Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Vấn đề bảo hiểm y tế tự nguyện trên báo in hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.03 KB, 96 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
––––––––––––––––––––––––––




ĐINH THỊ HIỀN




VẤN ĐỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN
TRÊN BÁO IN HIỆN NAY
(Khảo sát báo Nhân dân, Lao động, Tuổi trẻ năm 2013)




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học





Hà Nội, 2015



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
––––––––––––––––––––––––––



ĐINH THỊ HIỀN



VẤN ĐỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN
TRÊN BÁO IN HIỆN NAY
(Khảo sát báo Nhân dân, Lao động, Tuổi trẻ năm 2013)


Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS.Bùi Chí Trung



Hà Nội, 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự

hướng dẫn của TS.Bùi Chí Trung. Các số liệu và kết luận trong luận văn chưa
từng công bố trong bất kỳ một công trình nào trước đây. Nếu sai, tôi xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm.


Tác giả



Đinh Thị Hiền




LỜI CẢM ƠN


Xin chân thành cảm ơn TS.Bùi Chí Trung đã tư vấn, hướng dẫn tôi lựa
chọn và thực hiện nghiên cứu đề tài này. Đây là một đề tài khó, mang tính
ứng dụng thực tiễn cao đối với công việc của bản thân. Mặc dù tôi chưa có
nhiều kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học, song được sự hướng
dẫn tận tình của TS. Bùi Chí Trung, tôi đã có phương pháp tiếp cận, nghiên
cứu và thực hiện đề tài một cách hiệu quả.

Xin gửi lời tri ân đến các thầy, cô giáo tại Khoa Báo chí - Truyền
thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã cung cấp cho tôi
những kiến thức cơ bản, để bổ sung, hoàn thiện hơn cơ sở lý luận báo chí của
mình đang khuyết thiếu, giúp tôi vững vàng hơn về nghiệp vụ, quan trọng hơn
là bước đầu hình thành tư duy và kỹ năng nghiên cứu khoa học.


Xin được gửi lời cảm ơn đến các đồng chí lãnh đạo, đồng nghiệp của
tôi tại Tạp chí BHXH; các nhà khoa học, nghiên cứu hoạch định chính sách
đã dành thời gian trao đổi, cung cấp nhiều thông tin quý báu giúp tôi trong
quá trình viết luận văn.

Đặc biệt, xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, người thân và
bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên, là động lực giúp tôi hoàn thành luận văn.

Xin chân thành cảm ơn!





DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


Cử nhân: CN
Giáo sư: GS
Phó Giáo sư: PGS
BHXH: Bảo hiểm xã hội
BHYT: Bảo hiểm y tế
CSXH: Chính sách xã hội


























DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


Bảng 1. Thông kê số lượng tin, bài đề cập tới vấn đề BHYT tự nguyện năm
2013 33
Bảng 2: Thống kê số lượng và tỷ lệ được 3 báo sử dụng 46
Biểu đồ 1: Tỷ lệ tin, bài đề cập tới vấn đề BHYT tự nguyện năm 2013 33
Biểu đồ 2: Tỷ lệ các thể loại báo chí chuyển tải thông tin BHYT tự nguyện 47
























MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN
TRUYỀN VỀ BHYT TỰ NGUYỆN 10
1. 1. Cơ sở lý luận về BHYT, BHYT tự nguyện 10
1.2. Vai trò của thông tin báo chí trong sự phát triển BHYT, BHYT tự nguyện 16
Tiểu kết Chương 1 27
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN VỀ BHYT
TỰ NGUYỆN TRÊN BÁO IN 29
2.1. Giới thiệu về 3 tờ báo được lựa chọn khảo sát 29

2.2. Kết quả khảo sát tin, bài về BHYT tự nguyện 33
2.3. Nội dung thông tin về BHYT tự nguyện 36
2.4. Hình thức chuyển tải thông tin về BHYT tự nguyện trên báo in 45
2.5. Đánh giá bước đầu về hiệu quả thông tin BHYT tự nguyện 52
Tiểu kết chương 2 62
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN VỀ
VẤN ĐỀ BHYT TỰ NGUYỆN TRÊN BÁO IN 64
3.1. Những vấn đề đặt ra trong công tác thông tin tuyên truyền về BHYT
tự nguyện 64
3.2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về vấn đề
BHYT tự nguyện 66
3.3. Đề xuất, kiến nghị 75
Tiểu kết chương 3 79
KẾT LUẬN 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO 83

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo hiểm y tế (BHYT) là một trong những chính sách An sinh xã hội
cơ bản và quan trọng nhất, là một tiêu chí để đánh giá trình độ phát triển của
một quốc gia. Trong những năm gần đây, BHYT tự nguyện đã dần thu hút
được sự quan tâm của đối tượng tham gia; góp phần phục vụ nhu cầu khám,
chữa bệnh của nhân dân, người lao động; trở thành một trong những nguồn
lực để thực hiện An sinh xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, căn cứ số liệu quyết
toán do Tạp chí BHXH cung cấp, hiện số người chưa tham gia BHYT còn
khoảng 34,5% dân số. Trong đó, đối tượng thuộc diện có trách nhiệm tham
gia nhưng chưa khai thác hết khoảng 15 triệu người và số đối tượng thuộc
diện tự nguyện tham gia BHYT còn tới khoảng 20 triệu người. Đó cũng là lý
do khiến vấn đề BHYT được rất nhiều cơ quan báo chí quan tâm phản ánh.

Giải quyết kịp thời, đúng đắn, hợp lý, công bằng các vấn đề xã hội và an
sinh xã hội, trong đó có BHYT và BHYT tự nguyện là điều kiện tối cần thiết và
quan trọng để giữ vững ổn định, đoàn kết và đồng thuận xã hội, để bảo đảm và
thúc đẩy phát triển bền vững. Những nhận thức đó dần từng bước định hình
trong lý luận đổi mới của Việt Nam và cũng từng bước được thực hiện trong
các chương trình, chính sách quốc gia của Nhà nước và Chính phủ Việt Nam.
Hệ mục tiêu của đổi mới thể hiện rất rõ những định hướng phát triển An sinh
xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Có nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, dẫn đến việc một
bộ phận nhân dân, người lao động chưa thực sự mặn mà với BHYT. Theo kết
quả nghiên cứu công bố trên Tạp chí BHXH về BHYT tự nguyện theo hộ gia
đình: “Người tham gia khảo sát cho biết, nắm thông tin về BHYT chủ yếu từ
cán bộ chính quyền, đoàn thể xã (84,6%) và cán bộ BHXH huyện (41,2%).
Trong khi đó, chịu ảnh hưởng của các phương tiện thông tin truyền thông đại
chúng ở tỷ lệ thấp (đài phát thanh 0,4%, TV 36%). Công tác thông tin tuyên

2
truyền về chính sách BHYT còn nhiều hạn chế, dẫn đến sự thiếu hiểu biết của
một bộ phận không nhỏ người dân, một số người vẫn cho rằng BHYT là kinh
doanh giống như loại hình bảo hiểm thương mại khác”. Vì vậy, hơn bao giờ
hết, bên cạnh lực lượng tuyên truyền viên của Ngành BHXH, sự hỗ trợ của
các cấp, ngành, tổ chức, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương… báo chí
phải là “lá cờ đầu” trong việc thông tin, tuyên truyền chế độ, chính sách, pháp
luật BHXH, BHYT tới đông đảo nhân dân, người lao động. BHXH, BHYT
phải theo nguyên tắc có đóng, có hưởng, quyền lợi tương ứng với nghĩa vụ,
có sự chia sẻ giữa các thành viên, bảo đảm công bằng và bền vững của hệ
thống BHXH, BHYT. Với tính chất định hướng, nếu báo chí thông tin tuyên
truyền tốt, nhân dân, người lao động sẽ tin tưởng, nhiệt tình và tự giác tham
gia. Ngược lại, nếu không làm tốt công tác này, việc mở rộng đối tượng
BHYT tự nguyện chắc chắn gặp nhiều khó khăn.

Lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế (BHYT) toàn dân toàn dân nhằm đảm
bảo toàn bộ dân số cả nước được tiếp cận đầy đủ với các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe, từng bước đạt tới sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân,
do đó, từ năm 2014 sẽ không còn hình thức BHYT tự nguyện mà chỉ còn
BHYT bắt buộc. Tuy nhiên đứng trước thách thức làm thể nào để huy động
hơn 90 triệu dân cùng tham gia BHYT để thực hiện BHYT toàn dân thì việc
tổng kết, đánh giá những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn công tác thông tin,
tuyên truyền về BHYT tự nguyện đã triển khai là hết sức cần thiết. Do đó, tác
giả thực hiện nghiên cứu đề tài "Vấn đề BHYT tự nguyện trên báo in hiện
nay” (khảo sát báo Tuổi trẻ, Báo Lao động, Báo Nhân dân trong năm
2013) nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả truyền thông, từ đó
giảm thiểu những vấn đề còn tồn tại trong mảng thông tin về vấn đề này.
2. Lịch sử nghiên cứu có liên quan tới đề tài
Để có thể đánh giá được thực trạng công tác thông tin tuyên truyền về
vấn đề BHYT tự nguyện trên báo in hiện nay, tác giả đã thực hiện quá trình

3
tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu có liên quan tới đề tài, bao gồm
các nghiên cứu trực tiếp về công tác tuyên truyền BHYT; cũng như những
nghiên cứu cơ bản về chức năng, nhiệm vụ, vai trò của báo chí trong đời sống
xã hội, phương pháp đánh giá hiệu quả của truyền thông đại chúng…
Trước tiên, có thể đề cập về các nghiên cứu hiệu quả tác động của báo
chí. Ở góc độ báo chí học, trong cuốn sách „„Nghề nghiệp và công việc của
Nhà báo‟‟ do Hội Nhà báo Việt Nam xuất bản năm 1992, tác giả Phan Quang
có bài viết „„Về hiệu quả báo chí‟‟. Bằng kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn, nhà
báo Phan Quang cho rằng: Hiệu quả là một phạm trù khoa học, đồng thời
cũng là mục tiêu mà con người phải tính đến trong hoạt động của mình. Nói
đến hiệu quả báo chí phải xuất phát từ sự tồn tại của bản thân báo chí. Nội
dung thông tin hấp dẫn, đáp ứng yêu cầu kịp thời, chính xác và đầy đủ đối với
người nhận tin, đó chính là yếu tố quan trọng làm cho hiệu quả công tác báo

chí phát huy tác dụng thực sự trong việc hướng dẫn dư luận và phục vụ nhân
dân [57]. Ý kiến của nhà báo Phan Quang mặc dù chưa thật sự hoàn chỉnh về
cơ sở lý luận, nhưng có ý nghĩa phương pháp luận bước đầu định hướng đối
với việc nghiên cứu hiệu quả báo chí trong hoạt động truyền thông ở nước ta.
Trong cuốn sách „„Truyền thông đại chúng‟‟, do Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia xuất bản năm 2001, tác giả Tạ Ngọc Tấn viết tại chương I „„Truyền
thông và truyền thông đại chúng‟‟, ở phần III „„Mô hình và cơ chế tác động
của truyền thông đại chúng‟. Sau khi phân tích về mô hình truyền thông, cơ
chế tác động của truyền thông tác giả đã đưa ra quan điểm về hiệu quả xã hội
của truyền thông đại chúng. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu phân tích cơ sở lý luận
về hiệu quả truyền thông đại chúng nói chung, chưa chỉ rõ những vấn đề cụ
thể về hiệu quả báo chí trong hoạt động truyền thông.
Sách giáo trình „„Cơ sở lý luận Báo chí - Truyền thông‟‟ của các tác giả
Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang, đã được Nhà xuất bản Văn
hóa - Thông tin cho ra mắt bạn đọc năm năm 1995, trong đó dành 01 chương
(chương VI) viết về hiệu quả báo chí. Đến năm 2007, sách giáo trình „„Cơ sở
lý luận Báo chí - Truyền thông‟‟ đã được Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà
Nội in tái bản lần thứ 3, lần này được các tác giả sửa chữa, bổ sung, chỉnh lý

4
một số chi tiết, chương, mục cho phù hợp hơn. Sách có 10 chương, trong
phạm vi đề tài nghiên cứu của Luận án, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến
chương VIII „„Hiệu quả báo chí‟‟, do tác giả Dương Xuân Sơn biên soạn. Với
những chỉnh sửa, bổ sung lần này, cơ sở lý luận về hiệu quả báo chí được đề
cập sâu hơn.
Điều dễ nhận thấy là trong cả bốn lần xuất bản cuốn „„Cơ sở lý luận
Báo chí - Truyền thông‟‟ và cuốn „„Giáo trình lý luận báo chí truyền thông‟‟
mới xuất bản trên, mối quan hệ của báo chí trong hệ thống các phương tiện
truyền thông đại chúng nói riêng và trong hoạt động truyền thông nói chung
vẫn chưa được làm sáng tỏ. Mặc dù các vấn đề cơ bản về hiệu quả báo chí

được tác giả tập trung phân tích, nhưng các tiêu chí đánh giá hiệu quả báo chí
trong hoạt động truyền thông vẫn chưa được đề cập rõ nét.
Trong bài viết của tác giả Mai Quỳnh Nam „„Về vấn đề nghiên cứu hiệu
quả truyền thông đại chúng‟‟, đăng trên Tạp chí Xã hội học số 4 (77), 2001,
tác giả khái quát về sự ra đời, phát triển của truyền thông, truyền thông đại
chúng, sự cấp thiết và tính phức tạp trong nghiên cứu truyền thông đại chúng.
Tác giả đưa ra những hệ thống chỉ tiêu, lấy đó làm cơ sở để phân tích tính
hiệu quả của các phương tiện truyền thông đại chúng, đó là: Hiệu quả vị lợi;
Hiệu quả uy tín; Hiệu quả tăng cường quan điểm; Hiệu quả thỏa mãn lợi ích
nhận thức; Hiệu quả thẩm mỹ; Hiệu quả thuận tiện. Đồng thời, tác giả đưa ra
quan điểm „„Một trong những chỉ báo quan trọng cho thấy hiệu quả truyền
thông đại chúng là việc công chúng nhớ được nội dung thông điệp‟‟. Mặc dù
tác giả Mai Quỳnh Nam chưa định danh cụ thể vai trò của báo chí trong hệ
thống truyền thông đại chúng, nhưng là những kiến thức bổ ích giúp cho việc
nghiên cứu sâu về hiệu quả báo chí trong hoạt động truyền thông.
Tháng 6/2011, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam xuất bản cuốn “Giáo
trình tác phẩm báo chí đại cương”, do tác giả Nguyễn Thị Thoa chủ biên. Tại
Chương 1 “Lý luận chung về tác phẩm báo chí”, đề cập nội dung “Giá trị sử
dụng của các tác phẩm báo chí” ở mục 3, tác giả đưa ra quan điểm về cách đo
lường giá trị tác phẩm báo chí, có thể đo trực tiếp hoặc gián tiếp, cụ thể: đo
theo thời gian, phạm vi tác động, chiến dịch tuyên truyền, theo công chúng

5
cần tác động, theo tính chất (nóng hay nguội) của thông điệp mà tác phẩm
báo chí chuyển tải. Mặc dù tác giả không đề cập đến hiệu quả báo chí, tuy
nhiên, khi phân tích giá trị tác phẩm báo chí với những cách đo lường trên
cũng giúp cho việc tham khảo để xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu quả báo chí
trong hoạt động thông tin, tuyên truyền.
Đối với hệ thống các nghiên cứu có liên quan tới vấn đề BHYT, cho
đến nay mới có 04 công trình nghiên cứu của Khoa Báo chí, trường Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, cấp độ Thạc sĩ,
công bố năm 2006, tác giả Nguyễn Thị Thu Hường với đề tài: “Báo chí với
vấn đề ASXH"; : Báo chí với chính sách BHYT ở Việt Nam”, khóa luận năm
2000 của tác giả Bùi Đình Cự; “Báo chí với với đề BHXH”, Luận văn năm
2003 của tác giả Dương Văn Thắng; Nội dung BHYT toàn dân được phản ánh
trên Tạp chí BHXH”, khóa luận năm 2006 của tác giả Đinh Thu Hiền.
Tuy nhiên, ba công trình ở cấp độ cử nhân này nghiên cứu ở phạm vi
chung của báo chí với vấn đề BHYT, không đi vào phân tích cụ thể đối tượng
BHYT tự nguyện mà chỉ đề cập chung chung nên tính khái quát chưa cao.
Gần đây, công trình luận án Tiến sỹ báo chí: “Nghiên cứu hiệu quả báo chí
trong hoạt động truyền thông về An sinh xã hội ở Việt Nam thời kỳ hội nhập
quốc tế”, của tác giả Dương Văn Thắng đã đi nghiên cứu sâu về hiệu quả của
báo chí đối với hoạt động An sinh xã hội trong đó có đề cập đến hiệu quả của
báo chí đối với BHYT.
Những công trình vừa đề cập là những tài liệu quý, tài liệu tham khảo
hữu ích làm cơ sở để tiếp tục nghiên cứu lý luận về BHYT nói chung và
BHYT tự nguyện nói riêng.
Ngoài ra, tổng quan nghiên cứu cho thấy cũng có một số công trình
nghiên cứu về các lĩnh vực thông tin, tuyên truyền của ngành BHXH, BHYT
như: chuyên đề: “Những giải pháp thực hiện công tác tuyên truyền chính
sách BHXH trên địa bàn Hải Phòng” do cử nhân Nguyễn Xuân Đóa làm chủ

6
nhiệm, nghiên cứu và bảo vệ năm 2000; đề tài “Các giải pháp nâng cao hiệu
quả công tác tuyên truyền về BHXH hiện nay” do ThS.Trần Xuân Vinh
nghiên cứu và bảo vệ năm 2001; chuyên đề “Giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác thông tin tuyên truyền khu vực BHYT tự nguyện” do cử nhân Phạm
Văn Cảnh làm chủ đề tài, nghiên cứu và bảo vệ năm 2004; đề án “Thực trạng
và giải pháp hoàn thiện công tác thông tin, tuyên truyền BHXH, BHYT,
BHTN ở Việt Nam” do cử nhân Đoàn Phú Nho làm chủ nhiệm, nghiên cứu và

bảo vệ năm 2010; đề án “Hoàn thiện tổ chức và hoạt động thông tin tuyên
truyền của hệ thống BHXH Việt Nam”, do ThS.Trần Xuân Vinh làm chủ
nhiệm, bảo vệ năm 2011. Tuy nhiên, các công trình trên cũng mới chỉ bước
đầu nghiên cứu về công tác thông tin tuyên truyền BHXH, BHYT, BHTN, là
những bộ phận cấu thành của hệ thống ASXH. Chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu cơ sở lý luận báo chí truyền thông, nhất là đánh giá hiệu quả báo
chí trong hoạt động truyền thông ASXH.
Tóm lại, tổng quan nghiên cứu cho thấy, cho đến nay vẫn chưa có công
trình nào nghiên cứu một toàn diện, hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về mối
quan hệ giữa báo chí và BHYT tự nguyện. Do đó, đề tài nghiên cứu “Vấn đề
BHYT tự nguyện trên báo in hiện nay” là độc lập, không trùng lặp với các
nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, do tính chất bao trùm, rộng lớn của lĩnh vực
truyền thông báo chí và tính trụ cột của BHYT trong hệ thống An sinh xã hội
nên trong quá trình nghiên cứu, học viên tham khảo thêm kết quả các nghiên
cứu và có những đề xuất mới, phù hợp với yêu cầu thực tiễn đang đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Mục đích của luận văn là phân tích thực trạng công tác thông tin
tuyên truyền về vấn đề BHYT tự nguyện trên báo in hiện nay và tìm ra những
vấn đề còn tồn tại, qua đó đánh giá ưu điểm, nhược điểm, và đưa ra giải pháp
trong quá trình chuyển tải thông tin BHYT tự nguyện trên báo chí. Bên cạnh

7
đó, qua việc lấy ý kiến đánh giá các chuyên gia về BHYT tự nguyện trên báo
chí, tác giả luận văn có đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả truyền thông, từ đó góp phần giảm thiểu những vấn đề còn tồn tại
trong mảng thông tin về BHYT tự nguyện.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn có những nhiệm vụ cụ thể:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về chí, đặc biệt xác lập và

làm rõ cơ sở lý luận về thông tin báo chí, mỗi quan hệ giữa báo chí và vấn đề
BHYT tự nguyện.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng thông tin, tuyên truyền của báo in về vấn đề
BHYT tự nguyện ở nước ta thời gian qua, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế. Trên cơ
sở các vấn đề lý luận và thực tiễn đã chỉ ra, đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng thông tin BHYT tự nguyện trên báo in.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: "Vấn đề BHYT tự nguyện trên
báo in hiện nay”.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
BHYT tự nguyện là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước,
công tác thông tin, tuyên truyền cho lĩnh vực này là nhiệm vụ thường xuyên
của các phương tiện thông tin đại chúng, trong khuôn khổ luận văn, người
viết tập trung nghiên cứu tất cả những tin, bài đề cập đến vấn đề BHYT tự
nguyện được đăng tải trên trên 3 tờ báo Lao động, Tuổi trẻ, Nhân dân trong
năm 2013 để phần nào thấy được bức tranh thông tin phản ánh về quá trình
đưa một chính sách xã hội quan trọng vào cuộc sống. Giai đoạn năm 2013
cũng là thời điểm cuối cùng chuẩn bị khép lại tiến trình triển khai BHYT tự
nguyện sang giai đoạn phổ biến BHYT toàn dân, do đó các cứ liệu khảo sát

8
phân tích sẽ có điều kiện phân tích đánh giá được toàn diện, đầy đủ và phù
hợp với đề tài.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, người nghiên cứu sử dụng các
phương pháp sau:
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử như một cơ sở phương pháp luận của toàn bộ quá trình nghiên cứu.

Cùng với việc vận dụng những nguyên tắc phương pháp luận của xã
hội học Mác xít là những lý luận về thông tin, thông tin báo chí, các văn kiện,
tài liệu của Đảng, Quốc hội, các Bộ, ngành có liên quan cũng như các tác
phẩm báo chí được đăng tải trên 3 tờ báo được tác giả lựa chọn khảo sát.
5.2. Phương pháp công cụ
- Phƣơng pháp nghiên cứu tƣ liệu lịch sử và tài liệu thứ cấp: Kế
thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả trong nước đã nghiên cứu về những
đề tài có liên quan. Tổng hợp tất cả các quan điểm lý luận, thực tiễn liên quan
đến vấn đề tài liệu từ các văn bản, tài liệu khoa học, sách, báo…
- Phƣơng pháp phân tích nội dung: tập trung phân tích nội dung báo
chí, những bài báo đăng tải trên các trang báo in được lựa chọn khảo sát trong
năm 2013.Trong quá trình nghiên cứu, tác giả chú trọng sử dụng các phương
pháp phân tích, tổng hợp, phân loại các các bài báo có liên quan đến vấn đề
BHYT tự nguyện, đồng thời những phương pháp hỗ trợ nhau như phương
pháp đối chiếu, so sánh để thấy được thành công và hạn chế trong việc thực
hiện chức năng tuyên truyền về vấn đề BHYT tự nguyện của từng tờ báo đối
với cùng một sự kiện, vấn đề.
- Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: Nhằm thu thập các ý kiến của một số nhà
quản lý, chuyên gia, lãnh đạo cơ quan báo chí, chúng tôi thực hiện phỏng vấn

9
tùy theo điều kiện khách quan, đề tài thực hiện phỏng vấn trực tiếp, gián tiếp
(quan email, điện thoại).
Ngoài ra, nhằm bổ sung cứ liệu thông tin, đặc biệt là các số liệu khảo sát
điều tra về vấn đề BHYT tự nguyện trên báo in, luận văn có sự kế thừa hệ
thống số liệu khảo sát điều tra đã được thực hiện và công bố trong một số
công trình nghiên cứu liên quan.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Trên cơ sở làm rõ vấn đề BHYT tự nguyện ở những tờ báo được khảo
sát, luận văn có thể đưa ra những kinh nghiệm và giải pháp thông tin trên báo

in Việt Nam. Điều này có ý nghĩa đối với nhà báo, cơ quan báo chí trong việc
xác lập kế hoạch tuyên truyền về vấn đề BHYT tự nguyện.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn là một nguồn tư liệu tập trung, bổ
ích đối với các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý báo chí, các nhà báo và
những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tham khảo, luận văn gồm có
các chương như sau:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận của công tác thông tin tuyên truyền về vấn đề
BHYT tự nguyện
Chƣơng 2. Thực trạng thông tin, tuyên truyền về BHYT tự nguyện trên
báo in
Chƣơng 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thông tin tuyên truyền về vấn
đề BHYT tự nguyện trên báo in






10
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC THÔNG TIN,
TUYÊN TRUYỀN VỀ BHYT TỰ NGUYỆN

1. 1. Cơ sở lý luận về BHYT, BHYT tự nguyện
1.1.1. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của BHYT
Con người ai cũng muốn sống khỏe mạnh, ấm no, hạnh phúc. Nhưng
trong đời người, những rủi ro bất ngờ về sức khỏe như ốm đau, bệnh tật …
có thể xảy ra. Các chi phí khám và chữa bệnh này không được xác định

trước, mang tính “đột xuất”, vì vậy cho dù lớn hay nhỏ, đều gây khó khăn
cho ngân quỹ mỗi gia đình, mỗi cá nhân, đặc biệt là đối với người có thu
nhập thấp. Không những thế, những rủi ro này nếu tái phát, biến chứng…
vừa làm suy giảm sức khỏe, suy giảm khả năng lao động, vừa kéo dài thời
gian không tham gia lao động nữa làm cho khó khăn trong cuộc sống tăng lên.
Để khắc phục khó khăn cũng như chủ động về tài chính khi rủi ro bất
ngờ về sức khỏe xảy ra, người ta đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau
như tự tích lũy, bán tài sản, kêu gọi sự hỗ trợ của người thân, đi vay…Mỗi
biện pháp đều có ưu điểm và hạn chế nhất định. Tuy nhiên, không thể áp
dụng trong trường hợp rủi ro kéo dài về thời gian và lặp đi lặp lại. Vì thế,
cuối thế kỷ XIX, bảo hiểm y tế ra đời nhằm giúp đỡ mọi người lao động và
gia đình khi gặp rủi ro về sức khỏe để ổn định đời sống, góp phần bảo đảm
an toàn xã hội[34].
Điều này được thể hiện rõ trong nghị quyết của đại hội Đảng cộng
sản Việt Nam lần thứ IX là: "Thực hiện đồng bộ các chính sách bảo vệ và
chăm sóc sức khỏe nhân dân nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực,
tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế,
đặc biệt là cơ sở. Xây dựng một số trung tâm y tế chuyên sâu. Đẩy mạnh
sản xuất dược phẩm, đảm bảo các loại thuốc thiết yếu đến mọi địa bàn dân

11
cư. Thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe; đổi mới cơ chế chính
sách viện phí, có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo, tiến
tới bảo hiểm y tế toàn dân.
BHYT ở nước ta được hình thành và phát triển hơn 10 năm qua đã
khẳng định tính đúng đắn của một chính sách mới, hoàn toàn phù hợp quá
trình chuyển đổi cơ chế quản lý ở nước ta, từng bước hòa nhập với xu thế
phát triển chung của các nước trên thế giới. Tuy nhiên đến nay, mạng lưới
BHYT trong lĩnh vực y tế mới bao phủ trong phạm vi còn khiêm tốn đối
với toàn bộ dân cư nước ta. Việc thực hiện BHYT toàn dân phải được coi

là mục tiêu, là biện pháp góp phần thực hiện công bằng xã hội trong công
tác chăm sóc sức khỏe người dân; đảm bảo cho mọi thành viên trong xã
hội, không phân biệt thành phần kinh tế, điều kiện kinh tế, nghề nghiệp, vị
trí địa lý, tuổi tác, giới tính đều được sự bảo vệ sức khỏe, đều được khám
chữa bệnh bằng BHYT.
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại, ngành y tế
cũng đã có những bước chuyển biến lớn. Cùng với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, phương tiện khám chữa bệnh ngày càng hiện đại và đắt tiền.
Đặc biệt, ngày nay y học đã phát triển mạnh mẽ, nhiều loại thuốc đặc trị ra
đời, nên việc chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh ngày càng đắt đỏ. Tình trạng
này làm cho một bộ phận lớn dân cư không có khả năng chi trả khi ốm đau,
bệnh tật, buộc phải có sự hỗ trợ của BHYT.
Mặt khác khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, dịch vụ khám, chữa
bệnh thường đắt đỏ, có thể nói là cao nhất trong tất cả các dịch vụ xã hội.
Khi không may bị ốm đau bệnh tật bất ngờ, nhiều người dân không đủ khả
năng tài chính để bảo vệ sức khỏe của mình cũng như gia đình. Điều này
dẫn đến sự cần thiết phải có một giải pháp để giải quyết vấn đề trên và
BHYT ra đời trên cơ sở đó.

12
Ở nước ta đã có một thời gian dài, Nhà nước dùng tiền từ ngân sách
để lo việc chữa bệnh cho nhân dân. Đến nay khả năng chi trả đó rất hạn chế
vì nhu cầu chữa bệnh ngày càng tăng, chi phí y tế ngày càng đắt, trong khi
đó cơ sở vật chất ngành y tế ngày càng giảm sút, cần phải sửa chữa cũng
như càng có thêm các phương tiện để điều trị hữu hiệu.
Việc thu một phần viện phí trong những năm qua không những
không đủ chi phí cho ngành y tế, vì mức thu được là quá ít so với thực chi
khám chữa bệnh, mà còn tạo ra sự bất công mới, gây khó khăn cho người
nghèo. Để khắc phục từng bước những điều chưa tốt trong việc thu viện phí
cần phải sớm tổ chức thực hiện BHYT.

Từ những vấn đề trên, BHYT ra đời là tối cần thiết vì nó đáp ứng
được nguyện vọng của địa đa số người dân trong xã hội.
1.1.2. Khái niệm, bản chất BHYT
Ở các nước công nghiệp phát triển “BHYT là một tổ chức cộng đồng
đoàn kết tương trợ lẫn nhau, có nhiệm vụ gìn giữ sức khỏe, khôi phục lại
sức khỏe hoặc cải thiện tình trạng sức khỏe của người tham gia
BHYT”[76.tr42].
Ở nước ta, BHYT tự nguyện do Nhà nước thực hiện không vì mục đích
lợi nhuận. Người dân tự nguyện tham gia để được chăm sóc sức khỏe khi đau
ốm, bệnh tật từ quỹ bảo hiểm y tế.
Theo quy định của pháp luật nước ta, BHYT là một chính sách xã hội
do Nhà nước tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của người lao
động, người sử dụng lao động, các tổ chức và cá nhân để thanh toán chi phí
khám, chữa bệnh cho người có thẻ BHYT khi ốm đau.
* Bản chất của BHYT
BHYT có bản chất xã hội và bản chất kinh tế, là loại hình bảo hiểm vì
mục tiêu An sinh xã hội, do đó bản chất xã hội là đặc trưng cơ bản của
BHYT. Bản chất xã hội của BHYT được thể hiện trên các khía cạnh sau:

13
Thứ nhất, BHYT là một bộ phận quan trọng trong chính sách của mỗi
quốc gia nhằm đảm bảo quyền được bảo vệ, chăm sóc y tế cho mọi thành
viên của xã hội. Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe không phải thuần túy chỉ là
trách nhiệm của mỗi cá nhân riêng lẻ, mà là trách nhiệm chung của cả cộng
đồng. Bởi lẽ, nguy cơ về bệnh tật có thể đến với bất kể ai, không phân biệt
quốc gia, dân tộc và hơn nữa không ai có thể một mình đơn phương chống
lại bệnh tật. Lẽ đương nhiên việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trước tiên
thuộc về mỗi cá nhân nhưng vẫn cần sự trợ giúp mang tính xã hội, có tính
tổ chức cao, đó là sự trợ giúp mang tính Nhà nước. Ở đó Nhà nước giữ vai
trò quan trọng, là người tổ chức, quản lý và bảo trợ.

Thứ hai, Thực hiện BHYT nhằm liên kết, chia sẻ rủi ro mang tính cộng
đồng giữa các thành viên trong xã hội. Bên cạnh sự trợ giúp mang tính Nhà
nước, tính xã hội của BHYT còn thể hiện ở sự chia sẻ, liên kết của chính các
thành viên trong xã hội thông qua đóng góp dựa trên thu nhập. Các thành viên
trong xã hội đóng góp một phần thu nhập vào quỹ chung để chăm sóc y tế cho
chính mình và các thành viên khác. Bệnh tật và những rủi ro về sức khỏe
không phải khi nào cũng xuất hiện cùng một lúc với tất cả mọi người, chúng
cũng xuất hiện giống nhau ở mỗi người. Thực tế cho thấy có người ốm lúc
này, người ốm lúc khác, có người bệnh nặng, có người bệnh nhẹ, có người
hay ốm, người ít ốm và bệnh tật thường đến bất ngờ không báo trước. Nếu cứ
để ai có bệnh người đó tự chống đỡ sẽ gây kho khăn cho chính họ vì không đủ
tiền để trang trải. Thực tế này đòi hỏi cần một sự liên kết mang tính cộng
đồng rộng rãi để chia sẽ rủi ro bệnh tật. Một quỹ chung cho chăm sóc sức
khỏe sẽ điều tiết để nhiều người chưa hoặc không ốm chăm sóc cho người
ốm, người ốm nhẹ giúp người ốm nặng.
BHYT là một nội dung của chính sách xã hội, hoạt động không vì lợi
nhuận nhưng lại mang bản chất kinh tế, thuộc phạm trù kinh tế - y tế. Bản
chất kinh tế của BHYT thể hiện ở sự điều tiết, phân phối lại thu nhập giữa

14
các thành viên tham gia BHYT. Có hai góc độ thể hiện chính đó là sự phân
phối trực tiếp và sự phân phối gián tiếp. Phân phối trực tiếp thể hiện ở sự
chuyển phần thu nhập của người tạm thời khỏe sang người đang ốm, của
người bệnh nhẹ sang người bệnh nặng, của người trẻ khỏe sang người đang
ốm, của người bệnh nhẹ sang người bệnh nặng, của người trẻ khỏe sang
người già yếu, thông qua sự điều hành luân chuyển của chính phần thu
nhập đóng trực tiếp cho quỹ BHYT. Phân phối gián tiếp thể hiện ở sự hỗ
trợ giữa người giàu và người nghèo, người thu nhập cao và thu nhập thấp.
1.1.3. Về khái niệm, bản chất của BHYT tự nguyện
Khái niệm: Bảo hiểm y tế tự nguyện được xác định là cơ sở để thực

hiện BHYT toàn dân là một hình thức BHYT áp dụng cho người có thu
nhập thấp không đủ điều kiện tham gia BHYT bắt buộc, BHYT tư nhân, do
người dân tự nguyện tham gia.[Giáo trình Bảo hiểm,tr80].
Bản chất của hoạt động của BHYT tự nguyện do chính cộng đồng người
tham gia đảm nhiệm với nguyên tắc tài chính là phi lợi nhuận. Do vậy, mức
đóng BHYT tự nguyện không hoàn toàn phục thuộc vào thu nhập của người
tham gia. Đặc điểm nổi bật của BHYT tự nguyện chi phối quá trình tổ chức
thực hiện không chỉ có riêng ở Việt Nam mà còn có ở nhiều quốc gia có trình
độ phát triển cao trên thế giới và khu vực, chính từ hình thức tham gia là tự
nguyện nên số lượng người tham gia nhỏ, không ổn định, dễ bị lựa chọn
ngược bởi chỉ có một số ít người có nguy cơ ốm đau bệnh tật cao, người già
mới tham gia. Việc huy động được số lượng đông đảo người tham gia, nhất là
những người đang khỏe mạnh, tuổi trẻ là cực kỳ khó khăn. Bên cạnh đó còn
có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động, mà trước hết là nhận
thức của con người, là điều kiện kinh tế của từng cá nhân và của cả cộng
đồng, là thói quen, nếp sống và nhiều nguyên nhân khác tùy theo đặc điểm
của mỗi nước làm cho việc vận động người dân tham gia luôn là thách thức
lớn với mọi cơ quan thực hiện BHYT tự nguyện.

15
Không hoàn toàn giống như BHYT bắt buộc theo luật định, BHYT tự
nguyện được tiến hành hướng tới việc đảm bảo quyền lợi cho người tham
gia một cách mềm dẻo và đồng thuận trong cộng đồng. Chính từ tiêu chí
này mà hình thức BHYT tự nguyện rất phong phú và đa dạng ở mỗi quốc
gia, không thể áp đặt hoặc sao chép nguyên bản mô hình ở nước này cho
nước khác và ngay trong một nước cũng thường không có sự giống nhau về
mô hình triển khai BHYT tự nguyện khi thực hiện ở những vùng mà có sự
khác nhau về điều kiện kinh tế - xã hội hoặc phong tục tập quán.
Mặc dù có nhiều hạn chế và khó khăn khi thực hiện các mô hình
BHYT tự nguyện và không thể coi BHYT tự nguyện là hình thức chủ đạo

để có được BHYT toàn dân ở mỗi quốc gia nhưng các nước đã thực hiện
mô hình BHYT tự nguyện nhiều năm nay đều khẳng định: "BHYT tự
nguyện là bước quá độ, là bước tập dượt cần thiết để tiến tới BHYT toàn
dân". Trong giai đoạn đầu khi triển khai BHYT thì đối tượng bắt buộc
tham gia có phạm vi rất hẹp chỉ bao gồm những người có thu nhập ổn định
do đó mà phạm vi những đối tượng không đủ điều kiện tham gia BHYT là
rất đông, phần lớn trong xã hội, BHYT tự nguyện sẽ đáp ứng được nhu cầu
tham gia của những người này từ đó góp phần nâng cao công tác và bảo vệ
sức khỏe cho mọi người dân trong xã hội. Do không có tính chất bắt buộc
nên BHYT tự nguyện thực hiện được là thành công phụ thuộc rất lớn vào
đường lối chính sách và quan điểm của Đảng và Nhà nước trong phát triển
sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân. Mặt khác tuỳ vào điều kiện kinh
tế xã hội mà mỗi nước chọn cho mình một cách riêng để tổ chức thực hiện
bởi để thực hiện được thành công không phải là dễ đó là cả một quỏ trình.
Quá trình đó là quá trình đưa khái niệm BHYT tự nguyện vào trong nhận
thức của mọi người dân trong xã hội, khi họ hiểu rằng tham gia BHYT tự
nguyện họ và gia đình của họ sẽ được an toàn, được bảo vệ trước những rủi
ro ốm đau bệnh tật thì họ sẽ tự giác tham gia.

16
Nếu mức đóng của BHYT bắt buộc được quy định bằng một tỷ lệ phần
trăm nào đó so với thu nhập tức thu nhập cao thì mức đóng cao, thu nhập
thấp thì mức đóng thấp thì mức đóng của loại hình BHYT tự nguyện
thường rất thấp mà các dịch vụ y tế thường được hưởng là như nhau khi
phát sinh nhu cầu khám, chữa bệnh. Đây cũng là cách để thu hút số lượng
người tham gia BHYT tự nguyện. Tuy nhiên, trong BHYT bắt buộc số
lượng người tham gia thường ổn định và tăng qua các năm còn trong
BHYT tự nguyện thì lại không có điều đó, các mô hình BHYT tự nguyện
được thực hiện thường là thiếu bền vững một phần do trong thời gian tham
gia họ không phát sinh nhu cầu khám, chữa bệnh từ đó không muốn tham

gia tiếp khi hết hạn hợp đồng hoặc do Quỹ BHYT tự nguyện không đủ chi
trả cho nhu cầu khám, chữa bệnh của số ít người tham gia[76, tr32].
BHYT nói chung và BHYT tự nguyện nói riêng luôn luôn cần sự can
thiệp và giúp đỡ của Nhà nước, biểu hiện cụ thể: Nhà nước xây dựng chính
sách, xây dựng Luật BHYT, thiết kế chương trình BHYT tự nguyện chung
của quốc gia thông qua hàng loạt chính sách quy định về điều kiện triển
khai, đối tượng, mức đóng và ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn
các địa phương thực hiện; Nhà nước thực hiện việc quản lý giám sát hoạt
động của cả hệ thống làm BHYT tự nguyện; Nhà nước phân cấp việc đào
tạo, tổ chức huấn luyện đội ngũ cán bộ làm BHYT tự nguyện; cuối cùng
bằng nguồn lực ngân sách to lớn, Nhà nước thực hiện bao cấp một phần
mức phí, bao cấp dịch vụ y tế có chi phí lớn, bổ sung và hỗ trợ chi phí hoạt
động điều hành Quỹ BHYT tự nguyện.
1.2. Vai trò của thông tin báo chí trong sự phát triển BHYT, BHYT
tự nguyện
1.2.1. Đặc trưng thế mạnh của báo in trong hoạt động thông tin, tuyên
truyền BHYT tự nguyện
Thế mạnh của báo in

17
Báo in là một trong những loại hình của báo chí, bên cạnh phát thanh,
truyền hình và báo điện tử. Mặc dù là loại hình lâu đời nhất của báo chí và
chịu sự cạnh tranh khốc liệt của một số loại hình báo chí khác trong thời đại
kỹ thuật số, nhưng báo in vẫn khẳng định được vai trò, vị trí và tồn tại song
song với các loại hình báo chí khác, bởi những đặc trưng, thế mạnh riêng của nó.
Thứ nhất, xét ở loại hình thì báo in được xem là loại hình có truyền
thống lâu đời nhất. Theo PGS. TS Đinh Văn Hường, "Báo in là loại hình báo
chí trình bày tin, bài, hình ảnh trên giấy, chuyển tải thông tin mang tính thời
sự bằng ấn phẩm định kỳ và được phát hành rộng rãi trong xã hội".
Định kỳ của báo in có nhiều thể loại khác nhau như: hằng ngày, hàng

tuần, hàng tháng. Định kỳ của báo in chính là sự xuất hiện theo chu kỳ đều
đặn và cố định của sản phẩm báo, nói cách khác, nó quy định thời điểm mà
công chúng đón nhận sẩn phẩm. Báo in chuyển tải nội dung thông tin thông
qua văn bản in gồm: chữ in, hình vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ… Toàn bộ các
yếu tố thể hiện nội dung thông tin của tác phẩm báo in xuất hiện đồng thời
trước mắt người đọc, ngay trên cùng một trang báo, thông qua việc trình bày
tổ chức trang báo bao gồm các phần: tên chuyên mục, tiêu đề, tít, sapo hoặc
những dòng chữ gây chú ý, tít phụ cùng sự hỗ trợ của hình vẽ, tranh ảnh…
Công chúng đọc một bài báo in có thể do tít và sapo hấp dẫn hay cũng có thể
do tranh ảnh, biểu đồ minh họa được trình bày ấn tượng. Đây là một trong
những lợi thế nhất định của báo in.
Công chúng có thể cùng một lúc lướt mắt trên toàn bộ bài báo và sau
đó có thể tìm những thông tin mình quan tâm. Do phương thức thông tin đặc
thù trên, báo in có những đặc trưng như công chúng tiếp nhận thông tin trên
báo in thông qua thị giác, giác quan quan trọng nhất của con người trong mối
quan hệ với thế giới xung quanh, vì vậy, người đọc hoàn toàn chủ động trong
việc tiếp nhận thông tin từ báo in. Sự chủ động bao gồm từ việc bố trí thời
điểm đọc, lựa chọn trình tự đọc đến việc chủ động về tốc độ đọc, cách thức

×