Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

QUAN LY DSVN VA PHAT TRIEN DU LICH pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.06 KB, 13 trang )


MỞ ĐẦU
Đồng hành cùng diễn trình phát triển của lịch sử nhân loại, văn hóa
trở thành nền tảng định hình cho sự phát triển toàn diện của xã hội. Trải qua
một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu lâu dài, văn hóa được nhìn nhận dưới
nhiều góc độ khác nhau. Trong nhận thức mới của nhân loại, văn hoá được
hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những gì con người sáng tạo ra và tích lũy qua
quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã
hội; một hệ thống tổng hoà các giá trị vật thể và phi vật thể; là hoạt động sáng
tạo cả tinh thần lẫn vật chất, chứ không bó hẹp trong hoạt động tinh thần sáng
tạo như cách hiểu trước đây.
Như vậy, dựa trên cơ sở hình thành văn hóa, di sản văn hóa được xem
là một khái niệm rộng lớn gồm cả môi trường thiên nhiên lẫn văn hoá: Bao
gồm cảnh quan, các tổng thể lịch sử, các di chỉ tự nhiên và do con người xây
dựng, và cả tính đa dạng sinh học, các sưu tập, các tập tục truyền thống và
hiện hành, tri thức và kinh nghiệm sống. Di sản ghi nhận và thể hiện quá trình
phát triển lịch sử lâu dài vốn đã tạo nên bản chất của các thực thể quốc gia,
khu vực, bản địa và địa phương và là một bộ phận hữu cơ của đời sống hiện
đại. Nó là một điểm quy chiếu sống động, một công cụ tác dụng cho phát triển
và trao đổi. Di sản riêng và ký ức tập thể của mỗi địa vực hoặc cộng đồng là
không gì thay thế được và là một nền tảng quan trọng cho phát triển, hôm nay
và cả mai sau.
Bước vào thời đại toàn cầu hoá đang gia tăng như ngày nay, việc bảo
vệ, bảo tồn và giới thiệu di sản và tính đa dạng văn hoá của bất kỳ một nơi
hoặc khu vực nào là một bài toán quan trọng nhưng đầy khó khăn, thử thách
đối với mọi quốc gia. Việc quản lý phải bao hàm nghĩa vụ tôn trọng các giá trị
của di sản, các quyền lợi hợp tình hợp lý của cộng đồng với tư cách là chủ thể
sáng tạo và lưu truyền những giá trị văn hóa, phải tôn trọng cảnh quan và
những văn hoá đã sản sinh ra di sản đó. Việc quản lý vật chất tốt, hợp lý, việc
1


tiếp cận di sản về mặt trí tuệ hoặc về cảm xúc và việc phát triển văn hoá trở
thành mục tiêu cho sự phát triển của ngành du lịch. Du lịch trở thành cơ sở để
nâng cao và đẩy mạnh mối quan hệ quốc tế hợp tác và giao lưu văn hóa.
Nếu như thiên nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người thì văn hoá là cái
nôi thứ hai, trong đó toàn bộ đời sống tinh thần của con người được tạo ra,
nuôi dưỡng và phát triển. Bao nhiêu khát vọng được hình thành, trong đó có
khát vọng được đi tìm cái mới, cái khác trong đời sống thường nhật của mình.
Mỗi dân tộc đều có sự khác nhau trong cách sinh hoạt văn hóa. Cùng một dân
tộc, nhưng ở các vùng, miền khác nhau thì tính chất, kết cấu, mô thức văn hoá
cũng đã khác nhau. Chính sự khác nhau đó là sự hấp dẫn du lịch, tạo ra các
loại hình du lịch. Đặt trong mối tương quan tác động giữa văn hóa và du lịch
có thể thấy mối liên hệ mật thiết giữa quá trình quản lý di sản văn hóa và phát
triển du lịch trong quá trình đẩy mạnh sự phát triển toàn diện của xã hội hiện
đại. Để đạt được những hiệu quả trong quá trình quản lý di sản văn hóa và
phát triển du lịch, đòi hỏi phải có sự tuân thủ và vận dụng hợp lý các nguyên
tắc nhằm nâng cao hiệu quả của việc quản lý di sản văn hóa đồng thời phát
triển du lịch. Nguyên tắc quản lý di sản văn hóa và phát triển du lịch là chuẩn
mực mang tính thống nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống, góp phần đưa văn hóa Việt Nam đến với Thế
Giới bằng sự liên kết tri thức.

2

NỘI DUNG
Xuất phát từ yêu cầu và tình hình thực tế, công tác quản lý di sản văn
hóa với phát triển du lịch việt nam phải đảm bảo 7 nguyên tắc cơ bản sau
đây:
Nguyên tắc 1: Quản lý có trọng tâm, trọng điểm
Bằng lịch sử phát triển rực rỡ của mình, ông cha ta để lại cho chúng ta một
tài sản văn hóa vô cùng to lớn về cả số lượng và chủng loại. Trong kho tàng

di sản văn hóa ấy có cả yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực, quy mô và tính
chất khác nhau. Về mặt nội dung bất kì một sản phẩm du lịch nào cũng là
một sản phẩm văn hóa nhưng không phải sản phẩm văn hóa nào cũng trở
thành một sản phẩm văn hóa du lịch. Điều này có nghĩa rằng, mỗi một sản
phẩm du lịch của một địa phương đều phải được xây dựng trên nền tảng các
yếu tố văn hóa bản địa nhưng phải đáp ứng và phù hợp với nhu cầu của các
đối tượng du khách khác nhau. Trong khi đó, không phải tất cả các sản phẩm
văn hóa của địa phương đều có thể đem ra phục vụ du khách. Muốn trở
thành sản phẩm du lịch, sản phẩm văn hóa đó phải đáp ứng được các tiêu chí
nhất định về không gian, thời gian, về định tính, định lượng… và phải cân
đối về giữa giá trị và giá cả….trong rất nhiều di sản văn hóa trên một địa
bàn, chỉ có thể đưa một số di sản đáp ứng được những tiêu chí nhất định vào
khai thác, phục vụ du lịch. Do vậy, người làm công tác quản lý phải bám sát
thực tế của từng địa phương, nghiên cứu cụ thể để có phương án quản lý các
di sản có trọng tâm, trọng điểm, tránh tình trạng quản lý tràn lan gây lãng
phí, không hiệu quả. Nghiên cứu tổng thể để tìm ta những di sản văn hóa
nào có thể đưa vào khai thác đề phát triển du lịch, từ đó có chính sách và
biện pháp quản lý phù hợp.
Việc quản lý có trọng tâm, trọng điểm phải đồng bộ tức là phải đặt
trong một kế hoạch tổng thể thống nhất từ trung ương đến các địa phương,
3

tránh tình trạng “ mạnh ai nấy làm” sẽ phá vỡ tính hệ thống. Phải xây dựng
kế hoạch tổng thể khai thác di sản để phát triển du lịch trong phạm vi quốc
gia và các địa phương - vùng miền. Không phải di sản văn hóa nào cũng đưa
vào khai thác để phát triển du lịch. Tránh tình trạng người người làm du lịch,
nơi nơi làm du lịch, chỉ có những di sản văn hóa đáp ứng các yêu cầu cần và
đủ mới đưa vào khai thác phục vụ du lịch. Khi đưa vào khai thác phải có đầy
đủ phương án quản lý đồng bộ. Trong phương án tổng thể đó phải dự liệu
các phương án cụ thể để quản lý cái đã có và quản lý cái đã có. Tức là quản

lý có chiều sâu, quản lý có kế hoạch, quản lý trong tiên liệu. Muốn vậy phải
xã hội hóa công tác quản lý di sản văn hóa bằng việc trao quyền cho cơ quan
chuyên trách, trao quyền cho những người có chuyên môn nghiệp vụ và có
đủ thẩm quyền. đó là sự cần thiết phải chuyên môn hóa, chuyên trách hóa
công tác quản lý.
Nguyên tắc 2: Không phá vỡ không gian, không làm biến đổi cảnh
quan thiên tạo, nhân tạo vốn có.
Quản lý di sản văn hóa để hoạt động du lịch không phá vỡ cảnh quan
không gian nơi có các di sản văn hóa vật thể hay di sản văn hóa phi vật thể
đã và đang tồn tại. Phải giữ nguyên tắc là khai thác tối đa các giá trị của kho
tàng di sản văn hóa nhưng vẫn giữ được tính nguyên trạng của di sản ở chính
nơi nó đã và đang tồn tại. Muốn vậy, công tác quản lý phải có cái nhìn lịch
đại và đồng đại đối với từng di sản văn hóa riêng biệt. Khi tiến hành khai
thác giá trị của di sản văn hóa để phát triển du lich, tất yếu sẽ phải dẫn đến
các công trình bổ trợ để tiến hành các hoạt động dịch vụ để phục vụ du
khách. Tất cả các dịch vụ bổ trợ đó phải được bố trí hợp lý, không phá vỡ
cảnh quan thiên nhiên vốn có, cảnh quan văn hóa đương đại đã hình thành
trong lịch sử. Sự bổ sung những công trình phụ trợ chỉ tạo nên sự hài hòa, tô
điểm thêm cho những công trình đã có đồng thời có tác dụng thúc đẩy
4

những tiềm năng sẵn có mà các di sản vốn mang trong mình để tạo nên sự
phát triển.
Nguyên tắc 3: Bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên và môi trường sinh
thái nhân văn.
Khi tiến hành hoạt động du lịch phải luôn đặt mục tiêu bảo vệ môi
trường sinh thái tự nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái nhân văn lên trên
trong suốt quá trình khai thác các giá trị của kho tàng di sản văn hóa Viêt
Nam. Đây chính là một nội dung đặc biệt quan trọng, không thể thiếu, không
thể bỏ qua trong quá trình khai thác kho tàng di sản văn hóa Việt Nam để

phát triển du lịch.
Quản lý để các hoạt động du lịch không gây nên ô nhiễm môi trường do
lượng rác thải tăng lên nhanh chóng cả về số lượng và chủng loại do sự tiêu
dùng tăng nhanh của du khách. Xây dựng các cơ sở dịch vụ phải đi kèm
với xây dựng các điều kiện để xử lý rác thải, tránh ô nhiễm không khí, ô
nhiễm nguồn nước.
Quản lỷ để hoạt động du lịch không làm ô nhiễm môi trường văn hóa.
Không tạo ra sự xung đột văn hóa giữa các văn hóa bản địa và sự khác biệt
về văn hóa đem đến từ một bộ phận du khách. Tuy nhiên, sự giao thoa văn
hóa tất yếu sẽ làm biến đổi những nét văn hóa mang truyền thống bản địa.
công việc quản lý phải tạo cơ hội cho văn hóa bản địa khẳng định và thể
hiện mình đông thời tự điểu chỉnh, khắc phục những nhược điểm tồn tại
nếu có, những bất cập nảy sinh trong quá trình giao lưu và hội nhập giữa
các thành phần cư dân, các đối tượng du khách đến từ các nơi khác nhau
trong và ngoài nước
Nguyên tắc 4: Tôn trọng và đặt lợi ích cộng đồng lên trước hết, trên
hết và xuyên suốt.
Nguyên tắc của quá trình quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch ở
nơi có các di sản là phải đặt lợi ích của cộng đồng cư dân bản địa – chủ
5

nhân của di sản lên trên hết và trước hết. Tạo điều kiện cho cộng đông cư
dân sở tại có thể tham gia vào các nội dung khác nhau trong quá trình quản
lý và khai thác di sản trên quê hương mình. Đây là một trong những
nguyên tắc trở thành điều kiện tiên quyết và xuyên suốt trong quá trình
khai thác giá trị kho tàng di sản văn hóa để phát triển du lịch.
Rõ ràng rành mạch và hợp lý trong việc phân chia lợi nhuận thu được từ
hoạt động du lịch giữa các cá nhân, tổ chức hay nhóm dân cư có liên quan.
Có sự thỏa thuận và chia sẻ lợi ích một cách hợp lý nhất. Bình đẳng về lợi
ích vật chất cũng như tinh thần với mọi cá nhân và tổ chức tham gia khai

thác di sản văn hóa. Tuy nhiên, cần có những ưu tiên phù hợp đối với các
tầng lớp cư dân bản địa bởi vì chính họ là chủ nhân của di sản, chính họ là
tiền đề giữ vai trò quyết định đến việc tổ chức, khai thác giá trị của kho
tàng di sản trong giai đoạn hiện nay.
Nguyên tắc 5: Khai thác phải luôn đi đôi với công tác bảo tồn
Xét về hình thức, kho tàng di sản văn hóa nói chung, di sản văn hóa nói
riêng về cơ bản là tĩnh trong khi hoạt động du lịch về cơ bản là động ; như
vậy, thực chất của kinh doanh du lịch là “khai thác cái tĩnh để phục vụ cái
động”. điều đó đặt ra cho công tác quản lý di sản văn hóa với phát triển du
lịch là khai thác phải gắn bó chặt chẽ với bảo tồn, không thể tách rời. công
việc bảo tồn di sản văn hóa trong quá trình khai thác để kinh doanh du lịch
phải đi theo các xu hướng: bảo tồn nguyên trạng , bảo tồn phát triển và
cách tân văn hóa nhằm mục tiêu giữ gìn một cách tốt nhất sự tồn tại khách
quan của hệ thống di sản văn hóa Việt Nam trong đời sống xã hội, đồng
thời phát huy tối đa hiệu quả giá trị của kho tàng di sản văn hóa. Xưa nay
chúng ta thường đề cập đến vấn đề bảo tồn để phát triển, điều đó là hoàn
toàn đúng song trong giai đoạn hiện nay chúng ta cũng cần thiết phải đặt
vấn đề ngược lại phát triển để bảo tồn. Đó là hai mặt của một vấn đề,
không tách rời, không tác động tương hỗ lẫn nhau.
6

Khai thác và bảo tồn hợp lý, hài hòa để bảo đảm sự phát triển trong suốt
quá trình khai thác hệ thống giá trị của các di sản văn hóa vật thể và si sản
văn hóa phi vật thể nhằm phục vụ du lịch. Tôn trọng và tạo điều kiện thuận
lợi nhất để có sự tham gia của cộng đồng cư dân sở tại trong quá trình quản
lý bảo tồn và khai thác giá trị các di sản để phát triển du lịch.
Nguyên tắc 6: Đảm bảo hài hòa lợi ích nhiều mặt của du khách - cư
dân bản địa - hãng lữ hành.
Một trong những nguyên tắc của công tác quản lý di sản văn hóa với phát
triển du lịch là phải đảm bảo lợi ích một cách hài hòa, hợp lý, ngày càng

nâng cao về lợi ích của du khách, cộng đồng cư dân bản địa và các hãng lữ
hành. Chỉ có bình đẳng trong các cơ hội hành động cũng như hưởng thụ lợi
ích mới là môi trường thuận lợi nhất để giúp cho các mối quan hệ bền chặt.
Khi khai thác giá trị di sản văn hóa để phát triển du lịch: sự cân bằng, hài
hòa về lợi ích giúp cho hoạt động kinh doanh du lịch phát triển. Khi đó,
kho tàng di sản có những cơ sở tài chính, trở thành một trong những động
lực cho các di sản văn hóa tồn tại và phát triển không ngừng. Muốn vậy,
công tác quản lý di sản phải tạo dựng và kiểm soát những quy chế thích
hợp ở mỗi địa phương mà không tạo ra những rào cản kìm hãm sự phát
triển du lịch của địa phương đó.
Nguyên tắc 7: Xuất phát từ thực tế, bám sát thực tế
Đây là nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất, bao trùm lên toàn bộ mọi mặt
hoạt động của công tác quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch. Thực
tế luôn biến đổi và phát triển không ngừng, phù hợp với tình hình thực tế.
Trong quản lý di sản, việc bám sát thực tế vận động và phát triển chính là
những động thái tích cực đem sức sống cho di sản, “thổi hồn vào di sản”
chứ không tách rời di sản khỏi cuộc sống vốn có của nó. Nói một cách hình
tượng: để cho di sản được sống đời sống hữu cơ chứ không chỉ sống cuộc
sống vô cơ.
7

Nguyên tắc bám sát thực tế, xuất phát từ thực tế, nhưng luôn phải vượt lên
trên, mở đường, định hướng cho thực tế phát triển đúng hướng chứ không
chạy theo sự biến đổi của thực tế một cách thụ động. Có thể khẳng định
rằng: “Công tác quản lý di sản với phát triển du lịch là một nghệ thuật:
nghệ thuật tạo nên vẻ đẹp và sức mạnh”
Liên hệ với công tác quản lý di sản văn hóa và sự phát triển của hoạt động
du lịch tại địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
Thừa Thiên Huế nằm ở vị trí trung độ của cả nước, trên trục giao thông
chính Bắc Nam, tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây, là địa bàn phát triển kinh

tế quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và cả nước. Thừa Thiên
Huế đang bảo tồn, gìn giữ những giá trị văn hóa mang đậm đặc trưng của
vùng văn hóa phương Đông. Đây chính là nguồn lực và tiềm năng thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển bền vững.
* Tiềm năng thế mạnh của vùng di sản văn hóa
Thừa Thiên Huế đang gìn giữ kho tàng văn hóa phong phú, đa dạng,
đặc sắc trong dòng chảy văn hóa Việt Nam. Với gần 1000 di tích bao gồm di
tích lịch sử cách mạng, di tích tôn giáo, di tích lưu niệm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Trong đó, Quần thể Di tích Cố đô Huế đã được UNESCO công nhận là
Di sản văn hóa Thế giới (năm 1993).
Thừa Thiên Huế còn là nơi tập trung những di sản văn hóa phi vật thể phong
phú và đa dạng, được bảo tồn, khai thác và phát huy. Từ những loại hình nghệ
thuật diễn xướng cung đình bác học, nghệ thuật trang trí đến những phong tục
tập quán mang đậm những nét riêng của từng vùng đất. Trong đó, Nhã nhạc
cung đình triều Nguyễn được UNESCO công nhận là kiệt tác phi vật thể và
truyền khẩu của nhân loại (năm 2003) và đang được tích cực gìn giữ và phát
huy giá trị. Các loại hình múa hát cung đình, lễ nhạc cung đình, tuồng Huế, ca
8

Huế, ca kịch Huế và các làn điệu dân ca, dân nhạc, dân vũ đã và đang tiếp tục
được đầu tư sưu tầm, khôi phục, phát huy và phát triển.
Thừa Thiên Huế có hơn 500 lễ hội bao gồm lễ hội cung đình, lễ hội
dân gian truyền thống, lễ hội tôn giáo tồn tại cùng với truyền thống văn hóa
lâu đời của mỗi vùng miền. Hiện nay, có hơn 100 lễ hội dân gian, lễ hội
truyền thống và hiện đại đã được các địa phương khôi phục và phát huy, bao
gồm lễ hội cung đình Huế (lễ tế Đàn Nam Giao, lễ hội thao diễn thủy binh
thời chúa Nguyễn ), các lễ hội văn hóa tín ngưỡng tôn giáo (lễ hội Điện Huệ
Nam, lễ hội Quán Thế Âm, lễ Phật Đản ), lễ hội tưởng nhớ các vị khai canh,
thành hoàng, lễ tưởng niệm các vị tổ sư làng nghề (lễ hội Cầu ngư, Vật võ
Làng Sình, vật võ Làng Thủ Lễ, Đu tiên Phong Điền, lễ hội Làng Chuồn, lễ

hội đua ghe ) và nhiều lễ hội khác như lễ hội Đền Huyền Trân, Ngày hội Văn
hóa, Thể thao, Du lịch đồng bào các dân tộc miền núi Thừa Thiên Huế, Lăng
Cô huyền thoại biển, Festival Thuận An Biển gọi, Ấn tượng Bạch Mã Đặc
biệt, Festival Huế được định kỳ tổ chức hai năm một lần vào các năm chẵn,
Festival Nghề truyền thống Huế tổ chức hai năm một lần vào các năm lẻ đã
trở thành một sinh hoạt văn hóa, lễ hội ấn tượng, đặc sắc, tạo nên nét độc đáo
cho vùng đất.
Nhiều làng nghề truyền thống với những sản phẩm kết tinh giá trị văn hóa của
một vùng đất đã được bảo tồn, khôi phục và phát huy, tạo sự hấp dẫn khách
du lịch như các làng điêu khắc Mỹ Xuyên, gốm Phước Tích, hoa giấy Thanh
Tiên, tranh dân gian Làng Sình, tranh thêu cố đô, đan lát Bao La, gót Dã Lê,
đúc đồng Phường Đúc, dệt Zèng A Lưới.
Phát huy lợi thế di sản văn hóa Huế - nguồn tài nguyên quý giá, ngành
kinh tế - du lịch kết hợp với những tiềm năng khác của tỉnh Thừa Thiên Huế
đã có những bước phát triển khá toàn diện và bền vững, trở thành một trong
những trung tâm văn hóa - du lịch lớn của cả nước, thực hiện sự liên kết phát
triển với các tuyến du lịch của hành lang Đông - Tây và các điểm du lịch
9

Phong Nha - Cố đô Huế - Hội An - Mỹ Sơn, hình thành nên “Con đường di
sản miền Trung”.
* Khai thác hợp lý nguồn tài nguyên văn hóa phát triển du lịch, dịch vụ
Với lợi thế về tài nguyên di sản và lễ hội, Thừa Thiên Huế đã khai
thác và phát huy lợi thế đó, đưa du lịch trở thành một trong ba ngành kinh tế
mũi nhọn của tỉnh và của cả khu vực miền Trung. Năm 1990, dịch vụ du lịch
chỉ chiếm 25-35%, đến nay đã vươn lên chiếm tới hơn 43% trong tổng thu
nhập kinh tế của tỉnh. Ngành du lịch từ chỗ chỉ có 30 khách sạn với 150
phòng, nay đã tăng lên gần 160 khách sạn với 6000 phòng, trong đó có 36
khách sạn được công nhận là khách sạn 1- 5 sao. Những doanh nghiệp du lịch
tiêu biểu như làng Hành hương, Sài Gòn Morin, Hoàng Cung, Celadon Palace,

Century, Hương Giang, Park View, Festival Huế, La Résidence, Xanh Huế,
Queen Huế các khu du lịch Lăng Cô, Làng Xanh, Mỹ An, Thanh Tân
Doanh thu từ dịch vụ du lịch ngày càng tăng cao, tốc độ tăng trưởng bình
quân 30-35% năm, lượng khách du lịch đến Thừa Thiên Huế đạt từ 300.000
lượt mỗi năm, đến nay đã tăng lên từ 1,5 đến 2 triệu lượt khách mỗi năm.
Du lịch văn hóa, lễ hội ngày càng được khai thác và phát huy có hiệu
quả, đây là tâm điểm thu hút một số lượng lớn khách tham quan du lịch.
Chính nhờ hiệu quả kinh doanh dịch vụ du lịch nên Thừa Thiên Huế cũng là
địa bàn thu hút các nhà đầu tư, có nhiều chương trình hợp tác được triển khai,
trong đó có những dự án đầu tư du lịch trên 1 tỷ USD.
Không chỉ là vùng đất mang đậm nét văn hóa đặc sắc của phương Đông, Thừa
Thiên Huế còn là một vùng đất có nhiều nguồn lực và tiềm năng thu hút đầu
tư phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Đô thị Huế đang từng bước khẳng định
là Thành phố du lịch, Thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam.
* Thực hiện các nguyên tắc trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa,
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển
10

Để bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, ngành Văn hóa, Thể thao và
Du lịch đã và đang tập trung đẩy mạnh công tác tu bổ hệ thống di tích lịch sử,
văn hóa, danh lam thắng cảnh, cảnh quan môi trường, chú trọng công tác
nghiên cứu khoa học nhằm phát huy tốt các giá trị của hệ thống di tích trên địa
bàn, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân và thu hút
khách đến tham quan du lịch. Quá trình quản lý di sản văn hóa đi theo quy
trình quản lý có trọng tâm, trọng điểm rõ ràng nhằm phát huy những thế
mạnh vốn có của vùng đồng thời khắc phục những mặt tồn tại tạo nên sự phát
triển toàn diện cho hệ thống văn hóa. Để làm tốt công việc đó cần thiết phải:
Gắn việc bảo tồn phát huy giá trị di tích với hình thành các công trình, thiết
chế văn hóa, cơ sở dịch vụ lớn trên địa bàn Thành phố Huế và các khu vực lân
cận phù hợp các quy hoạch trên địa bàn. Tiến hành điều chỉnh, quy hoạch hệ

thống di tích, các cơ sở hạ tầng, chú trọng nâng cao chất lượng các phương
tiện vận chuyển phù hợp với điều kiện giao thông đi lại, đáp ứng yêu cầu về
bảo vệ giá trị cảnh quan, môi trường sinh thái, không gây ô nhiễm tiếng ồn,
khói bụi, nước thải. Xây dựng cơ chế nhằm điều tiết, hạn chế số dân trong các
khu vực khoanh vùng bảo vệ khu vực I, II của di tích, đồng thời tuyên truyền
làm cho người dân ý thức tham gia vào công tác bảo vệ di sản, các loại hình
hoạt động nhằm phát triển du lịch, dịch vụ. Tăng cường quản lý chặt chẽ về
cảnh quan, môi trường, hạn chế các công trình xây dựng tạo sự đối nghịch,
làm phá vỡ cảnh quan của thành phố lịch sử.
Nghiên cứu xây dựng quy tắc quản lý về du lịch nhằm đề ra những
biện pháp, giải pháp hữu hiệu để quản lý chặt chẽ việc phát triển các khu lưu
trú, nghỉ dưỡng. Tăng cường các biện pháp, lập lại trật tự tại các điểm tham
quan du lịch, khắc phục tình trạng chèo kéo, ăn xin. Quy hoạch các loại hình
dịch vụ đảm bảo trật tự mỹ quan, tăng các loại hình dịch vụ cung cấp các sản
phẩm hàng thủ công mỹ nghệ tinh xảo, cao cấp, mang đặc trưng của vùng đất
Thừa Thiên Huế.
11

Mở rộng phạm vi tham quan nhằm đưa khách đến với các hoạt động
văn hóa, lễ hội, di chỉ khảo cổ, làng nghề truyền thống; tham quan hệ sinh thái
biển, đầm phá; du lịch vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng trên biển, thể thao dưới
nước, du lịch mạo hiểm Từng bước xây dựng các điểm du lịch gắn với giá
trị cảnh quan độc đáo, phát huy có hiệu quả loại hình du lịch tâm linh; hình
thành mới các loại hình dịch vụ, hình thành các điểm vui chơi giải trí; các
điểm du lịch sinh thái bên cạnh việc bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên và
môi trường sinh thái nhân văn, tránh làm phá vỡ không gian, làm biến đổi
cảnh quan thiên tạo, nhân tạo vốn có.
Tăng cường các hoạt động hợp tác phát triển về văn hóa, giáo dục,
đào tạo, tăng cường hoạt động ngoại giao thông qua các hiệp hội và tổ chức xã
hội, hướng đến hợp tác phát triển toàn diện cả về kinh tế, văn hóa - xã hội.

Tranh thủ sự hợp tác trong việc trùng tu, bảo vệ các di tích trên địa bàn. Triển
khai các chương trình nghiên cứu về tài nguyên văn hóa, về quan hệ và tác
động giữa di sản văn hóa với phát triển du lịch; di sản và lễ hội; các biện pháp
chính sách thúc đẩy hợp tác kinh tế, văn hóa, du lịch.
Văn hóa vốn là nền tảng cho sự phát triển toàn diện của xã hội, vấn đề
quản lý và bảo tồn kho tàng di sản văn hóa là việc hết sức cần thiết trong quá
trình duy trì tính bền vững của hệ văn hóa truyền thống. Xuất phát từ thực tế
hoạt động du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng và Việt Nam nói chung
cho thấy quá trình quản lý di sản văn hóa cần phải linh hoạt, bám sát thực tế
nhưng đồng thời phải tiên phong, mở đường, định hướng cho thực tế phát
triển. Song hành cùng quá trình khai thác tiềm năng, giá trị của di sản văn hóa
luôn là công tác bảo tồn. Công tác quản lý và bảo tồn di sản văn hóa luôn đặt
lợi ích của cộng đồng cư dân bản địa lên hàng đầu với tư cách là chủ nhân
sáng tạo và lưu giữ các giá trị văn hóa.
Di sản văn hóa là vốn quý, hoạt động văn hóa luôn gắn kết chặt chẽ và
mật thiết với những bước đi và sự phát triển kinh tế - xã hội ở Thừa Thiên
12

Huế. Với những nguồn lực đầy tiềm năng, di sản văn hóa Huế đã góp phần tạo
ra động lực mới củng cố vị thế Trung tâm văn hóa - du lịch theo đúng những
nguyên tắc quản lý di sản văn hóa và phát triển du lịch.
KẾT LUẬN
Du lịch kể từ khi hình thành đã được coi là “sự mở rộng không gian
văn hóa của con người” (Nguyễn Khắc Viện). Con người ở những nền văn
hóa khác nhau có nhu cầu di chuyển để tìm kiếm, trao đổi, học hỏi những cái
mới lạ, trau dồi những cái tốt, bổ sung những cái thiếu, làm giàu vốn tri thức
của mình sau khi những giá trị vật chất đã được thỏa mãn. Đó là một trong
những lý do chính yếu để hoạt động du lịch hình thành và phát triển nhanh
chóng. Các quốc gia phương Đông, trong đó có Việt Nam với nền văn hóa
huyền bí, đầy màu sắc là điểm đến thu hút rất nhiều khách du lịch phương

Tây. Những di tích lịch sử, công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng, phong
tục tập quán, lễ hội…là những di sản văn hóa đóng vai trò là nền tảng trong
quá trình đẩy mạnh sự phát triển của du lịch. Để hoạt động du lịch đạt được
hiệu quả cao thì bên cạnh đó là sự bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa là
điều hết sức cần thiết. Dựa trên những nguyên tắc cơ bản trong quá tình quản
lý di sản văn hóa và phát triển du lịch, văn hóa Việt Nam có những tiền đề
vững chắc trong quá trình hội nhập, tiếp thu những giá trị văn hóa mới bằng
chính khả năng và cá tính dân tộc. Người Việt Nam tự hào với truyền thống
văn hóa của đất nước, thông qua hoạt động văn hóa du lịch nhằm vinh danh
đất nước, dân tộc Việt, đưa tên tuổi Việt Nam đến với Thế Giới.
13

×