Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

LICH SU MI THUAT potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.26 KB, 13 trang )

A. MỞ ĐẦU
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử nhưng dân tộc ta vẫn giữ vững và phát huy
được truyền thống giữ nước và yêu nước. Mặc dù đã không ít lần dân tộc ta
bị giặc ngoại xâm chiếm đóng và thống trị, nhưng không phải vì thế mà đất
nước ta bị suy tàn, văn hoá dân tộc bị mai một. Bởi với tinh thần đấu tranh
anh dũng và kiên cường của dân tộc ta, cho nên đến nay đất nước ta không
những không bị tán phá, nền văn hoá nghệ thuật của chúng ta không những
không bị đồng hoá mà bản sắc văn hóa dân tộc của ta còn được giữ vững và
khẳng định hơn. Bên cạnh đó nền Mỹ thuật Việt Nam đã chịu ảnh hưởng của
một số nền văn hóa xung quanh ở một vài nội dung và trong những thời kỳ
nhất định, nhưng phong cách sáng tạo hoàn toàn mang đặc điểm, tinh thần,
tư tưởng và quan niệm tạo hình của người Việt Nam. Do đó, những tác
phẩm mỹ thuật Việt Nam từ ngàn xưa đến nay đã phản ánh được cuộc sống ,
sinh hoạt con người và cảnh vật của quê hương đất nước, với một phong
cách Việt Nam mang đậm bản sắc dân tộc.
Chính vì thế ngày nay chúng ta giữ được nhiều tác phẩm có giá trị kể các tác
phẩm thời nguyên thủy
Vào năm 1960, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy di tích núi Đọ,
thuộc xã Thiệu Khánh, huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Hàng ngàn hiện
vật khảo cổ được phát hiện. Mặc dù đó là những mảnh tước, hạch đá, các
công cụ chặt, nạo, rìu tay được chế tác rất thô sơ và nghèo nàn về loại hình,
song nó đã chứng tỏ sự có mặt làm ăn sinh sống của những người nguyên
thuỷ trải dài trên đất nước Việt Nam của chúng ta. Trên cơ sở đó đến cuối
thời kỳ đồ đá mới, mỹ thuật đã phát triển hơn một nửa bước so với thời kỳ
trước. Tuy vậy. phải đến thời kỳ đồ đồng, chúng ta mới tìm hiểu được nhiều
tác phẩm mỹ thuật, thuộc nhiều loại hình nghệ thuật tạo hình.
Trở về với thời kỳ xa xưa nhất của lịch sử mỹ thuật dân tộc, chúng ta thử đi
tìm hiểu về sử hình thành và phát triển của mỹ thuật Việt Nam, những loại
hình nghệ thuật tạo hình nào xuất hiện sớm nhất? Mỹ thuật nguyên thuỷ Việt
Nam có phong phú, đa dạng như nghệ thuật nguyên thuỷ thế giới hay
không? Trong xã hội thời nguyên thuỷ, trình độ mỹ thuật phát triển ở mức


độ nào? Mỹ thuật thời nguyên thuỷ có những đặc điểm, giá trị cơ bản nào?
Chúng ta cùng tìm hiểu mỹ thuật thời kỳ này để hiểu được những bước đi
khởi đầu của nền nghệ thuật tạo hình dân tộc
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG
1.1. Khái niệm về Mỹ thuật
Mỹ thuật là nghệ thuật tạo ra cái đẹp nhằm phục vụ nhu cầu vật chất và tinh
thần của con người. Mỹ thuật là nghệ thuật của thị giác hoặc nghệ thuật của
mặt phẳng, của không gian, bằng cách sắp xếp đường nét, hình mảng, hình
khối, đậm nhạt, màu sắc… với các chất liệu phong phú đa dạng.Những gì
trong giới tự nhiên và trong đời sống xã hội đem lại sự thích thú, sự khoái
cảm đều được coi là cái đẹp như: cảnh đẹp chùa Tây Phương, chùa Hương
Tích, một công trình kiến trúc đẹp, một tác phẩm hội họa, điêu khắc đẹp…
1.2. Nguồn gốc Mĩ thuật
Mỹ thuật Việt Nam không phải được xuất hiện cùng một lúc với buổi sơ
khai của xã hội loài người, mà mãi đến cuối thời kỳ đồ đá cũ mới xuất hiện.
Như vậy là khoảng vài nghìn năm trước công nguyên bắt đầu có những dấu
hiệu đầu tiên về nghệ thuật tạo hình. Lúc đó con người đã khá trưởng thành,
đã có tiếng nói và đã biết chế tạo công cụ lao động khá phức tạp bằng nhiều
chất liệu như đá, xương, sừng động vật… Cũng như ngôn ngữ, tiếng nói của
người nghệ sĩ tạo hình phát sinh từ thời nguyên thủy trên cơ sở lao động do
quá trình nhận thức lâu dài thế giới hiện thực. Nhờ săn bắn mà con người
nhận ra nhịp điệu, người nguyên thủy vẽ được những con bò rừng sinh động,
những hình người nhảy múa náo nhiệt…Như vậy, ta có thể thấy rõ lao động
đã xuất hiện trước nghệ thuật. Trong quá trình chế tạo công cụ lao động, con
người đã nghĩ đến cái có ích trước, có nghĩa là làm sao cho công cụ lao động
tiện dụng trong việc kiếm thức ăn, săn bắn thú vật… Đến một lúc nào đó,
khi công cụ lao động đạt đến độ hoàn thiện thì “cái đẹp” cũng có nghĩa là
“nghệ thuật” mới xuất hiện. Trong quá trình lao động và đấu tranh xã hội,
nhu cầu khách quan của lịch sử, do vận động của các mối quan hệ thẩm mỹ

mà có những hình thức hoạt động nghệ thuật khác nhau đã ra đời, trong đó
có nghệ thuật tạo hình. Bắt đầu là những hình vẽ trên vách, trần, các hang
động nơi người nguyên thủy từng cư trú. Lúc mới hình thành, tư duy của con
người chưa phát triển, con người chưa nhận thức được thế giới, do đó thiên
nhiên đối với con người lúc đó còn mờ mịt, bí hiểm. Càng ngày con người
càng phát triển hoàn thiện hơn về tư duy và ý thức… họ nhận thức được thế
giới xung quanh. Nghệ thuật chính là sự biểu hiện những nhận thức đó bằng
một thứ “ngôn ngữ” đặc biệt: ngôn ngữ hình tượng, màu sắc. Nghệ thuật là
một hình thái của ý thức xã hội, hơn thế nó còn là một hình thái đặc biệt của
ý thức xã hội. Nghệ thuật có sự liên quan mật thiết với các hình thái ý thức
khác thuộc phạm trù triết học, pháp luật, đạo đức… Đồng thời nghệ thuật
phản ánh quan hệ đa dạng của đời sống hiện thực. Nói một cách khác, nghệ
thuật chính là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội thông qua thế giới quan
và nhân sinh quan của người nghệ sĩ. Tuy nhiên, đó cũng là một hình thái
của ý thức xã hội nên nghệ thuật cũng luôn thay đổi theo lịch sử, theo thời
đại, theo dân tộc. Mỗi một hình thái ý thức phản ánh hiện thức theo đặc thù
riêng của nó, không hình thái nào giống hình thái nào. Phương tiện phản ánh
của nghệ thuật là hình tượng nghệ thuật lại được biểu hiện bằng những cách
thức khác nhau đối với từng loại hình nghệ thuật.
1.3. Mĩ thuật với cuộc sống con người
Ngay từ buổi đầu sơ khai con người đã biết làm đẹp bằng cách trang trí lên
người những màu sắc có sẵn trong thiên nhiên, đeo lên người những xâu
chuỗi bằng vỏ ốc, những lông chim, lông thú sặc sỡ… Đã biết chế tạo những
công cụ lao động bằng đá, bằng đồng từ hình dáng thô sơ đến tiện dụng và
thẩm mỹ.
Cũng từ đó mỹ thuật luôn gắn bó với lịch sử phát triển của con người và
ngày càng đạt tới mức độ nghệ thuật cao… Từ những văn hoa trang trí đơn
giản, mộc mạc, đến những họa tiết trang trí tinh vi, phong phú … Từ các nét,
các kiểu trang phục khác nhau với các họa tiết, màu sắc khác nhau của các
dân tộc, trải qua nhiều thời đại đã cho ta thấy một nền nghệ thuật đặc sắc,

độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc.
Ngày nay, trong đời sống xã hội mới, nhu cầu thẩm mỹ ngày càng phong
phú và đa dạng nên yêu cầu mỹ thuật cũng phải đổi mới về chất lượng và
kiểu dáng. Chính vì vậy trong xã hội mới ngày nay mỹ thuật là giá trị không
thể tách rời của con người. Và nó trở thành nhân tố quan trọng để hoàn thiện
cuộc sống của con người hơn nữa. Và Cuộc sống chỉ đẹp và có ý nghĩa khi
con người biết tạo ra cái đẹp và sống hài hòa trong thế giới cái đẹp của thiên
nhiên và do chính mình tạo ra.
CHƯƠNG II: MĨ THUẬT VIỆT NAM THỜI NGUYÊN THỦY
2.1. Một vài nét về lịch sử thời nguyên thủy ở Việt Nam
Thời kì nguyên thủy là thời kì đầu tiên của xã hội loài người. Theo
khảo cổ học thời kì nảy sinh và phát triển của chế độ công xã nguyên thủy
chính là thời đại đồ đá. Ngoài ra thời nguyên thủy còn đồng nghĩa với thời
tiền sử, thời kì chưa hình thành và ra đời lịch sử thành văn, các nhà khảo cổ
học đã chia thời kì đồ đá thành 3 giai đoạn: thời kì đồ đá cũ- thời kì đồ đá
giữa và thời kì đồ đá mới
2.2.1. Thời kì đồ đá cũ
Di tích núi Đọ – Thanh Hoá được xếp vào thời kỳ đồ đá cũ.Đây là nơi
cư trú của người Việt cổ, đồng thời cũng là nơi chế tạo ra các công cụ bằng
đá thô sơ. Đó là những mảnh tước, công cụ chặt, rìu tay, nạo Thời kỳ này
cách chúng ta mấy vạn năm và là thời kỳ tổ chức xã hội đang hình thành.
Trải qua quá trình phát triển, con người dần dần bước vào chế độ thị tộc
nguyên thuỷ. Để có thể tồn tại và sinh trưởng trong điều kiện khắc nghiệt
của thiên nhiên, con người phải tụ họp lại với nhau sống thành những cộng
đồng, những bầy người trong các hang động tự nhiên. Với công cụ cằng đá
thô sơ họ sống chủ yếu bằng nghề săn bắn và hái mượn
Đến thời kỳ đồ đá cũ, người Việt cổ đã cư trú trên một địa bàn khá rộng. Các
di tích khảo cổ học đã cho chúng ta thấy di tích của thời kỳ này có ở nhiều
nơi: Miền Bắc từ Phú Thọ, Sơn La, Lai Châu đến Bắc Ninh, Bắc Giang.
Miền Trung từ Thanh Hoá, Nghệ An đến Quảng Trị. Thời kỳ này các bầy

người nguyên thuỷ đã tập hợp lại với nhau thành các thị tộc, bộ lạc. Mỗi thị
tộc gồm vài ba thế hệ cùng huyết thống. Nhiều thị tộc đã hợp lại thành một
bộ lạc. Đến thời kỳ này, kỹ thuật chế tác đồ đá đã tiến thêm một bước phát
triển và ngày càng hoàn thiện để phục vụ con người.
Ngày nay, nhờ sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật, với nhiều phương tiện,
thiết bị và điều kiện làm việc các nhà khảo cổ học đã phát hiện thêm nhiều di
tích văn hoá Sơn Vi: Năm 1993 tìm được di tích văn hoá ở huyện Do Linh
(Quảng Trị), năm 1994 phát hiện thêm di tích văn hoá Sơn Vi ở đảo Cồn Cỏ.
Những phát hiện mới này cho thấy rõ hơn về lịch sử thời kỳ đầu tiên của dân
tộc chúng ta.
2.2.1 Thời kì đồ đá giữa
Sau văn hoá Sơn Vi, người Việt cổ bước vào thời kỳ đồ đá giữa, tương
đương với nền văn hoá Hoà Bình. Xã hội nguyên thuỷ chuyển sang thời kỳ
văn hóa Hoà Bình đã tiến thêm một bước cao hơn. Ngoài cuộc sống săn bắn,
hái lượm, các cư dân văn hoá Hoà Bình đã bắt đầu làm nông nghiệp. Những
dấu vết về một nền nông nghiệp sơ khai được tìm thấy ở nhiều nơi như:
hang Sũng Sàm – Hoà Bình…Đến thời kỳ văn hoá Hoà Bình, con người đã
định cư lâu dài hơn so với thời kỳ đồ đá cũ. Nếu ở núi Đọ – Thanh Hoá
không có kết cấu tầng văn hoá, thì đến văn hoá Hoà Bình có tầng văn hoá
dày tới 3,7 m. Năm 1930, Cô-la-ni khai quật ở Quảng Bình, Ninh Bình cũng
gặp những di chỉ văn hoá tương tự như ở Hoà Bình. Ngoài dấu vết của văn
hoá Hoà Bình còn tìm thấy ở Hạ Long, Nghệ An. Con người thời kỳ này
thường làm lều, nhà cửa ở hang gần sông, suối. Bên cạnh các công cụ lao
động bằng đá còn tìm được các công cụ, vũ khí bằng tre, nứa, xương, sừng
rất phong phú. Đồ trang sức bằng vỏ sò, ốc, xương thú cũng đã bắt đầu xuất
hiện. Điều này cho thấy cuộc sống của các bộ lạc người Việt cổ đã phát triển
thêm một bước. Cùng với săn bắn, hái lượm, con người đã biết trồng trọt.
Nền văn minh nông nghiệp bắt đầu được hình thành. Tín ngưỡng tôn giáo
bắt đầu xuất hiện với hình thức sơ khai nhất : Tô tem giáo
2.1.3. Thời kì đồ đá mới.

Thời kỳ đố đá mới bắt đầu vào khoảng thiên niên kỷ VI trước công
nguyên. Địa bàn cư trú của người Việt cổ lan rộng trong cả nước từ miền núi
tới miền biển và trung du, dân số ngày càng tăng. Công cụ sản xuất thời kỳ
văn hoá Bắc Sơn đã tiến bộ hơn trước rất nhiều. Vẫn là những công cụ bằng
đá cuội, song kỹ thuật chế tác không dừng lại ở ghè, đẽo. Các cư dân thời kỳ
này đã biết sử dụng kỹ thuật mài đá tạo ra các lưỡi rìu mài, có tra cán. Với
công cụ lao động mới, năng suất lao động đã tăng lên rất nhiều. Chăn nuôi,
trồng trọt phát triển mạnh. Thời kỳ này được gọi là thời kỳ cách mạng đồ đá.
Ngoài công cụ và đồ dùng bằng đá, dân cư thời này đã biết chế tạo ra đồ
gốm. Như vậy, có thể nói cuộc sống sinh hoạt, làm ăn của cư dân thời kỳ đồ
đá mới tiến bộ hơn rất nhiều so với thời kỳ trước. Bên cạnh việc săn bán, hái
lượm, nhiều nghề mới xuất hiện như trồng trọt, chăn nuôi, đánh cá. Nghề
nông bắt đầu hình thành trong thời kỳ đồ đá giữa, đến nay tiếp tục phát triển
và trở thành một trong những ngành chính. Cây trồng quan trọng và chủ yếu
chính là cây lúa. Đời sống vật chất phát triển đã kéo theo sự phát triển của
đời sống tinh thần. Đồ trang sức được chế tác trên nhiều chất liệu phong phú
như đá, đất nung, vỏ ốc, vỏ trai, và nhiều thể loại khác nhau như vòng tay,
vòng cổ, khuyên tai, Điều này chứng tỏ nghề thủ công đã rất phát triển hơn
rất nhiều so với thời kì trước.
Trong các mộ cổ được khai quật và qua cách chôn người chết, chúng ta
có thể hiểu thêm những quan niệm người Việt cổ về “cuộc sống” sau khi
chết của con người. Trong ngôi mộ chúng ta đã tìm được nhiều xương sọ và
các xương khác được tô màu đỏ cùng các vật dụng, công cụ lao động. Điều
đó cho thấy trong tư duy của người nguyên thuỷ đã hình thành quan niệm về
một thế giới khác tồn tại chỉ khi con người từ giã cuộc sống ở thế giới đó,
con người vẫn làm ăn sinh sống như thế giới thực tại.
Thời kỳ đồ đá mới là giai đoạn cuối của thời kỳ nguyên thủy. Tư duy của
con người ngày một phát triển phong phú hơn. Bàn tay ngày một khéo léo
hơn. Phân công lao động trong một bộ lạc ngày một rõ ràng, cụ thể và
chuyên môn hoá hơn. Đời sống ổn định lâu dài hơn. Tất cả những điều đó là

sự chuẩn bị cho việc ra đời một chế độ xã hội mới và sự hoàn thành nhà
nước ở giai đoạn sơ khai nhất.
2.2 . Quá trình phát triển mỹ thuật Việt Nam thời nguyên thủy
2.2.1. Mĩ thuật ở thời kì đồ đá giữa (cách nay khoảng 1 vạn năm)
Năm 1926, nhà khảo cổ học người Pháp, Ma-đơ-len – Cô-la-ni, đã đổ
nhiều tâm sức nghiên cứu về nền văn hoá Hoà Bình và đến năm 1932, Hội
nghị Quốc tế đã công nhận những nghiên cứu khảo cổ học của bà. Trong lịch
sử mỹ thuật thế giới đến cuối thời kỳ đồ đá cũ đã xuất hiện những dấu vết
đầu tiên về nghệ thuật tạo hình. Ở Việt Nam, thời kỳ đồ đá cũ với văn hoá
Sơn Vi, tìm được chủ yếu là hòn ghè và các công cụ chặt. Để chia các giai
đoạn văn hoá, các học giả cho rằng nếu chỉ dựa vào hình thái công cụ là
chưa đủ mà phải dựa vào cấu tạo địa tầng di tích văn hoá của động, thực vật
ở tầng văn hoá. Văn hoá Hoà Bình được xếp với thời kỳ đồ đá giữa và dần
dần phát triển sang thời kỳ đồ đá mới. Trong nhiều di tích thuộc nền văn hoá
Hoà Bình chúng ta đã tìm được những dấu hiệu mỹ thuật đầu tiên. Mặc dù
đó chỉ là những hình khắc đơn giản về nội dung và bằng trình độ tạo hình sơ
khai nhưng sự xuất hiện của những hình khắc đã khẳng định được sự ra đời
của nghệ thuật tạo hình của người Việt cổ. Thời kỳ này con người vẫn ở
trong hang động. Nghệ thuật văn hoá Hoà Bình cũng chính là nghệ thuật
hang động. Ở hang động Lam Gan (Hoà Bình), người ta tìm được mũi dùi
làm từ xương thú. Hình sáu cái lá mọc so le đan thành hình ngọn cây được
khắc ở đầu nhọn của mũi dùi. Mặc dù rất nhỏ, song hình lá được khắc rõ và
chi tiết. Bốn trong sáu chiếc lá còn lại còn khắc cả đường gân song song.
Những hình khắc đó vừa mang lại vẻ đẹp cho mũi dùi, lại còn có tác dụng về
mặt kỹ thuật. Mặc dù vậy, phải đến các hình khắc trong hang Đồng Nội
thuộc xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà Bình, chúng ta mới chứng
kiến được hình vẽ, những tác phẩm hoàn thiện và độc lập hơn, chứng tỏ sự
phát triển thêm một bước của mỹ thuật nguyên thuỷ. Trên vách đá của lối đi
vào hang Đồng Nội có bốn hình khắc với nét sâu và to. Trong đó có ba hình
mặt người và một hình mặt thú. Mặt người ngoài cùng, có lẽ do mưa nắng

nên đến nay chỉ còn một nửa. Ba hình khắc được xếp thành một nhóm. Mặt
to nhất với kích thước 31cm, rộng 34cm. Các nét chi tiết mắt, mũi, miệng rõ
ràng, cân đối. Nét khắc dứt khoát, khoẻ. Khuôn mặt vuông vức, đôi mày
đậm gợi cho người xem cảm giác đây là chân dung một người đàn ông. Hai
mặt người hai bên có đặc điểm tạo hình khác với hình ở giữa. Hình ở trong
(cao 13cm, rộng 18cm) nét khắc mảnh và mềm mại hơn. Nét cong của
khuôn mặt được thể hiện rõ gợi khuôn mặt nữ hơn, các chi tiết của nét mặt
mũi, miệng gần nhau. Đặc biệt phía trên đầu của cả ba hình khắc đều có hình
gần giống chữ Y. Hình này gợi nhớ đến hình sừng thú. Có nhiều giả thuyết
về hình này, song tập trung gồm hai giả thuyết. Đây là một cách hoá trang để
có thể lại gần các con thú. Đồng thời cũng có thể là một nghi lễ với một hình
thức thờ phụng gì đó của người Việt cổ. Nhóm thứ hai là hình khắc mặt thú
có kích thước to nhất (cao 57 cm, rộng 51cm) với đặc điểm miệng rộng, mắt
tròn, cái mũi to và có sừng. Bốn hình khắc ở hang động Đồng Nội một mặt
chửng tỏ tư duy hình tượng và nghệ thuật của người Việt thời nguyên thuỷ
đã tiến thêm một bước. Từ những hình đơn giản độc lập đã tiến thêm một
bước có ý thức. Mặt khác, trong các hình khắc đã bộc lộ khả năng quan sát
và thể hiện tỉ lệ mặt người, thú tương đối cân đối và hoàn thiện. Ngoài ra
còn thể hiện tài năng khéo léo của bàn tay qua nét khắc khoáng đạt và phong
phú về độ sâu, độ to nhỏ, cứng cáp hoặc mềm mại. Chỉ bằng bốn hình khắc
đơn giản nhưng gợi cảm, người nghệ nhân nguyên thuỷ đã cho chúng ta
ngày nay nhiều hiểu biết, suy đoán về con người và cuộc sống nguyên thuỷ
xưa.
2.2.2. Mỹ thuật thời kỳ đồ đá mới (cách ngày nay khoảng 5000 năm)
Theo các nhà khảo cổ học, thời kỳ đồ đá mới trên thế giới bắt đầu từ
thiên niên kỷ VI đến thiên niên kỷ III trước công nguyên (TCN). Ở thời kỳ
này nghệ thuật tạo hình phát triển đa dạng, phong phú, đề tài rộng sâu hơn.
Trong các tác phẩm chú ý đến tính đối xứng và nhịp điệu, sự lặp lại các yếu
tố hình tượng ở Việt Nam, thời kỳ đồ đá mới để lại dấu vết của nhiều nền
văn hoá: Văn hoá Bắc Sơn, văn hoá Quỳnh Lưu, văn hoá Bàu Tró, văn hoá

Hạ Long… Đến cuối thời kỳ đồ đá mới, trên toàn bộ nước ta đã tụ cư nhiều
nhóm bộ lạc trồng lúa. Họ có kỹ thuật chế tạo đồ đá, đồ gốm tương tự như
nhau. Trên cơ sở đó, nghệ thuật tạo hình cũng phát triển ở nhiều nơi khác
nhau từ miền núi đến miền biển, đồng bằng Dấu vết của văn hoá Bắc Sơn
tìm được ở nhiều nơi như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hoà Bình…
Cùng với sự ngẫu nhiên người nguyên thuỷ phát hiện ra đồ gốm, những hoa
văn đầu tiên cũng ngẫu nhiên xuất hiện. Bắt đầu là những dấu nan đan, dấu
vân tay còn lại trong quá trình nặn, làm đồ đựng nước dần dần được thay
đổi, phát triển thành một hệ thống hoa văn phong phú. Tất cả đều được bắt
nguồn từ hiện thực, từ những hình mẫu có sẵn trong tự nhiên được đơn giản
hay cách điệu hoá. Các hoa văn này ngoài mục đích trang trí cho đồ gốm,
còn tạo sự tiện dụng như dễ bưng bê, di chuyển.
Một số đồ gốm được tìm thấy ở Minh Cầm, Bàu Tró còn được trang trí bằng
những bằng màu đỏ rộng từ 10mm đến 25mm hoặc những đường song song.
Ngoài ra còn tìm được những vỏ ốc, rùi đá được nhuộn màu đỏ cùng với
những miếng thổ hoàng đỏ, những mảnh đá, vỏ sò, vỏ ngao dùng để nghiền
màu, đựng màu. Những vỏ ốc, rùi đá tô màu đỏ là những vật chôn theo
người chết. Như vậy, đến thời kỳ đồ đá mới ngoài khả năng tạo hình và
trang trí, người nguyên thuỷ đã biết dùng màu sắc, nhất là màu đỏ thổ hoàng.
Theo cố Giáo sư Chu Quang Trứ, ở một số nước, một số dân tộc trên thế
giới như người Mê-la-nê-diêng, người Tân Dê-lan… dùng phẩm màu đỏ
trong một số tục lệ để biểu thị sức sống và sự tái sinh. Người Việt từ thời
nguyên thuỷ đến nay vẫn sử dụng nhiều màu đỏ trong đám tang, có lẽ cũng
không nằm ngoài mong muốn đó. Thế giới tìm được rất nhiều hình vẽ chứng
tỏ sự có mặt của một nền hội hoạ, nhưng về nghệ thuật chạm khắc trên đất
đá, ở mỹ thuật nguyên thuỷ Việt Nam lại thấy khá nhiều. Có tác phẩm thì
đơn giản như chạm trên viên cuội dài 10cm ở Đông Kỵ (Thái Nguyên). Trên
viên cuội có hình khắc ở cả hai mặt. Mặt này là những hình hình học, chủ
yếu là hình vuông được sắp xếp như một mặt người theo kiểu kỉ hà. Mặt kia
là một chân dung người đã chi tiết mắt, mũi, miệng được tạo bởi những

chấm chấm. Tuy sự thể hiện còn rất đơn giản, tỉ lệ chưa chuẩn xác, nhưng
hình chạm khắc ở đây đã có biểu cảm. Một số tác phẩm còn thể hiện ở tính
trang trí và tượng trưng như tác phẩm bằng đất sét vàng (10 x 4 x 0,7 cm )
tìm thấy ở Nghinh Tắc (Thái Nguyên).
Bố cục trên bề mặt tác phẩm được chia thành hai phần. Phía ngoài là 15
nhóm khắc vạch xếp xung quanh. Mỗi nhóm có ba hoặc bốn vạch khắc. Bên
trong được bố trí thành 8 đường song song. Mỗi đường được tạo nên bởi
những hình giống chữ V liên tiếp. Nhìn vào tác phẩm này có thể gợi cho
chúng ta liên tưởng đến một khu vườn, một mảnh ruộng với những hàng cây
đều đặn và hàng rào xung quanh. Tuy vậy mọi sự áp đặt, so sánh đều không
chính xác, đôi khi còn giảm giá trị nghệ thuật. Nhưng vượt lên tất cả những
điều đó, tác phẩm đã cho chúng ta thấy một khả năng tạo hình, trang trí của
người Việt nguyên thuỷ. Mỹ thuật nguyên thuỷ Việt Nam tuy có những đột
phá, nhưng so với mỹ thuật nguyên thuỷ thế giới chúng ta còn thua xa vì ở
Việt Nam thời kỳ này đỉnh cao là khắc mặt người, tỉ lệ chưa cân đối, nhưng
mỹ thuật nguyên thuỷ thế giới đã tác đựơc tượng, tuy tỉ lệ còn ước lượng
như tượng "Vệ nữ ViLen – Doóc'.
Họ đã biết cách vẽ những con vật gần gũi với cuộc sống của họ, hình vẽ
mang tính chất tả thực như hình "Đàn hươu qua sông – Hang Mêri" qua đó
ta thấy so với nghệ thuật nguyên thuỷ thế giới thì mỹ thuật nguyên thuỷ Việt
Nam còn kém xa. Ngoài ra mỹ thuật nguyên thuỷ thế giới về chất liệu điêu
khắc phong phú hơn. Họ có thể khắc trên xương, sừng, ngà voi, hay đá mềm.
Còn ở Việt Nam thời nguyên thuỷ họ chỉ mới biết khắc trên đá cuội, trên
hang đá. Về nghệ thuật điêu khắc thì chưa ra đời, An Dương Vương đứng
đầu tồn tại từ thế kỷ thứ III TCN đến năm 179 TCN chúng ta mới thấy
những hình khắc trên trống đồng, tượng ở trên các vật dụng trong đời sống
như: tượng người thổi kèn trên cán môi.
2.3. Đặc điểm của mỹ thuật thời nguyên thuỷ Việt Nam
Những thành tựu của ngành Khảo cổ học Việt Nam đã chứng minh được
sự có mặt của người nguyên thuỷ trên dải đất của chúng ta, cách đây khoảng

30 vạn năm với di tích núi Đọ (Thanh Hoá). Tuy vây, trải qua một thời gian
dài, lao động và sinh sống đến thời kỳ đồ đá giữa, mới thấy xuất hiện những
biểu hiện đầu tiên chứng tỏ sự xuất hiện của nghệ thuật tạo hình.
• Về đề tài, nội dung
Hình chạm khắc chủ yếu đi vào đề tài chân dung con người hoặc khái
quát hình tượng đầu thú. Một số tác phẩm mang hình trang trí và tượng
trưng đề cập tới đề tài cây lá, thiên nhiên. Hoạ tiết trang trí phong phú hơn,
song đều bắt nguồn từ hiện thực sinh động của cuộc sống : dấu nan đan, vân
tay, sóng nước, vặn thừng, ràng lược, ô quả trám, hình hoa thị, khắc vạch,
• Về loại hình nghệ thuật.
Trong giai đoạn sơ khai của mỹ thuật, chúng ta mới tìm được một số tác
phẩm nghệ thuật chạm khắc trên chất liệu đá, xương thú. Đất nước ta còn
một lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước lâu dài và là một đất nước nghèo
đang phát triển. Suốt trong khoảng bốn nghìn năm lịch sử từ đời vua Hùng
dựng nước đến nay, dân tộc ta liên tục đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Điều
này hạn chế nhiều đến việc khảo cổ, bảo tàng, bảo tồn các di sản văn hoá. Hi
vọng trong điều kiện phát triển hiện nay, chúng ta sẽ tìm được nhiều hơn các
tác phẩm, di sản văn hoá của cha ông, tổ tiên còn ẩn sâu trong lòng đất. Căn
cứ trên các hiện vật tìm được cho đến ngày nay, ta chưa thấy có nghệ thuật
hội hoạ hoặc điêu khắc tượng tròn. Bên cạnh các hình chạm khắc, đến cuối
thời kỳ đồ đá mới nghệ thuật đồ gốm và trang trí gốm phát triển đã để lại
nhiều hoa văn đơn giản, nhưng lại phong phú về thể loại. Như vậy ta có thể
thấy trong thời kỳ nguyên thuỷ, nghệ thuật chạm khắc và trang trí trên gốm
đã hình thành và dần phát triển
• Về các thể hiện
Bước đầu nghệ thuật nguyên thuỷ đã bộc lộ khả năng quan sát, thể hiện
đặc trưng của một số sự vật, hình tượng. Tỉ lệ tương đối cân đối. Ở một số
hình còn thể hiện ý thức về bố cục. Lúc đầu còn những hình đơn lẻ, riêng
biệt. Dần dần xuất hiện một số tác phẩm chạm khắc hoàn thiện. Ngoài khả
năng về các hình các nghệ nhân nguyên thuỷ còn bắt đầu tìm cách sử dụng

màu để vẽ hoặc nhuộm trên các bình gốm, vỏ sò, những vật thiêng dành cho
người đã mất.
C. KẾT LUẬN
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam dưới thời nguyên thủy là trang sử hào hùng và
chói lọi, không thể quên. Bởi những giá trị mà nó đạt được vô cùng to lớn,
góp phần làm phong phú và đặc sắc nền mỹ thuật Việt Nam, hơn thế nữa nó
còn chứng tỏ khả năng quan sát thực tế, chính xác, khả năng tư duy hình
tượng và sự khéo léo của đôi bàn tay, đồng thời nó cũng muốn nói lên sự
tinh tế và chức năng thẩm mĩ của con người dưới xã hội nguyên thủy.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×