Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

TRIẾT HỌC MACLÊNIN pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.85 KB, 10 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA BÁO CHÍ - TRUYỀN THÔNG

Học phần:
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
CHUYÊN ĐỀ :
VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC VÀ CÁC
TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC TRONG LỊCH SỬ.
GVHD SVTH:
NGUYỄN CẢNH CHẮT NGUYỄN THỊ KIỀU LY
Nhóm 10, Lớp Báo K35B



Huế, 11/ 2011

Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại,
giữa tâm và vật, giữa ý thức và vật chất. “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc
biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại” (Ăng-ghen).
Vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề
khác của triết học, là tiêu chuẩn để xác định lập trường thế giới quan của các triết
gia và học thuyết của họ.
Vấn đề cơ bản của triết học có 2 mặt:
Mặt thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau? cái nào
quyết định cái nào? Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới
hay không?
Việc giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học là xuất phát điểm của các
trường phái triết học trong lịch sử. Trả lời mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết
học đã xuất hiện nhất nguyên luận khi lấy việc thừa nhận chỉ một trong hai thực
thể (vật chất hoặc ý thức) là cái có trước và quyết định cái kia, nghĩa là cho rằng


thế giới chỉ có một nguồn gốc duy nhất.
Nhất nguyên luận bao gồm nhất nguyên luận duy tâm (chủ nghĩa duy tâm,
triết học duy tâm) và nhất nguyên luận duy vật (chủ nghĩa duy vật, triết học duy
vật).
Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm bản chất
của thế giới là ý thức; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có
trước và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và
nguồn gốc xã hội, đó là sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một
mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức, đồng thời thường gắn với lợi
ích của các giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Mặt khác, chủ
nghĩa duy tâm và tôn giáo cũng thường có mối liên hệ mật thiết với nhau để cùng
tồn tại và phát triển.
Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm chủ quan:
thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, khẳng định mọi sự vật, hiện tượng
chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân.
Béccli(1684-1753) là một đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan,
là nhà triết học nổi tiếng người Anh. Điểm xuất phát của triết học Béccli là kinh
nghịêm cảm tính được giải thích theo nghĩa “những tập hợp ý niệm”, “những
phức hợp cảm giác”. Béccli khẳng định rằng , ý niệm không phải là sự phản ánh
sự vật, mà nó chính là sự vật thực tế . Béccli đưa đến một công thức chung: tồn
tại tức là được tri giác. Mọi vật chỉ tồn tại trong chừng mực mà người ta cảm giác
được, không có chủ thể thì không có khách thể. Công thức này không tránh khỏi
dẫn tới chủ nghĩa duy ngã , nghĩa là ngoài cái tôi ra thì không có gì hết. Tính chất
phi lí hiển nhiên của chủ nghĩa duy ngã được Béccli giải quyết bằng cách cho
rằng, mọi vật trong vũ trụ, sỡ dĩ tồn tại được vì chúng được Thượng Đế tri giác .
Triết học Béccli chống lại nhận thức luận duy vật, thù địch với học thuyết về vật
chất và chủ nghĩa duy tâm khách quan .
Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý thức
nhưng tinh thần, ý thức ấy được quan niệm là tinh thần khách quan, ý thức khách
2

quan có trước và tồn tại độc lập với giới tự nhiên và con người. Thực thể tinh
thần, ý thức khách quan thường được mang những cái tên gọi khác nhau như “ý
niệm”, “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần tuyệt đối”, “lí tính thế giới”. Platôn (427-
347TCN) là một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy tâm khách quan. Theo
Platôn, giới tự nhiên - thế giới của những vật cảm tính, bắt nguồn từ những thực
thể tinh thần tức là những ý niện, vật thể cảm tính chỉ là cái bóng của ý niệm.
Ông cho rằng dể nhận thức được chân lí, người ta phải từ bỏ mọi cái hữu hình
cảm tính, phải hồi tưởng lại những gì mà linh hồn bất tử đã quan sát được trong
thế giới ý niệm. Thuyết hồi tưởng thần bí này được xây dựng trên cơ sở thừ nhận
tính bất tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác. Nếu phép biện chứng ở
Đêmôcrit được dùng để phục vụ khoa học thì phép biện chứng ở Platôn lệ thuộc
vào triết học duy tâm. Các hiện tượng tự nhiên bị ông quy thàng những quan hệ
toán học. Đạo đức học của ông được xây dựng trên cơ sở học thuyết về linh hồn
bất tử là một hình thức của lí luận tôn giáo, là một bộ phận quan trọng nhất của ý
thức tư tưởng của tầng lớp chủ nô quý tộc, là kẻ thù chính trị của chế độ dân chủ
chủ nô Aten. Platôn coi chế độ quý tộc, tức là chế độ nhà nước của tầng lớp chủ
nô thượng lưu là nhà nước lí tưởng. Hêghen (1770-1831) - nhà triết học cổ đại
Đức - cũng là một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy tâm khách quan. Triết học
của ông đầy mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lí
chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển thì hệ tư tưởng triết học duy tâm
của ông phủ nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân bên trong vốn có
của sự phát triển của tự nhiên và xã hội. Ông cho rằng khởi nguyên của thế giới
không phải là vật chất mà là ý niệm tuyệt đối hay tinh thần thế giới. Tính đa
dạng phong phú của thế giới hiện thực là khách quan của sự vận động và sáng tạo
của ý niệm tuyệt đối . Ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn. Theo nhận xét của
Lênin thì ý niệm tuyệt đối chỉ là một cách nói đường vòng, một cách nói khác về
thượng đế mà thôi. Cho nên triết học của Hêghen là sự biện hộ cho tôn giáo.
Hêghen đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình, ông là người đầu tiên
trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình trong sự
vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Đồng thời trong khuôn khổ của

triết học duy tâm khách quan của mình, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù
như chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn mà còn nói đến cả các quy luật như lượng
đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại, phủ định của phủ định và quy luật mâu thuẫn.
Nhưng tất cả những cái đó chỉ là quy luật vận động và phát triển của bản thân tư
duy, của ý niệm tuyệt đối. Tự nhiên, xã hội phát triển trong sự phụ thuộc vào sự
phát triển của ý niệm tuyệt đối.Ý niệm tuyệt đối , tinh thần thế giới là tính thứ
nhất ,giới tự nhiên là tính thứ hai, do ý niệm tuyệt đối và tinh thần thế giới sinh ra
và quyết định, là một sự tồn tại khác của tinh thần sau khi trải qua giai đoạn tồn
tại khác ấy, ý niệm tuyệt đối hay tinh thần thế giới mới trở lại với bản thân mình
và đó là giai đoạn cao nhất, giai đoạn tột cùng, được Hêghen gọi là tinh thần tuyệt
đối.
Ngược lại, chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học xuất phát từ quan điển
bản chất của thế giới là vật chất, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ
hai,vật chất có trước và quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc từ sự
phát triển của khoa học và thực tiễn, thì gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng
3
tến bộ trong lịch sử. Nó là kết quả của quá trình đúc kết khái quát kinh nghiệm để
vừa phản ánh những thành tựu mà con người đạt được trong từng giai đoạn lịch
sử,vừa định hướng cho các lực lượng xã hội tiến bộ hoạt động trên nền tảng của
những thành tựu ấy.
Chủ nghĩa duy vật có gồm hình thức cơ bản chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây
thơ thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình thế kỉ XVII-XVIII, chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật tầm thường và chủ nghĩa duy vật
kinh tế:
Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ thời cổ đại: Nó xuất hiện ở nhiều dân
tộc trên thế giới, nhất là các nước Ấn Độ ,Trung Quốc và Hi Lạp. Quan điểm của
chủ nghĩa duy vật thời kì này nói chung là đúng đắn nhưng mang tính ngây thơ,
chất phác vì chủ yếu dựa vào các quan sát trực tiếp, chưa dựa vào thành tựu của
các bộ môn khoa học chuyên ngành, vì các bộ môn khoa học chuyên ngành lúc
đó chưa phát triển. Chủ nghĩa duy vật chất phát, ngây thơ là kết quả nhận thức

của các nhà triết học duy vật thời cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kì này trong khi
thừa nhận tính chất thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một
số chất cụ thể và những kết luận của nó mang nặng tính trực quan nên ngây thơ ,
chất phác. Tuy còn rất nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ
đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy giới tự nhiên để giả thích về giới tự nhiên,
không viện đến thần linh hay Thượng đế (một đấng sáng tạo nào) để giải thích thế
giới.
Đêmôcrit(460-370 TCN)là một đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa duy vật
cổ đại với học thuyết nguyên tử luận, là một trong những nhà duy vật lớn nhất
thời cổ đại, Đêmôcrit cho rằng tất cả mọi vật đều hình thành từ những nguyên tử,
đó là một phần tử vật chất hoàn toàn bé nhỏ ,cơ sở của mọi vật và không thể phân
chia được nữa, không thểe cảm nhận được bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cữu
, không thay đổi, trong lòng nó không có cái gì xảy ra nữa. Nguyên tử có vô vàn
hình dạng. Các sự vật là do các nguyên tủe liên kết lại với nhau tạo nên.Tính đa
dạng của nguyên tử làm nên tính đa dạng của thế giới sự vật. Nguyên tử tự thân ,
không vận động,nhưng khi kết hợp với nhau thành vật thể thì làm cho vật thể và
thế giới vận động không ngừng. Khái niệm linh hồn được hiểu như là hoạt động
tâm lí. Linh hồn là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt thế giới hữu sinh và thế giới vô
sinh. Linh hồn cũng là một dạng vật chất được cấu tạo từ những nguyên tử đặc
biệt có hình cầu như ngọn lửa, có vận tốc lớn,luôn luôn chuyển động và sinh ra
nhiệt làm cho cơ thể hưng phấn và vận động. Do đó linh hồn có một chức năng
quan trọng là đem lại cho cơ thể sự khởi đầu vận động.
Chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình thế kỉ XVII-XVIII: Đây là thời kì phát
triển rực rỡ của cơ học cổ điển khiến cho quan điểm xem xét thế giới theo kiểu
máy móc chiếm địa vị thống trị và tác động mạnh mẽ đến các nhà duy vật.Các
nhà duy vật máy móc xem xét giới tự nhiên và con người chỉ như hệ thống máy
móc phức tạp khác nhau mà thôi.Chủ nghĩa duy vật này còn là siêu hình vì họ chỉ
thấy sự vật trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng , không vận động ,không phát
triển.
Phoiơbắc(1804-1872) là một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật máy

móc siêu hình thế kỉ XVII-XVIII , là một trong những nhà duy vật lớn nhất của
4
triết học cổ điển Đức và của triết học thời kì trước Mác. Công lao vĩ đại của ông
là đã khôi phục lại địa vị xứng đáng của triết học duy vật và đã giáng một đòn rất
nặng vào triết học duy tâm khách quan của Hêghen và vào chủ nghĩa duy tâm nói
chung. Phoiơbắc chứng minh rằng thế giới là vật chất ,giới tự nhiên không do ai
sáng tạo ra ,nó tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ thứ triết
học nào. Do đó , cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay trong lòng giới tự
nhiên, chống lại hệ thống duy tâm của triết học Hêghen coi giới tự nhiên là sự tồn
tại khác của tinh thần, Phoiơbắc chỉ ra rằng triết học mới này phải có tính chát
nhân bản, phải kết hợp với khoa học tự nhiên. Nguyên lí nhân bản của triét học
Phoiơbắc xóa bỏ sự tách rời giữa tinh thần với thể xác do triết học duy tâm và
triết học nhị nguyên luận tạo ra. Mặt tích cực trong triết học nhân bản của
Phoiơbắc còn thể hiện ở chỗ ông đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo chính
thống của đạo thiên chúa, đặc biệt quan niệm về Thượng Đế. Trái với quan niệm
truyền thống của tôn giáo và thần học cho rằng Trượng Đế sáng tạo ra con người,
Phoiơbắc khẳng định rằng chính con người sáng tạo ra Thượng Đế. Nếu Hêghen
nói đến sự tha hóa của ý niệm tuyệt đối thì trái lại, Phoiơbắc nói đến sự tha hóa
của bản chất con người vào Thượng Đế. Ông lập luận rằng bản chất tự nhiên của
con người là muốn hướng tới cái chân cái thiện-hướng tới cái gì đẹp nhất trong
một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái đó con
người không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng
Thượng Đế, từ đó Phoiơbắc phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị
thượng đế siêu nhiên đứng ngoài sáng tạo ra con người , chi phối cuộc sống con
người. Triết học nhân bản của Phoiơbắc cũng bộc lộ những hạn chế đứng luôn
trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng về con người
và xã hội - con người trừu tượng phi xã hội, những thuộc tính sinh học bẩm
sinh ,chứa đựng những yếu tố duy tâm. Bản chất con người là tình yêu , tôn giáo
cũng là một tất yếu. Do vậy thay thế cho thứ tôn giáo tôn sùng một vị Thượng Đế
siêu nhiên cần xây dựng một thứ tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con

người, cần phải biến tình yêu thương giữa con người thành mối quan hệ chi phối
với mọi quan hệ xã hội khác thành lí tưởng xã hội.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ăngghen xây dựng sau đó được
Lênin phát triển. Ngay từ khi mới ra đời ,chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc
phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật
siêu hình thế kỉ XVII-XVIII ,thể hiện đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa
duy vật.
Mác là một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng,sinh ngày 5-5-
1818 mất ngày 14/3/1983. 4/1841: nhận bằng tiến sĩ triết học. Theo Mác gắn bó
với cuộc đấu tranh cách mạng, lí luận tiên phong có ý nghĩa cách mạng to lớn và
trở thành một sức mạnh vật chất. Mác chỉ rõ:”Giống như triết học thấy giai cấp
vô sản là thứ vũ khí vật chất của mình,giai cấp vô sản cũng thấy triết học lã thứ
vũ khí tinh thần của mình”.Tư tưởng về vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp
vô sản là điểm xuất phát của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Như vậy , quá trình
hình thành và phát triển tư tưởng triết học duy vật biện chứng và triết học duy vật
lịch sử cũng đồng thời là quá trình hình thành chủ nghĩa cộng sản khoa học, thế
giới quan vô sản cách mạng. Mác đã phân tích sự tha hóa của lao động với phạm
5
trù “lao động bị tha hóa”, từ đó, Mác cắt nghĩa sự tha hóa bản thân con ngườivà
vạch ra con đường khắc phục sự tha hóa đó. Mác xem sự tha hóa của lao động
như một phần tất yếu của lịch sử: “tự tha hóa” của lao động. Sự tồn tại và phát
triển của “lao động bị tha hóa” gắn liền với sỡ hữu tư nhân. Mác cho rằng , sở
hữu tư nhân được sinh ra do “lao động bị tha hóa”, nhưng sau đó lại trở thành
nguyên nhân của sự tha hóa của lao động và sự tha hóa của con người. Sự tha hóa
đó phát triển cao độ trong chủ nghiõa tư bản, thể hiện ở sức lao động bị biến
thành hàng hóa cũng như ở quá trình hoạt động sản xuất và sản phẩm của lao
động, từ đó dẫn tới “sự tha hóa của con người khỏi con người”. Bởi vậy việc khắc
phục sự tha hóa ấy chính là sự xóa bỏ chế độ sỡ hữu tư nhân. Việc giải phóng
người công nhân khỏi “lao động bị tha hóa”dưới chủ nghĩa tư bản cũng là khắc
phục lao động bị tha hóa nói chung, là sự giải phóng con người nói chung. Nhận

thức về mặt xã hội của bản chất con người. Mác viết: “trong tính hiện thực của nó
,bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
Ăngghen cũng là một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
sinh ngày 28-11-1820 và mất ngày 5-8-1895. Ăngghen đã phát triển triết học Mác
thông qua việc khái quát các thành tựu khoa học và phê phán các lí thuyết triết
họcduy tâm ,siêu hình và cả những quan niệm duy vật tầm thường ở những người
nhận là người macxit nhưng lại không hiểu đúng thực chất của học thuyết Mác-
Ăngghen đã trình bày học thuyết Mác nói chung, triết học Mác nói riêng dưới
dạng một hệ thống lí luận.
Lênin(1870-1924) cũng là một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác để giải quyết những vấn đề của
cách mạng vô sản trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Ông đã có đóng góp to lớn vào sự phát triển lí luận của chủ nghĩa
Mác nói chung, triết học Mác nói riêng , nhất là lí luận về hình thái kinh tế -xã
hội của Mác.Chính vì vậy mà một giai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa
Mác nói chung , triết học Mác nói riêng để gắn liền với tên tuổi của Lênin và
được gọi là triết học Mác-Lênin nói riêng ,chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung.
Chủ nghĩa duy vật tầm thường không thấy sự khác biệt giữa vật chất và ý
thức, xem ý thức là một dạng vật chất, coi tư tưởng đối với óc gần như mật đối
với gan hay là nước tiểu đối với thận.
Chủ nghĩa duy vật kinh tế xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX , coi kinh tế là cái
quyết định duy nhất sự phát triển của xã hội, trong khi đó thực ra kinh tế chỉ quy
định sự phát triển của xã hội khi xét đến cùng và cũng không phải là nhân tố
quyết định duy nhất.Ta biết rằng , ngoài kinh tế các yếu tố khác như các tiền đề
và điều kiện chính trị, các lí luận pháp lí,triết học , tôn giáo cũng đều có vai trò
rất lớn trong sự phát triển của lịch sử và xã hội.
Trả lời mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học cũng đã xuất hiện nhị nguyên
luận khi lấy việc thừa nhận vật chất và ý thức là hai nguyên thể song song tồn tại,
không cái nào có trước , chúng là hai nguồn gốc tạo nên thế giới.
Triết học nhị nguyên luận biểu hiện tính không triệt để khi giải đáp mặt thứ

nhất vấn đề cơ bản của triết học, vì vậy nó thường sa vào chủ nghĩa duy tâm.
Đêcáctơ là một đại biểu xuất sắc của triết học nhị nguyên luận. Ông cho rằng
có hai thực thể là vật chất và tinh thần tồn tại độc lập với nhau, nhưng cả hai thực
6
thể này đều phục tùng nguyên thể thứ ba-nguyên thể tối cao là thần linh ,Thượng
Đế. Nhị nguyên luận của Đêcáctơ biểu hiện tính chất thỏa hiệp của hệ tư tưởng tư
sản. Đêcáctơ coi triết học là con người , do con người và vì con người . Nhiệm vụ
của siêu hình học là xây dựng một bức tranh khái quát về thượng đế, giới tự nhiên
và chính bản thân con ng ười tạo tiền đề cho các khoa học khác hoàn chỉnh và cụ
thể hóa bức tranh đó.Thêo ông thì Thượng Đế là có thực ,chỉ có nhờ Thượng Đế
thì mọi vật mới tồn tại và phát triển như chúng hiện có. Sự bảo toàn thế giới bởi
Thượng Đế chính là quá trình liên tục sản sinh ra các sự vật. Khẳng định sự tồn
tại của Thượng Đế , Đêcactơ đặc biệt nhấn mạnh tính trí tuệ của khái niệm này
,khát vọng của con người là vô biên,vì vậy cần phải có Thượng Đế tượng trưng
cho sự hoàn hảo và tối cao tuyệt đối. Khái niệm Thượng Đế có tác dụng định
hướng và niềm tin cho nhận thức cũng như mọi ước vọng của con người. Đêcactơ
đi đến khẳng định sự khác nhau cơ bản nhất giữa các sự vật do Thượng Đế sáng
tạo ra là một số các sự vật ,những vật trí tuệ,những thực thể tư duy và một số các
vật khác những vật thể. Hai loại sự vật , đó là thực thể tư duy bao gồm toàn bộ
các ý niệm tư tưởng, tổng số các ý thức cá nhân của con người,sự tương đồng
giữa chúng và đó là những thực thể quảng tính hay vật chất bao gồm những sự
vật mang tính thời gian và không gian.Hai thực thể này do Thượng Đế sinh ra cho
nên nó phụ thuộc vào Thượng Đế. Ngoài Thượng Đế duy nhất ra ,tất cả mọi vật
đều thuộc về một trong hai thực thể đó. Duy chỉ có con người là một vật đặc biệt
thuộc về cả hai. Từ lập trường nhị nguyên luận trong việc xem xét mối quan hệ
giữa hai thực thể, Đêcactơ ví con người như sự liên kết nhờ Thượng Đế, linh hồn
và thể xác như hai mảnh hoàn toàn tách rời nhau,vì bản chất của thực thể tinh
thần hoàn toàn không phụ thuộc vào con người. Tóm lại bức tranh khái quát về
thế giới được thể hiện trong siêu hình học của Đêcáctơ là Thượng Đế: thực thể
tinh thần, tư duy , linh hồn con người và thực thể quảng tính vật chất ,thể xác con

người. Đêcáctơ thừa nhận và nhấn mạnh rằng, nghi ngờ là để tìm ra chân lí đó chỉ
là tiền đề chứ không phải là kết luận. Nghi ngờ là điểm xuất phát của phương
pháp khoa học. Đềcacơ nhấn mạnh rằng dù rằng anh nghi ngờ mọi cái nhưng
không thể nghi ngờ rằng anh nghi ngờ. Đêcáctơ nói: “Tôi tư duy , vậy tôi tồn tại”
và ông cho đó là nguyên lí bất di bất dịch. Đêcáctơ là người sáng lập ra chủ nghĩa
duy lí. Chủ nghĩa duy lí của Đêcáctơ ở một mức độ khá lớn có liên hệ với chủ
nghĩa duy tâm, vì ông cho rằng trong lí trí của con người có “những tư tưởng bẩm
sinh”, độc lập với kinh nghiệm. Đêcáctơ đã thừa nhận một cách sai lầm rằng
những nguyên tắc cơ bản của lôgic học và toán học là những cái bẩm sinh, không
phụ thuộc vào kinh nghiệm.
Trả lời mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học cũng đã xuất hiện đa nguyên
luận cho rằng vạn vật là do vô số nguyên thể độc lập cấu thành. Đa nguyên luận
triết học là một học thuyết triết học duy tâm.
Lépnít(1646-1716) là nhà triết học , nhà toán học ,vật lí học lỗi lạc người
Đức, là một đại biểu của đa nguyên luận. Ông là người đầu tiên dùng thuật ngữ
“chủ nghĩa duy vật” và “chủ nghĩa duy tâm” để ám chỉ hai khuynh hướng triết
học cơ bản:
Khuynh hướng thứ nhất của vật chất là bản chất của thế giới tiêu biểu như
Đêmôcrít, Êpiquya, Hốpxơ.
7
Khuynh hướng thứ hai coi bản chất của thế giới là tinh thần, ý niệm như
Platôn , Pitago.
Lépnít nhận thấy mặt tích cực cũng như hạn chế của chúng. Chẳng hạn
khuynh hướng duy vật có ưu điểm là bài trừ kinh viện, ủng hộ khoa học nhưng lại
không nhận thấy được sứ mệnh vô biên của Thượng Đế, còn mặt tích cực của chủ
nghĩa duy tâm là đề cao sức mạnh cuả tinh thần ,nhưng lại không đánh giá đúng
vai trò của vật chất. Theo ông thì xây dựng một hệ thống Triết học mới trên cơ sở
tiếp thu những mặt tích cực của Triết học trước đây, đồng thời khắc phục những
hạn chế của nó dựa trên các nguyên lí phương pháp luận cơ bản . Đây là linh hồn
sống của Triết học Lépnít với luận điểm coi “chủ thể phong phú hơn khách

thể,lấy trí tuệ con người làm thước đo để phán xét mọi cái ”. Lépnít đã đề ra các
nguyên lí cơ bản của một phương pháp luận mới ,vì “sự thông thái-đó là tri thức
hoàn thịên về các nguyên lí của tất cả các khoa học và nghệ thuật vận dụng
chúng”. Phương pháp luận là một tổng thể hữu cơ các nguyên lí được hiểu như
những chân lí sơ đẳng đảm bảo từ đó suy diễn ra mọi kết luận trong mọi trường
hợp cần thiết,sau khi chúng ta đã ít nhiều thấm nhuần và vận dụng chúng.
Phương pháp luận của Lépnít bao gồm 11 nguyên lí:
1. Nguyên lí khác nhau phổ biến. Nó khẳng định “ mặc dù tồn tại nhiều sự vật
cùng một loại ,tuy nhiên không bao giờ có thể tồn tại những sự vật hoàn toàn
như nhau”.Vì vậy đây là một nguyên lí đơn nhất hóa thế giới thể hiện tính đa
dạng của nó.Mỗi vật chỉ tồn tại một lần duy nhất mà thôi.Các sự vật khác nhau
thực sự chứ không phải bề ngoài.Trong nhận thức luận,nguyên lí này đòi hỏi
chúng ta phải tuân theo tính đa dạng của sự vật thì mới hiểu được bản chất của
chúng.Lépnít đưa ra khái niệm “chân lí sự thực” ám chỉ tri thức đúng đắn của
con người về một vật cụ thể nào đó. Khoa học hiện đại xác nhận tính hợp lí
của nguyên lí trên.
2. Nguyên lí đồng nhất của các sự vật không khác nhau: khẳng định nếu 2 vật,
trong đó mọi tính chất của vật này cũng là tất cả các tính chất của vật kia và
ngược lại thì chúng đồng nhất với nhau, tức là cùng một vật.Nguyên lí này bổ
sung cho nguyên lí 1.
3. Nguyên lí liên tục trực tiếp đối lập với 2 nguyên lí trên.Theo nó thì trong quá
trình phát triển luôn luôn có sự kế thừa. Lépnít khẳng định “cái hiện tại là kết
quả của quá khứ đồng thời lại là tiền đề của tương lai và mọi trạng thái hiện
taị chỉ có thể được giải thích thông qua trạng thái trực tiếp trước nó”.
4. Nguyên lí gián đoạn: đối lập trực tiếp với nguyên lí 3.Nguyên lí này khẳng
định tính gián đoạn trong sự phát triển của tất thảy mọi vật bởi vì chỉ có như
vậy thì chúng ta mới phân biệt vật này với vật khác. Đây còn gọi là nguyên lí
đơn tử,là kết quả phát triển của nguyên lí thứ nhất.Nó khẳng định thế giới là
một hệ thống mở, thừa nhận giới hạn tương đối trong sự phân chia của các sự
vật . Cùng với các nguyên lí trên ,nguyên lí này tạo thành một bức tranh về thế

giới vừa thống nhất vừa đa dạng với sự phát triển đầy nghịch lí.
5. Nguyên lí đầy đủ: khẳng định thế giới chúng ta chứa đựng trong mình nó một
cách trọn vẹn và đầy đủ mọi sự vật với tất cả các tính chất của chúng.
6. Nguyên lí hoàn thiện : khẳng định mọi sự vật cũng như bản thân giới tự nhiên
đều đang không ngừng vận động hướng tới ngày hoàn thiện.
8
7. Nguyên lí thứ 7 chỉ ra mối quan hệ giữa thế giới của các khả năng xét về
phương diện logic (tức thế giới các tư tưởng ý niệm) với thế giới hiện thực của
nó , tức là thế giới của các vật thể.
8. Nguyên lí thứ 8 để cập đến quan niệm của Lépnít đối với logic hình thức trước
đó.Lépnít quy tụ cả ba quy luật của logic trước đó –quy luật đồng nhất ,quy
luật cấm mâu thuẫn, quy luật loại trừ cái thứ ba- thành nguyên lí thứ 8 của
ông.
9. Nguyên lí thứ 9 chính là quy luật cơ sở đấy đủ (một số người thường gọi là
quy luật lí do đầy đủ).Nguyên lí này khẳng định mọi luận đề ,quan điểm , tư
tưởng của chúng ta đều phải được lí giải ,chứng minh một cách chặt chẽ trên
một cơ sở và nền tảng đủ thể hiện sự đúng đắn và hợp lí của chúng khẳng định
mọi sự vật trong thế giơí chúng ta đều có cơ sở đầy đủ chỉ ra mối liên hệ nhân
quả trong các sự vật, hiện tượng của thế giới chúng ta.
10. Nguyên lý thứ 10 khẳng giữa mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật cũng như
giữa các tư tưởng, ý niệm, cho phép các khoa học liên hệ hữu cơ với nhau để
cùng khám phá ra chân lí. Mọi lĩnh vật nhận thức của con người đều không
tách rời nhau.
11.Nguyên lí cuối cùng là nguyên lí cực đại và cực tiểu. Nó cho rằng cực tiểu của
bản chất sản sinh ra cực đại của tồn tại .Trong nhận thức luận nó thể hiện dưới
dạng thu được nhiều nhất mà lại đỡ tốn công sức nhất .Phương pháp luận của
Lépnít chúa đựng nhiều tư tưởng biện chứng sâu sắc.
Trả lời mặt thứ 2 vấn đề cơ bản của triết học xuất hiện khả tri luận và bất khả
tri luận.
Khả tri luận cho rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới.

Khả tri luận bao gồm khả tri luận duy vật và khả tri luận duy tâm. Tuyệt đại
đa số các nhà triết học trong lịch sử (cả các nhà duy vật và các nhà duy tâm) trả
lời một cách khẳng định rằng: con người có khả năng nhận thức được thế giới.
Đó là tính đồng nhất của tư duy và tồn tại.Song nếu các nhà duy vật tiòm cơ sở
của sự đòng nhất đó ở vật chất, vì tư duy, ý thức con người cũng do vật chất sinh
ra thì trái lại những nhà duy tâm lại tìm cơ sở đó ở ý thức ,tinh thần. Chẳng hạn,
Hêghen là người thể hiện một cách nhất quán và rõ ràng quan điểm về tính đồng
nhất của tư duy và tồn tại trong hệ thống triết học của ông. Hêghen cho rằng có
một thực thể tinh thần được gọi là ý niệm tuyệt đối đã tồn tại trước cả giới tự
nhiên, sau đó, trong quá trình phát triển của mình, thực thể tinh thần ấy hóa thành
giới tự nhiên và con người có tư duy, quá trình nhận thức của con người chẳng
qua là quá trình ý niệm tuyệt đối tự nhận thức bản thân mình mà thôi.
Trả lời mặt thứ 2 vấn đề cơ bản của triết học cũng đã xuất hiện bất khả tri
luận (thuyết không thể biết) cho rằng con người không thể hiểu biết được thế
giới.
Đavíthium (1711-1776) - nhà triết học Anh – là một đại biểu bất khả tri luận.
Hi-um tiếp tục đường lối duy tâm chủ quan của Beccli nhưng lại khác với Beccli,
Hi-um đi đến chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không thể biết .Hi-um không thừa
nhận bất cứ một thực thể nào. Thực thể ,theo ông ,chỉ là một sự trừu tượng giả
dối được hình thành trên cơ sở củ thói quen tâm lí giản đơn. Ông là người sáng
lập những nguyên tắc cơ bản của thuyết không thể biết ở châu Âu thời cận đại. Lí
9
luận nhận thức của Hi-um xây dựng trên copư sở kết quả cải biến chủ nghĩa duy
tâm chủ quan của Beccli theo tinh thần của thuyết không thể biết và biện tượng
luận-một học thuyết triết học cho rằng con người chỉ nhận biết được hình thể bề
ngoài của sự vật mà không thể xâm nhập được vào bản chất của chúng, tách rời
hiện tượng và bản chất.
Cantơ – nhà triết học cổ điển Đức - cũng là một đại biểu. Ông cho rằng ,
thế giới các vật thể quanh ta mà ta thấy được lại không liên quan gì đến cái gọi là
thế giới vật tự nó,chúng chỉ là các hiện tượng phù hợp với cái cảm giác và tri giác

do lí tính của ta tạo ra, nhưng các cảm giác và trí giác không cung cấp cho hiểu
biết gì về thế giới vậy chất tự nó. Nói cách khác ,theo Cantơ nhận thức con người
chỉ biết được hiện tượng bề ngoài mà không xâm nhập được vào bản chất đích
thực của sự vật, không phán xét được gì về sự vật như chúng tự thân tồn tại.Như
vậy ,trong lĩnh vực nhận thức luận, Cantơ là người theo thuyết không thể
biết.Vấn đề mà những người theo thuyết không thể biết đặt ra và đã không giải
quyết được là làm thế nào để biết được rằng những cảm giác, biểu tượng và nói
chung ý thức của con người có phù hợp với sự vật mà con người muốn nhận thức
hay không? Thực ra đây là câu hỏi khó có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu
tính biện chứng của quá trình nhận thức của con người. Nhưng các giác quan của
con người cũng như khái niệm nhận biết của mỗi giác quan đều là có hạn.
Ý thức được các mặt hạn chế của nhận thức và tính tương đối của chân lí
là bước phát triển của tư duy triết học. Nhưng nếu từ đó đi tới phủ nhận khả
năng nhận thức thế giới của tư duy con người , phủ nhận chân lí khách quan
lại là điều sai lầm và rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Biểu hiện ở trào lưu triết học
hoài nghi luậnlà Priôi- thời Hi Lạp cổ đại, nâng sự hoài nghi lên thành
nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người
không thể đặt chân lí khách quan và hoài nghi luận thời Phục Hưng lại có tác
dụng quan trọng trong cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng Trung cổ và uy tín
của giáo hội thời trung cổ vì nó thừa nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh thánh
và các tín điều tôn giáo.
10

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×