Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Hoa đinh hương - Vị thuốc diệt khuẩn pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.66 KB, 5 trang )

Hoa đinh hương - Vị thuốc
diệt khuẩn
Đinh hương (Syzygium
aromaticum (L.) Merr et Perry,
thuộc họ sim (Myrtaceae) tên
khác là đinh tử hương, kê tử
hương, là một cây nhỡ hay cây
to, luôn xanh, cao 8-12m, có khi
hơn. Thân mọc thẳng, nhẵn, vỏ
màu lục hoặc nâu nhạt. Lá mọc
đối, hình bầu dục hoặc hình mác,
dài 6-10cm, rộng 2,5-4cm, gốc
thuôn, đầu nhọn, mép nguyên,
hai mặt nhẵn, mặt trên màu lục
sẫm, mặt dưới nhạt; lá non màu
hồng đỏ. Hoa màu đỏ tươi. Quả nạc, hình trứng, màu
đỏ sẫm bao bọc bởi đài tồn tại; hạt hình cầu. Toàn
cây chứa tinh dầu thơm.
Bộ phận dùng làm thuốc của đinh hương là nụ hoa,
được thu hái khi bắt đầu có màu hồng đỏ, ngắt bỏ
cuống để riêng (đôi khi cuống cũng được dùng) đem
phơi âm can hoặc sấy nhẹ cho khô. Nếu hái muộn
lúc hoa đã nở, cánh hoa rụng đi hoặc quả non hình
Cây và hoa đinh
hương
thành thì chất lượng dược liệu sẽ giảm nhiều. Dược
liệu có hình dạng giống cái đinh, phần trên là cánh
hoa chụm lại thành hình cầu, bao bọc rất nhiều nhị,
phần dưới là đài hình trụ, thót hẹp dần, mặt ngoài
màu nâu hồng, có những vằn nhỏ, chất cứng chắc.
Đinh hương chứa tinh dầu với hàm lượng 15-20% ở


nụ hoa, 5-6% ở cuống hoa và 2-3% ở lá, protein 6%,
lipid 20%, carbohydrat 61%, campestrol,
stigmasterol, quercetin, kaempferol. Tinh dầu hoa
đinh hương là chất lỏng nặng hơn nước, không màu
hoặc màu vàng, mùi và vị đặc trưng, có thành phần
chính là eugenol với tỷ lệ 80-95%. Chất lượng tinh
dầu tốt nhất ở nụ hoa, rồi đến cuống hoa và lá. Quả
đinh hương chứa ít tinh dầu, hàm lượng eugenol lại
thấp nên không được sử dụng.
Từ xưa, hoa đinh hương đã được coi là một loại gia
vị quý để chế biến bột cari cùng với nghệ, gừng, hồ
tiêu đen, ớt, quả mùi và giả tiểu hồi (cumin). Và bột
húng lìu cùng với quả hồi, quế chi, thảo quả. Hoa
đinh hương còn được dùng để ướp thuốc lá thơm và
pha chế rượu mùi, nước hoa.
Về mặt y học, hoa đinh hương có vị cay, ngọt, tê,
mùi thơm mạnh, tính ấm, có tác dụng làm thơm,
tăng nhiệt, diệt khuẩn, giảm đau, tiêu viêm, chống
nôn. Ở nhiều nước châu Á, nhân dân có tập quán
dùng hoa đinh hương để làm thơm hơi thở, chống
chứng hôi miệng, và nhai hoa đinh hương với mục
đích phòng bệnh trong các vụ dịch. Để chữa viêm
xoang, sổ mũi, hắt hơi, hôi mũi, lấy một nụ hoa đinh
hương tán bột, gói vào bông gạc, nút lỗ mũi, hít làm
nhiều lần.
Hoa đinh hương 2-4g, phối hợp với thị đế (tai quả
hồng) 10g và gừng 5 lát, thái nhỏ, sắc với 200ml
nước còn 50ml, uống làm một lần trong ngày chữa
nấc, nôn mửa; với sa nhân 6g, bạch truật 12g, tán
nhỏ, rây bột mịn chữa rối loạn tiêu hóa, đầy hơi.

Dùng ngoài, hoa đinh hương tán nhỏ, rây mịn, trộn
với nước cho xâm xấp, bôi chữa đầu vú nứt nẻ ở phụ
nữ. Hoa đinh hương và xuyên tiêu, lượng bằng nhau,
tán bột, thêm ít băng phiến, rồi trộn với mật ong, bôi
hằng ngày chữa chân răng nứt nẻ sưng đau. Hoa
đinh hương một phần, đọt cây dứa gai 2 phần, giã
nát, đắp băng chữa đinh râu. Để chữa tê thấp, đau
xương, chân tay lạnh nhức mỏi, lấy hoa đinh hương
20g, bột long não 12g, ngâm với 250ml cồn 90o
trong 7-10 ngày. Lọc, bỏ bã. Khi dùng, lấy bông
thấm thuốc bôi và xoa bóp chỗ đau nhức. Ngày làm
1-2 lần. Hải Thượng Lãn Ông lại dùng hoa đinh
hương phối hợp với quế, gừng sống, dây đau xương,
hồi hương, vỏ sòi, vỏ núc nác, lá canh châu, mủ
xương rồng bà, lá thầu dầu tía, lá náng, lá kim cang,
lá mua, huyết giác, nghệ, hạt trấp, hạt máu chó, lá
bưởi bung, lá tầm gửi cây khế (lượng các vị bằng
nhau 10-20g) giã nhỏ, sao nóng và chườm để chữa
bong gân, sai khớp.
Tinh dầu đinh hương có tác dụng diệt khuẩn mạnh,
được dùng phổ biến trong nha khoa làm thuốc tê và
diệt tủy khi nhổ răng. Tinh dầu đinh hương trộn với
tinh dầu bạch đàn, menthol, trần bì, hạt mùi, natri
bicarbonat và acid citric được dùng mỗi lần 2-3g hòa
vào nước sôi, xông mũi họng để chữa viêm nhiễm
đường hô hấp. Khi nước thuốc nguội có thể dùng
ngậm và súc miệng. Hoặc pha chế tinh dầu làm
thuốc chữa cảm cúm, nhức đầu, ngạt mũi dưới dạng
dầu bôi gồm tinh dầu đinh hương, tinh dầu bạch đàn,
bột long não, methyl salicylat, menthol, dầu parafin

và dạng cồn hoặc cao xoa gồm tinh dầu đinh hương,
bạc hà, long não, quế, hồi, sa nhân.
Eugenol chiết từ tinh dầu hoa đinh hương là nguyên
liệu bán tổng hợp chất thơm vanilin dùng trong thực
phẩm và y học. Do nguyên liệu và tinh dầu hoa đinh
hương còn hạn chế nên người ta đã nghiên cứu dùng
tinh dầu cây hương nhu trắng (Ocimum gratissimum
L.) để thay thế. Tinh dầu này cũng chứa eugenol với
hàm lượng tương đương với tinh dầu hoa đinh
hương.
Theo tài liệu nước ngoài, ở Trung Quốc, để chữa đau
dạ dày, ăn không tiêu, người ta dùng hoa đinh hương
4g, quả mùi 8g, vỏ quýt 4g, hoàng liên 4g tán nhỏ,
sắc uống. Hoặc chữa nôn mửa, lạnh bụng bằng cách
nấu đường phèn hoặc đường kính 50g cho tan, rồi
thêm bột hoa đinh hương 5g và gừng tươi giã nhỏ
30g, cô nhỏ lửa đến khi được cao đặc, uống làm 2-3
lần trong ngày. Ở Malaysia, hoa đinh hương được
dùng làm thuốc bổ cho phụ nữ sau đẻ. Ở Ấn Độ,
tinh dầu hoa đinh hương là chất phụ gia cho vào
nước tắm có tác dụng chống mệt mỏi, lao lực, trầm
cảm theo phương pháp chữa bệnh độc đáo của y học
truyền thống nước này gọi là Ayurveda. Người
Indonesia dùng tinh dầu hoa đinh hương pha trong
dầu béo để xoa bóp chữa tê thấp.

×