn trở thành yếu tố quan trọng trong quản lý kinh tế xã hội, góp
phần cùng với nhà chức trách tìm ra những phương pháp hợp lý nhằm giải
quyết các nhiệm vụ thực tiễn.
Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, qua báo chí, chúng ta đã chứng kiến
sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động hợp tác và đầu tư nước ngoài, những
cơ hội và thách thức mà nền kinh tế mở đã và đang đem lại cho chúng ta. Một
trong những hoạt động nổi bật của kinh tế đối ngoại.
Sự gia tăng nhanh chóng và ngày càng hồn thiện của mạng lưới thơng
tin đại chúng đã giúp chúng ta có thể dễ dàng tiếp cận các thông tin, cùng lúc
bằng các cách thức khác nhau, qua phát thanh, truyền hình, báo in, báo điện
tử (Internet)… Về vấn đề, báo chí đã có những phản ánh tổng qt về tình
hình, những thành tựu đã đạt được cũng như những bất cập còn tồn tại. Từ đó
báo chí đưa ra những đề xuất, kiến nghị giúp các cơ quan có thẩm quyền rút

1


kinh nghiệm, kịp thời bổ sung và đề ra những chính sách có tác dụng thúc đẩy


hoạt động giao lưu hội nhập quốc tế.
So với các loại hình khác, báo in chiếm ưu thế hơn hẳn trong việc
thông tin đến bạn đọc nhờ được phát hành rộng rãi và tình định kỳ dễ theo
dõi. Tuy nhiên thực trạng mà báo in phản ánh cụ thể như thế nào, hiệu quả
phản ánh mà nó đạt được ra sao, cần có những cải tiến theo hướng nào để
hiệu quả đạt được ngày càng hoàn hảo hơn nữa. Đây là một vấn đề tương đối
quan trọng, cần được xem xét dưới góc độ báo chí học.
2. Tình hình nghiên cứu.
Để nội dung của đề tài được cập nhật và sinh động, người viết tập trung
xem xét thông tin qua sự phản ánh của 2 tờ báo: Thời báo Kinh tế Việt Nam
(cơ quan của Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam) và Lao Động (cơ quan của
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) từ nằm 2002 đến năm 2004. Qua quá
trình sưu tầm, phân loại tư liệu về đề tài này ở 2 tờ báo trên, chúng tôi thống
kê được tổng cộng 331 tin, bài (thuộc các thể loại bài phản ánh, phóng sự,
điều tra, ký chính luận…). Cụ thể: Lao Động - 234 tin, bài (98 tin, 136 bài);
Thời báo Kinh tế Việt Nam - 97 tin, bài (54 tin, 43 bài). Qua đó, thấy được lợi
ích và tính thiết thực trong việc xem xét hiệu quả thơng tin của báo chí nói
chung, của Thời báo Kinh tế Việt Nam và Lao Động nói riêng, để báo chí
ngày càng nâng cao hơn nữa hiệu quả đó trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của cơ sở lý luận báo chí, bước đầu tiếp cận
với phương pháp luận báo chí học mà người viết tiếp thu được trong thời gian
học tập vừa qua, đặc biệt là dưới sự chỉ dạy tận tình của các thầy cơ giáo
trong Khoa Báo chí - Trường Học Viện Báo Chí Và Tuyên Truyền. Đó là
phương pháp luận khoa học, sáng tạo dựa trên yếu tố biện chứng của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để tìm hiểu các văn kiện, nghị

2



quyết của Đảng, Nhà nước về vấn đề Lao động. Ngoài ra, người viết cũng sơ
bộ xem xét hệ thống tư liệu mang tính pháp lý của Việt Nam, Bộ luật lao
động, Luật hợp tác và đầu tư cũng như các tin, bài, ảnh tên các phương tiện
thông tin đại chúng nói chung về hoạt động Báo chí Việt Nam trong quá trình
hội nhập thời cơ và thách thức.

3


NỘI DUNG
I. Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về Báo chí Việt Nam
trong q trình hội nhập - thời cơ và thách thức
Từ cuối 1986, ở Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới sâu sắc
và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Cùng
với đó là những thay đổi tích cực trong đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước ta để xây dựng một mơi trường pháp lý hồn chỉnh, phù hợp với
tình hình mới.
Đại hội Đảng VI (12/1986) đã chỉ ra những phương hướng mục tiêu và
nhiệm vụ cải tạo, xây dựng, phát triển kinh tế cho kế hoạch 5 năm 1986-1990.
Đây là thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung sang cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước. Sự chuyển đổi này được thực hiện bằng hàng loạt
các chính sách và chỉ thị, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Luật đầu
tư nước ngoài ra đời năm 1988 nhằm mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với
nước ngoài, phát triển nền kinh tế quốc dân, đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở
khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên, lực lượng lao động và các tiềm năng
khác của đất nước. Đây là bước đổi mới tích cực cho nền kinh tế Việt Nam.
Đại hội Đảng VI là một mốc son lịch sử đánh dấu sự chuyển biến quan trọng
về đổi mới chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế. Những thành công
mà Đại hội Đảng VI đạt được đã trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng ở mức độ cao trong kế hoạch 5 năm 1990 - 1995 tại Đại hội VII.

Đại hội Đảng VII đã chỉ rõ “Đổi mới toàn diện nhằm ổn định vững mọi
mặt đời sống kinh tế xã hội, tạo thế phát triển nhanh. Đại hội Đảng VII cũng
thông qua cương lĩnh về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2002. Đại hội đề ra
mục tiêu tổng quát nhiệm kỳ khóa VII là “vượt qua khó khăn thử thách, ổn
định và phát triển kinh tế xã hội”.

4


Để mục tiêu phấn đấu trở thành hiện thực, Nhà nước ta đã có những nỗ
lực đẩy mạnh hoạt động lập pháp và lập quy một cách tích cực, sơi động và
hiệu quả. Từ 1986 đến nay đã có hơn 100 Bộ luật và Pháp lệnh ra đời. Trên
cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành hàng trăm Nghị định hướng dẫn thi hành
luật, pháp lệnh cũng như điều chỉnh nhiều vấn đề, kể cả những vấn đề có tính
thử nghiệm chưa được pháp luật quy định.
Về kinh tế, khung pháp luật ngày càng được hoàn thiện để đảm bảo tin
cậy và an toàn cho các hoạt động đầu tư kinh doanh. Đặc biệt, Hiến pháp năm
1992 ra đời đã khẳng định những nguyên tắc pháp lý cơ bản cho việc xây
dựng ở Việt Nam một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, nhiều luật và pháp lệnh đã kịp thời
bổ sung và sửa chữa cho phù hợp với thực tiễn trong từng thời kỳ. Trong đó
Luật đầu tư nước ngồi tại Việt Nam, Luật khuyến khích đầu tư trong nước đã
tích cực đi vào cuộc sống và thể hiện ở mức tăng trưởng đầu tư nước ngồi
vào Việt Nam. Mơi trường pháp lý về đầu tư được cải thiện rõ rệt. Các nhà
đầu tư trong và ngoài nước đã yên tâm hơn để mở rộng kinh doanh, phát triển
thị trường…
Trong đường lối chính sách pháp luật, chúng ta luôn luôn quán triệt
phương châm đảm bảo cho môi trường đầu tư không chỉ phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam mà cũng phù hợp với thực tiễn quốc tế ở

mức độ cho phép.
II. Báo chí Việt Nam trong q trình hội nhập - Thời cơ và thách
thức
Báo chí truyền thống là sản phẩm của kiến trúc thượng tầng xã hội và
hoạt động trực tiếp trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị. Với đặc tính là phương
tiện thơng tin thời sự, đề cập đến mọi hoạt động thuộc mọi lĩnh vực của đời
sống, báo chí Việt Nam đã và đang thực hiện nghiêm túc tiêu chí cơ bản trong

5


hoạt động của mình: “Thơng tin phong phú, đa dạng, nhiều chiều nhưng phải
đúng định hướng; nhanh chóng, kịp thời nhưng phải phản ánh đúng, chính
xác, khách quan”.
Có thể nói, chưa bao giờ, thơng tin trên báo chí truyền thơng lại phát
triển nhanh về số lượng, quy mô, nội dung, hình thức, cách truyền dẫn như
hiện nay. Ở nước ta, lượng thông tin truyền đi trong những năm gần đây bằng
lượng thông tin của nhiều thập kỷ trước gộp lại. Tính đến năm 2002, cả nước
hiện có trên 600 đơn vị báo chí. Hệ thống đa dạng: báo viết, báo nói, báo
hình, Internet, điện tử… tạo nên sự đa dạng kênh thông tin, đáp ứng ngày
càng cao nhu cầu thông tin của xã hội. Thơng tin báo chí có nội dung truyền
bá, phổ biến những quan điểm, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng,
Nhà nước; phát hiện và trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh chống tiêu cực;
tuyên truyền, cổ động cho những nhân tố mới, các mô hình và các điển hình
tiên tiến; phản ánh nguyện vọng, tâm tư của mọi tầng lớp nhân dân, góp phần
tích cực vào việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống
nhân dân, tạo bầu khơng khí dân chủ, cởi mở, nâng cao tính thẩm mỹ góp
phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. “Báo Chí Việt Nam Trong Quá Trình
Hội Nhập Thời Cơ Và Thách Thức” đã trở thành cầu nối giữa Đảng, chính

quyền và nhân dân; là vũ khí sắc bén chống lại âm mưu chống phá của các thế
lực thù địch.
Đứng trước một thế giới hiện thực chứa đầy thơng tin, báo chí với cách
thức riêng của mình phản ánh hiện thực, đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp
nhân dân - những công chúng với những mối quan tâm và sở thích khơng
giống nhau. Từ công cụ thông tin một chiều trước đây (truyền đạt đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, từ trên xuống dưới với nội dung
thông tin hàng ngày của các báo gần giống nhau, không dám đề cập đến
những vấn đề gay cấn, những đòi hỏi thực sự dân chủ của quần chúng), thông

6


tin hiện nay không chỉ phong phú, đa dạng và cịn nhiều chiều. Đó là q
trình vận động tất yếu của báo chí truyền thơng, thể hiện một vịng khép kín
và mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước, phương tiện thông tin và các tầng lớp
xã hội; là vũ khí động viên, tổ chức, quản lý của Đảng, diễn đàn của quần
chúng nhân dân và là trường học của nhân dân, của người lãnh đạo. Thơng tin
trên báo chí đã trở thành lời kêu gọi đổi mới của Đảng phù hợp với ý chí của
nhân dân, cơng khai thừa nhận thiếu sót, vạch rõ nội dung và biện pháp đổi
mới, từng bước đi theo định hướng XHCN. Người dân khơng chỉ là người
tiêu thụ sản phẩm báo chí mà cịn trực tiếp tham gia các hoạt động báo chí
như tham gia viết bài, đưa những ý kiến xây dựng, cung cấp nguồn thơng tin
vơ tận cho báo chí… Trên báo chí đã diễn ra các cuộc tranh luận giữa nhà
báo, những giới chức và với cả quần chúng nhân dân một cách trực tiếp và
gián tiếp về những vấn đề thời sự nóng bỏng diễn ra khơng chỉ trong nước mà
cả trên thế giới, khu vực; tham gia thẩm định, phản biện, dự báo các vấn đề
lớn của đất nước, của thời đại. Ví như tham gia vào hàng loạt các vấn đề như
góp ý tham gia vào xây dựng Văn kiện đại hội Đảng, vào việc nên hay không
nên xây dựng Nhà máy xử lý rác thải ở khu vực Chùa Hương, xây dựng Nhà

quốc hội, góp phần phát hiện và triệt phá các băng nhóm tội phạm (vụ án
Năm Cam), những tệ nạn xã hội (mại dâm, ma túy)… hoặc tham gia phản
ánh, bình luận, đối thoại trực tiếp với những nhân vật có sự am hiểu tới những
vấn đề mang tính thời sự nóng bỏng trên thế giới như các hoạt động khủng
bố, bắt cóc, cuộc chiến tranh tại Irắc, Nam Tư, tình hình bất ổn về chính trị tại
một số nước thuộc Liên Xơ cũ… Khơng chỉ thơng tin trên các lĩnh vực mang
tính chính trị mà báo chí cịn phản ánh rộng rãi, đa dạng, phong phú các vấn
đề ngõ ngách của cuộc sống đời thường, kéo báo chí lại gần với người dân
hơn như truyền phát những hoạt động thể thao, văn hóa trong nước, quốc tế
(các môn thi đấu của thể thao, các chương trình ca nhạc, thi hoa hậu, các cuộc
trình diễn thời trang….). Báo chí thực sự trở thành phương tiện để truyền bá,
phổ biến, giữ gìn những tinh hoa văn hóa tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn
7


hóa nhân loại. Báo chí Việt Nam cũng đã có nhiều cố gắng trong việc đưa
thông tin đầy đủ ra nước ngoài, giúp cho cộng đồng quốc tế, người Việt Nam
sinh sống, học tập và làm việc ở nước ngoài hiểu biết đúng đắn, khách quan
về tình hình đất nước, chống lại những quan điểm thù địch ở trong và ngồi
nước. Báo chí đã phát hiện ra nhiều tấm gương người tốt, việc tốt, các điển
hình tiên tiến trong thời đại mới, góp phần tích cực trong việc phổ biến các
sáng kiến, cách làm ăn mới hiệu quả, mở rộng giao lưu và giao lưu thông tin
quốc tế trong bối cảnh tồn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ. Thơng tin báo chí
giúp người dân phát huy vai trị dân chủ trong xã hội, nâng cao trách nhiệm
đối với xã hội.
Có thể nói, hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu thơng tin - giao tiếp, giải
trí và nhận thức của con người, thơng tin trên báo chí đã, đang và sẽ phát triển
không ngừng, ngày càng phong phú, đa dạng và nhiều chiều hơn. Đó là những
thơng tin mang tính đại chúng nhất, năng động nhất, hiệu quả nhất và có
nhiều cơng chúng nhất. Tuy nhiên, tính đa dạng, phong phú và nhiều chiều

của thơng tin báo chí lại dễ dàng phát sinh những tiêu cực nếu khơng có định
hướng và tuân thủ theo sự định hướng đó. Điều đó lý giải tại sao thơng tin báo
chí vừa có tính xã hội cao, vừa có tính tư tưởng và khuynh hướng rõ rệt. Chỉ
thị số 22-CT/TW ngày 17/10/1997 của BCHTW Đảng CSVN về “Tiếp tục
đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý cơng tác báo chí, xuất bản” chỉ rõ:
“Báo chí nói chung hoạt động có định hướng, thơng tin kịp thời, phong phú,
đa dạng hơn”. Với nội dung thơng tin mang tính định hướng đúng đắn, chân
thật, có sức thuyết phục, báo chí có khả năng hình thành dư luận xã hội, dẫn
đến hành động xã hội, phù hợp với chiều hướng vận động theo chiều hướng
có chủ định. Báo chí Việt Nam hoạt động dưới sự định hướng của Đảng hay
nói khác hơn là Đảng lãnh đạo báo chí bằng định hướng chính trị, định hướng
tư tưởng, định hướng thông tin; kiểm tra uốn nắn việc thực hiện các định
hướng đó thơng qua các tổ chức đảng và đảng viên của mình. Thơng tin báo

8


chí có định hướng là thơng tin làm cho nhân dân hiểu rõ đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước trên mọi lĩnh vực của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước; góp phần làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
giữ vai trị chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; động viên tồn Đảng,
tồn dân vượt qua mọi khó khăn thử thách, năng động, sáng tạo, giữ vững ổn
định chính trị, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN.
Báo chí phấn đấu cho mục tiêu cao cả cuối cùng là xây dựng một xã hội,
trong đó sự phát triển tự do và toàn diện con người là điều kiện cần thiết cho
sự phát triển tự do và tồn diện của mọi người. Báo chí khơng chấp nhận lối
tuyên truyền bạo lực, kích động, gây chia rẽ, hằn thù dân tộc, tôn giáo; không
chấp nhận những lệch lạc tiêu cực phát sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị
trường, từ xu hướng thương mại hóa báo chí. Đó là khuynh hướng hạ thấp vai
trị, chức năng của báo chí cách mạng, biến nó từ chỗ là cơng cụ chính trị, văn

hóa của Đảng, Nhà nước trở thành một thứ hàng hóa tầm thường. Thực tế đời
sống báo chí Việt Nam cho thấy vẫn cịn tồn tại một bộ phận báo chí có
những biểu hiện q nhấn mạnh mục đích lợi nhuận mà chú ý khơng đúng
mức đối với hiệu quả xã hội như khai thác quá nhiều đề tài bạo lực, khiêu
dâm, giật gân, vụ án, chuyện đời tư… làm băng hoại đạo đức mà khơng tính
đến tác hại nghiêm trọng của việc làm này. Các chương trình quảng cáo q
nhiều, khơng phù hợp với truyền thống văn hóa, lối sống trên phương tiện
thơng tin đại chúng, vi phạm pháp luật, kích thích tâm lý sùng ngoại, ăn chơi
xa xỉ trong công chúng, làm giảm sút vai trị của báo chí. Hiện tượng xa rời
tơn chỉ mục đích và đối tượng phục vụ vẫn cịn tồn tại ở một số cơ quan bóa
chí. Biểu hiện của hiện tượng này là né tránh, đề cập hời hợt những chủ đề, sự
kiện chính trị quan trọng, thường xuyên sa vào khai thác những thơng tin
ngồi ngành, địa phương mình, không quan tâm đầy đủ tới đối tượng công
chúng ở nông thôn, vùng căn cứ cách mạng, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Thậm chí, một số cơ quan báo bán lại giấy phép xuất
bản phụ san chuyên đề cho tư nhân, gây ra tình trạng có những sản phẩm báo
9


chí hồn tồn xa lạ với tơn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ của báo. Một số
tờ báo coi nhẹ việc biểu dương, cổ vũ người tốt việc tốt, còn nặng về phê
phán mặt khuyết điểm, non kém. Nhiều trường hợp báo chí thơng tin thiếu
chính xác, thiếu khách quan, làm lộ bí mật quốc gia, gây nhiễu thơng tin, gây
trở ngại cho các cơ quan thi hành pháp luật. Có hiện tượng cửa quyền, vi
phạm dân chủ, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, bẻ cong ngòi bút, bị lợi dụng
khen chê sai sự thật, bôi nhọ, vu khống người lương thiện, che giấu những
hành vi tội lỗi. Trần Mai Hạnh, Hoàng Linh, Nguyễn Quang Thắng… những
nhà báo đã bán rẻ lương tâm và đạo đức nghề nghiệp của mình, là những “con
sâu” trong làng báo chí Việt Nam đang trên đường khởi sắc. Tất cả những sai
phạm, chệch hướng trên đã, đang và sẽ được xử lý nghiêm minh bằng luật

pháp, được cơ cấu điều chỉnh lại đúng hướng.
III. Báo chí Việt Nam trong q trình hội nhập.
Thơng tin trên báo chí phong phú, đa dạng, nhiều chiều, đúng định
hướng, chưa đủ. Thơng tin cịn phải đáp ứng yêu cầu nhanh chóng, kịp thời và
phải phản ánh đúng, chính xác, khách quan. Lênin đã chỉ rõ: “Tính đơn điệu
và chậm trễ đều không hợp với nghề báo”. Thông tin báo chí muốn đạt được
hiệu quả cao phải là thông tin đúng lúc, đáp ứng được nhu cầu của công
chúng và sự quan tâm của họ trong thời điểm đó. Có nhanh chóng, kịp thời thì
mới tạo hứng thu cho người đọc, làm họ chú ý đến thông tin nhiều hơn, gây
xúc cảm và khơi dậy niềm mong muốn tìm đến nguồn gốc của nó. Trước sự
phát triển như vũ bão của khoa học-công nghệ, sự phong phú của các loại
hình truyền thơng, thơng tin trên báo chí truyền thông đã tái hiện được hiện
thực sôi động, tiêu biểu và luôn luôn đổi mới diễn ra trên mọi mặt đời sống xã
hội - những điều vừa xảy ra, đang xảy ra và sẽ xảy ra. Không phân biệt ngày,
đêm, biên giới quốc gia, đối tượng độc giả, mọi thông tin về các vấn đề thời
sự từ chính trị đến văn hóa, khoa học - kỹ thuật, kinh tế đã đáp ứng được nhu
cầu cho người dân mọi lúc, mọi nơi. Diễn biến của cuộc chiến tranh Mỹ gây

10


ra tại Nam Tư, Irắc; vụ bắt cóc con tin tại Nhà hát lớn (Nga), những biến động
về chính trị tại Gruzia, Ucraina, những trận thi đấu thể thao, thể dục, những
hoạt động văn hóa, văn nghệ trong nước và quốc tế, những trận lũ lụt đang
hoành hành, những cuộc đình cơng, bãi cơng, tình hình phát triển kinh tế ở
trong nước, khu vực hay ở nước khác… đều được phản ánh đầy đủ, kịp thời
trên các loại hình báo chí. Về phương diện này, truyền hình, online đóng vai
trị tích cực hơn cả. Những chương trình được phát trực tiếp tạo cảm giác cho
cơng chúng như đang có mặt tại nơi diễn ra sự kiện đó, được chứng kiến, bình
luận theo chính kiến của mình. Điều này có sự tác động mạnh đến nhận thức,

tư tưởng và hành động của cơng chúng. Có thể khẳng định, trải qua nhiều thời
đại lịch sử, chưa bao giờ nhiều người, tại nhiều địa điểm khác nhau, cùng xem
hoặc cùng nghe những thông tin và những phóng sự như nhau, như chúng ta
đang chứng kiến hiện nay trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Tuy nhiên, nhanh chóng, kịp thời khơng có nghĩa là chớp giật đưa lên
những thông tin không đúng, không chính xác và khơng khách quan. Sự đúng,
chính xác, khách quan của thông tin là điều kiện để cung cấp cho công chúng
một bức tranh hiện thực vừa phong phú, vừa đa dạng, tác động tới mọi phía
của nhận thức; tạo điều kiện cho công chúng hiểu đúng đắn và sâu sắc các
hiện tượng, quy luật, các khuynh hướng của đời sống xã hội, từ đó xuất hiện
lịng nhiệt tình đối với các cơng việc xã hội và lịng trung thành đối với Tổ
quốc. Đây là bản chất của báo chí cách mạng: “Sự thật là sức mạnh của báo
chí chúng ta”, “chúng ta cần thông tin đầy đủ và chân thực, mà sự thật khơng
phụ thuộc vào việc nó phải phục vụ ai” (Lênin). Biểu hiện của yêu cầu trên
nhà báo phải phản ánh thông tin đúng sự thật, đầy đủ mọi mặt, mọi khía cạnh
của vấn đề. Khách quan, chân thực có sự liên hệ chặt chẽ với tính khoa học,
tính dân chủ và tính tư tưởng. Nhà báo phải có năng lực lựa chọn, xử lý thơng
tin nhanh chóng, chân thực, chính xác, phản ánh đúng tâm tư nguyện vọng
của cơng chúng, từ đó những tác động tích cực, hiệu quả đến tiến bộ xã hội.

11


Thực tế cho thấy, có khơng ít nhà báo vì khơng có động cơ trong sáng, viết
theo kiểu “trả ơn”, “trả thù”, theo “đơn đặt hàng”, theo “mệnh lệnh”, gợi ý
sẵn mà không nhằm quán triệt một chủ trương, đường lối đúng đắn. Những
thông tin ấy đã hạ thấp vị trí của báo chí truyền thơng trong lịng cơng chúng,
gây tổn hại lớn cho xã hội. Vươn tới tính đúng, chính xác, khách quan của
thơng tin ngày một cao hơn, đấu tranh chống lại các biểu hiện vi phạm
nguyên tắc nghề nghiệp, vì bất kỳ động cơ nào là địi hỏi nghiêm khắc của

toàn thể xã hội đối với báo chí, địi hỏi sự phấn đấu kiên trì của nhà báo. Nhà
báo phải hết sức dũng cảm, phải chấp nhận thử thách hy sinh. Bất kỳ lúc nào,
ở đâu, công chúng cũng địi hỏi thơng tin chính xác và phẩm chất hàng đầu
của nhà báo là lòng trung thực và thái độ không khoan nhượng.
Luận điểm “Thông tin phong phú, đa dạng, nhiều chiều nhưng phải
đúng định hướng; nhanh chóng, kịp thời nhưng phải phản ánh đúng, chính
xác, khách quan” địi hỏi hoạt động báo chí Việt Nam phải nghiêm chỉnh thực
hiện các quy định của Luật báo chí. Các cơ quan chủ quản báo chí cần định
kỳ tổng kết, nghiêm túc đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm của cơ quan
báo chí trực thuộc trong việc thực hiện mục đích, tơn chỉ và chất lượng đội
ngũ người làm báo, đề ra biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng, khắc phụ
hiệu quả xu hướng thương mại hóa, xa rời tơn chỉ, mục đích, đối tượng phục
vụ. Cùng với đó, người đứng đầu cơ quan chủ quản báo chí phải quan tâm
hơn nữa tới việc chỉ đạo, thẩm định các thơng tin. Thơng tin trên báo chí phải
trung thực, chống hiện tượng lợi dụng báo chí để thực hiện ý đồ cá nhân, chủ
động xử lý nghiêm các sai phạm của cán bộ, phóng viên, thường xun chăm
lo cơng tác giáo dục đội ngũ về nghề nghiệp để có thể cung cấp cho xã hội
những thơng tin có giá trị. Khuyến khích sự đa dạng, phong phú về thơng tin
nhưng phải giữ vững định hướng tư tưởng, chính trị, nhanh nhạy nhưng phải
trung thực, chính xác. Củng cố tổ chức, bộ máy và tăng cường hiệu lực của
công tác quản lý báo chí, tránh sự chồng chéo, bng lỏng. Có vậy, báo chí

12


mới thực sự là “vừa là tiếng nói của Đảng, của các tổ chức xã hội, là diễn đàn
của nhân dân”.

13




×