Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận cao học, truyền thông đại chúng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa truyền thông đại chúng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.06 KB, 20 trang )

Tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng đã trở thành hiện thực từ giữa thế
kỷ XX, trong bài viết này, tác giả không chỉ tập trung làm rõ thực chất của
tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng được thể hiện ở sự phát triển nhanh
chóng về sức mạnh của các loại hình phương tiện và các chủ thể chi phối, ở
sự quy chuẩn hóa cơng nghệ truyền thơng diễn ra trên phạm vi tồn cầu và ở
mơi trường truyền thơng, mà phân tích vai trị của "
Truyền thơng đại chúng
trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc trong q trình tồn cầu hóa truyền thơng đại
chúng"
.
1. Thực chất của tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng
Thực chất của tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng là q trình phát
triển mạnh mẽ, mở rộng quy mô hoạt động, phạm vi ảnh hưởng ra toàn cầu
của các phương tiện truyền thơng đại chúng. Có thể thấy nội dung của tồn
cầu hóa truyền thơng đại chúng được phản ánh ở những tiến trình thực tiễn
sau:
- Sự phát triển nhanh chóng về sức mạnh của các loại hình phương tiện
và các chủ thể chi phối truyền thông đại chúng là nội dung đầu tiên của tồn
cầu hóa truyền thơng đại chúng. Sự ra đời của phát thanh (radio), truyền hình
(television) ở nửa đầu thế kỷ, đặc biệt là sự xuất hiện của máy tính điện tử cá
nhân (person computer) và tiếp theo là mạng máy tính tồn cầu (Internet) đã
tạo ra bước nhảy vọt có tính chất bùng nổ trong lĩnh vực truyền thông đại
chúng. Vào thời điểm hiện nay, các phương tiện truyền thông đại chúng, như
báo in, phát thanh, truyền hình, quảng cáo, các loại băng, đĩa âm thanh, hình
ảnh, v.v. đã hiện diện trong đời sống thường nhật, trở thành một nhu cầu sinh
hoạt văn hóa khơng thể thiếu đối với tuyệt đại bộ phận người dân trên toàn
hành tinh. Hàng tỷ người ở các quốc gia, lãnh thổ trên thế giới đang hàng
ngày, hàng giờ làm việc, giải trí thơng qua và bằng Internet. Cùng với sự ra
đời và phát triển nhanh chóng của các loại hình phương tiện truyền thông đại



chúng, các chủ thể truyền thông đại chúng cũng phát triển mạnh mẽ về quy
mô, sức mạnh ảnh hưởng.
- Sự quy chuẩn hóa cơng nghệ truyền thơng diễn ra trên phạm vi toàn
cầu – một yếu tố quan trọng tạo nên q trình tồn cầu hóa truyền thơng đại
chúng. Q trình quy chuẩn hóa cơng nghệ truyền thơng diễn ra dưới tác động
chủ yếu của hai yếu tố: sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và sức ép của việc
mở rộng quy mô hoạt động, phạm vi ảnh hưởng của truyền thông đại chúng
mà về thực chất, là nhu cầu mở rộng thị trường của các chủ thể truyền thơng
đại chúng. Chính những tiến bộ khoa học của thế kỷ XX đã cho phép phá bỏ
rào cản của các hệ kỹ thuật truyền hình khác nhau, dẫn đến việc các máy thu
của cả thế giới, dù do bất cứ quốc gia, cơng ty nào sản xuất, đều có thể thu
nhận được các chương trình phát đi của mọi đài phát sóng truyền hình và
ngược lại. Mặt khác, các chủ thể truyền thơng muốn mở rộng thị trường của
mình buộc phải tìm ra các giải pháp kỹ thuật cơng nghệ chuẩn phổ biến. Có
thể nhận thấy q trình quy chuẩn hóa cơng nghệ truyền thơng diễn ra trong
lĩnh vực truyền hình.
- Mơi trường truyền thơng - điều kiện, đồng thời là kết quả của q
trình tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng. Mơi trường tồn cầu của truyền
thơng đại chúng bao gồm sự mở rộng phạm vi của cơ sở hạ tầng kỹ thuật, mở
rộng công chúng, mở rộng không gian nguồn tin của truyền thơng đại chúng
ra tồn cầu. Trước hết là việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật đã cho phép người
ta mở rộng và hình thành một môi trường truyền thông đại chúng đồng nhất
trên phạm vi tồn cầu mà hầu như khơng có hàng rào kỹ thuật, địa lý hay
hàng rào quốc gia nào có thể ngăn cản.
Tóm lại, các yếu tố điều kiện của tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng
quan trọng nhất chi phối và thúc đẩy tiến trình này là: Những thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ lần thứ ba; q trình tồn
cầu hóa kinh tế thế giới; tiến trình hội nhập quốc tế; yêu cầu giải quyết các
vấn đề tồn cầu như: chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội…



2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam,
được đề cập trong nhiều văn bản quan trọng, đặc biệt từ Nghị quyết Trung
ương 5, khóa VIII. Trong đó, tính tiên tiến và bản sắc dân tộc được hịa
quyện, gắn bó hữu cơ trong các yếu tố cấu thành của nền văn hóa, đảm bảo
tính kế thừa và phát triển, vừa giữ gìn các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, đồng thời đảm bảo tính mở, tiếp thu tinh hoa của văn hóa nhân loại. Đồng
thời, nội hàm của tính tiên tiên và bản sắc văn hóa cũng được xác định rõ, phù
hợp với mục tiêu, đặc điểm, truyền thống của đất nước trong quá trình đi lên
CNXH. Theo đó, tiên tiến trong văn hóa trước hết là nền văn hóa yêu nước và
tiến bộ, nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tất cả vì con người, vì tự do,
hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, trong mối quan hệ giữa
cá nhân và cộng đồng, giữa tự nhiên và xã hội; tiên tiến không chỉ thể hiện ở
nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức thể hiện, trong các phương tiện
chuyển tải nội dung; bản sắc văn hóa dân tộc, là các giá trị đặc trưng, tiêu
biểu phản ánh diện mạo, cốt cách, bản chất riêng của nền văn hóa, là dấu hiệu
cơ bản để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác, đó cũng là
tổng hịa các khuynh hướng sáng tạo văn hóa, được hình thành trong mối liên
hệ thường xuyên với điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, thể chế chính
trị…trong q trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Bản sắc văn hóa
được thể hiện rõ trong truyền thống dân tộc, là các giá trị văn hóa tiêu biểu
được trao truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, được khai thác và phát
huy, tiếp tục bồi đắp, tạo nên dịng chảy văn hóa của dân tộc từ quá khứ đến
hiện tại và tương lai.Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VII được thơng qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng

đề ra những định hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân


tộc. Theo đó, Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.[1, tr.391]
Mọi hoạt động truyền thơng về văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng
và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con
người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng
mơi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về định hướng phát triển văn hóa
trong giai đoạn mới, đó là: “Phát triển con người tồn diện và xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người
Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước
và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng,
phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy
truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt
Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất
nước” [2]. Chính vì vậy, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế là
một quá trình xuyên suốt
Kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di
sản văn hóa, nghệ thuật của dân tộc. Bảo tồn và tơn tạo các di tích lịch sử, văn
hóa và danh lam thắng cảnh của đất nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường
và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm gìn giữ và nâng cao bản
sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt
đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới,
làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam; đấu tranh chống sự xâm nhập của
các loại văn hóa độc hại, những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng, mất gốc.
Khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị

nhân văn.


Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung Ương Đảng - khoá VIII
(1998), lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hóa Việt Nam có đặc trưng tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc thay cho quan niệm nền văn hóa Việt Nam có nội
dung XHCN, có tính dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân được nêu ra
trước đây. Đại hội VII chủ trương xây dựng nền văn hóa mới, tạo đời sống
tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến
bộ; hướng tới chân thiện mĩ; khẳng định tiếp tục tiến hành cách mạng XHCN
trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần và xã hội. Kế
thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc
trong nước tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội
dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ
tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mĩ ngày càng cao. Chống tư tưởng văn hóa
phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao
quý của loài người, trái với phương hướng đi lên XHCN. Xác định giáo dục
và đào tạo, khoa học và cơng nghệ là quốc sách hàng đầu.
+ Về tính tiên tiến: Nền văn hóa hiện nay có những đặc điểm chủ yếu
như: yêu nước, tiến bộ, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (là nội
dung cốt lõi), vì con người (hạnh phúc. tự do, phát triển phong phú, tồn diện
trong quan hệ hài hịa giữa con người và cộng đồng, xã hội với thiên nhiên),
mở rộng giao lưu, tiếp thu văn minh văn hóa thế giới; q trình xây dựng nền
văn hóa hiện nay cũng là quá trình thực hiên chiến lược con người, đây là
khâu trung tâm trong sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần. Cốt lõi của tính
tiên tiến là độc lập dân tộc và cnxh theo tư tưởng hồ chí minh, tính tiên tiến
khơng chỉ trong nội dung tư tưởng mà cịn phải được thể hiện trong cách thức
biểu hiện, chuyển tải nội dung.
+ Về bản sắc dân tộc bao gồm: Những giá trị văn hóa truyền thống bền

vững của cộng đồng và dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nướcvà giữ nước, đó là: lịng u nước nồng nàn, ý chí tự


cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thứccộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình
- làng xã - Tổ quốc; đó là lịng nhân ái, khoan dung, trọng tìnhnghĩa đạo lý,
đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế ứng xử, tính giản dị trong
lối sống… Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện
mang tính độc đáo, vớinhững đặc trưng, sắc thái, thể hiện cốt cách dân tộc
Việt. Như vậy, để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
trước hết cần nắmchắc những quan điểm cơ bản chỉ đạo q trình phát triển
văn hóa trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước và những nội
dung cơ bản của Nghị quyết Trung Ương 5- khóa VIII của Đảng. Những quan
điểm đó là: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nền văn hóa mà chúng ta
đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nền văn hóa
Việt Nam là nền văn hóa thống nhất và đa dạng trongcộng đồng các dân tộc
Việt Nam; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng; văn hóa là một mặt
trận, xây dựngvà phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài.
Bản sắc dân tộc và tính tiên tiến của nền văn hóa phải được thẩm đượm
trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu
khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta
có tư duy độc lập, co cách làm vừa hiện đại, vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi
vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, cơng nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại song phải luôn phát
huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.Đó là lịng yêu nước nồng nàn, ý chí tự

cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân –gia đình
–làng xã-Tổ quốc; đó là lịng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, là
đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị


trong lối sống…Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện
mang tính dân tộc độc độc đáo.
Có thể nói bản sắc của một dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính
cách, khuynh hướng cơ bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo giúp
cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán
so với bản thân mình trong quá trình phát triển. Sức mạnh và sức sáng tạo này
có mối liên hệ gốc rễ, lâu dài và bền vững với môi trường xã hội- tự nhiên và
với quá trình lịch sử mà dân tộc ta đã tồn tại.
Nói chung, bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc , là quá
trình dân tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản
thân mình, biết cạnh tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội:
cách tư duy, cách sống, cách dựng nước, giữ nước, cách sáng tạo trong văn
hóa, khoa học, văn học nghệ thuật…., nhưng được thể hiện sâu sắc nhất là
trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của nền văn hóa. Hệ giá trị là những
gì nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả
xâm phạm. Khi được chuyển thành các chuẩn mực xã hội, nó định hướng cho
sự lựa chọn trong hành động của cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó là cơ sở
tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự vững vàng của chế độ. Hệ giá trị có tính
ổn định rất lớn và có tính bền vững tương đối, có sức mạnh gắn bó mọi thành
viên trong cộng đồng. Trong sự tiến bộ và phát triển của xã hội, các giá trị
này thường không biến mất mà hóa thân vào các giá trị của thời sau, theo quy
luật kế thừa và tái tạo.
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế
xã hội và thể chế chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình

hội nhập kinh tế thế giới, quá trình giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và
sự tiếp nhận tích cực văn hóa, văn minh nhân loại. Vì vậy, chúng ta chủ
trương xây dựng và hoàn thiện các giá nhân cách con người Việt Nam trong


thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm
đượm trong mọi ho;ạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành
tựu khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo…, sao cho trong mọi lĩnh vực
hoạt động chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa
mang sắc thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải tiếp thu những tinh hoa nhân
loại, song phải luôn luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân
tộc.
Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta
chủ trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại. Bảo vệ bản sắc dân tộc, gắn kết với mở rộng giao lưu
quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân
tộc khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham gia hội nhập và
giao lưu văn hóa với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới của văn hóa
Việt Nam đương đại. Xây dựng Việt Nam thành một địa chỉ giao lưu văn hóa
khu vực và quốc tế.
Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống những cái lạc hậu, lỗi
thời trong phong tục, tập quán và lề thói cũ.
3. Vai trị của truyền thơng đại chúng trong việc thực hiện nhiệm
vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tộc
trong quá trình tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng
Truyền thơng có ảnh hưởng rất lớn đến mọi vấn đề của xã hội. Truyền
thông tác động đến nhận thức của công chúng, từ nhận thức sẽ tác động đến

hành động và ứng xử của công chúng. Khi mà một ứng xử của công chúng
được lặp đi lặp lại sẽ thành nề nếp, tập quán cuối cùng trở thành những chuẩn
mực của xã hội. Nhờ đến truyền thông mà những vấn đề này được xã hội chấp
nhận và lan truyền nhanh trong công chúng. Đối với một nền văn hóa cũng


vậy, truyền thông là công cụ lưu truyền tinh hoa văn hóa của dân tộc, từ thế hệ
này sang thế hệ khác, vì vậy truyền thơng đại chúng trong mỗi quốc gia có thể
có những tác động lên trên thái độ và ứng xử của người dân, có thể góp phần
bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc hoặc ngược lại. Bên cạnh đó truyền thơng
cịn góp phần đáng kể vào việc nâng cao dân trí, cũng như giáo dục đạo đức,
thẩm mỹ.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, nhiều nhà khoa học đã dự báo về khả
năng phát triển mạnh mẽ có tính chất bùng nổ và mở rộng quy mơ ảnh hưởng
tồn thế giới của các phương tiện truyền thông đại chúng, dẫn tới việc thu nhỏ
không gian và thời gian thông tin - truyền thông trên phạm vi tồn thế giới,
hình thành “làng thơng tin tồn cầu”. Những dự báo đó đã dần trở thành hiện
thực từ những năm giữa thế kỷ XX khi nhân loại bước vào cuộc cách mạng
khoa học – công nghệ lần thứ ba - cuộc cách mạng tin học, với sự ra đời của
mạng máy tính Internet, hệ thống cáp quang và hệ thống vệ tinh địa tĩnh.
Nằm trong xu thế vận động chung cũng như sự tác động lẫn nhau của
nhiều lĩnh vực như kinh tế, môi trường, khoa học và cơng nghệ, tồn cầu hóa
truyền thơng đại chúng là một hiện tượng khách quan. Đó chính là q trình
quy chuẩn hóa và mở rộng quy mơ ra tồn cầu về phạm vi ảnh hưởng, nguồn
tin, công chúng, phương tiện, kỹ thuật, cách thức thông tin và tiếp cận thông
tin của các loại hình hoạt động truyền thơng đại chúng. Có thể nói tồn cầu
hóa truyền thơng đại chúng bắt đầu từ giữa thế kỷ XX và ngày nay đã trở
thành một hiện thực khơng thể cưỡng nổi. Nó như một hệ quả của sự vận
động của một loạt lĩnh vực khác trong đời sống thực tiễn và đến lượt mình, nó
lại trở thành một điều kiện, một động lực thúc đẩy q trình tồn cầu hóa của

các lĩnh vực khác.
Một là, vai trị của truyền thơng đại chúng với việc phát triển con người
Việt Nam hiện đại
Trong bối cảnh tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng, sự giao lưu giữa
các dân tộc không chỉ mở ra theo chiều rộng mà mạnh mẽ cả về chiều sâu.


Tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng là kết quả tất yếu của việc mở rộng các
hình thức giao lưu của lồi người, nó nhất định sẽ dẫn đến sự chuyển đổi về
hình thức tư duy và quan niệm giá trị. Nét nổi bật của q trình tồn cầu hóa
truyền thông đại chúng là sự mở rộng quy mô ảnh hưởng, thu hẹp không gian
và thời gian giao tiếp đã tạo ra cơ hội cho các dân tộc, cộng đồng người có thể
tiếp cận với các phương tiện truyền thơng đại chúng. Nhờ đó mà cơng chúng
có thể tiếp cận thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng ngày càng
dễ dàng hơn, thuận lợi hơn
Xã hội không ngừng phát triển, nhu cầu trao đổi thông tin của con
người ngày càng cao, truyền thông đại chúng cũng không ngừng cải tiến, đổi
mới, ứng dụng thành tựu của khoa học cơng nghệ để từng bước cho ra đời
nhiều loại hình truyền tải thông tin hiện đại. Cuối thế kỷ XX, cùng với loại
hình báo in cịn có báo nói, báo hình, đặc biệt là báo điện tử. Cơng nghệ in
ấn, phát hành, ngành quảng cáo, maketting phát triển với sự đua tranh quyết
liệt, tạo ra mạng lưới truyền thông rộng khắp trên phạm vi toàn thế giới.
Những vấn đề thời sự quốc tế, tình hình chính trị các nước đều được cập nhật
và thông tin kịp thời, tạo ra những chuyển biến, thay đổi về nhận thức, tư duy
của con người theo hướng tích cực.
Khi Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới đòi hỏi việc nắm
bắt, cập nhật thông tin về diễn biến thị trường, trao đổi mua bán trong và
ngồi nước, đời sống chính trị, xã hội, hoạt động ngoại giao... là vô cùng cần
thiết, giúp cho các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan chức năng chủ
động trong việc xử lý thông tin, đưa ra những biện pháp giải quyết kịp thời,

hữu hiệu.
Đặc biệt, với đồng bào các dân tộc thiểu số, cư trú ở những vùng miền
khó khăn, truyền thơng có vai trò rất quan trọng giúp họ mở mang tri thức,
học cách làm giàu, phát triển kinh tế, xã hội, thoát ra khỏi những tập tục lạc
hậu, những thói quen sinh hoạt cổ hủ. Sau hệ thống kết cấu hạ tầng điện,
đường, trường, trạm phục vụ nhu cầu dân sinh thì hệ thống truyền thông cũng


kịp vươn tới những bản làng xa xôi của Tổ quốc. Sóng truyền hình, hệ phát
thanh, truyền hình tiếng dân tộc, internet, mạng di dộng, cũng được lên sóng
giúp người dân ở những vùng khó khăn tiếp cận nhanh với chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước; cung cấp phương tiện hữu hiệu cho việc học tập,
tiếp thu tri thức, kinh nghiệm về trồng trọt, chăn nuôi, canh tác, từng bước
nâng cao dân trí, cải thiện chất lượng cuộc sống.
Hai là, truyền thơng đại chúng gìn giữ, phát huy và phát triển bản sắc
văn hóa dân tộc trong q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu
sắc trong thế giới hiện đại, không chỉ dừng lại trong lĩnh vực kinh tế, mà còn
mở rộng, lan tỏa, thâm nhập các lĩnh vực khác của đời sống, từ xã hội, môi
trường đến khoa học, công nghệ, văn hóa, pháp luật, giáo dục,... Chính q
trình tác động và thấm sâu của tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vào
toàn bộ các lĩnh vực của một dân tộc, một quốc gia mà nhân loại đang đứng
trước nhiều vấn đề hệ trọng đối với sự đứng vững, tồn tại và phát triển của
từng quốc gia, dân tộc và của từng khu vực trên thế giới trong quan hệ mang
tính tồn cầu đang diễn ra cực kỳ phong phú và phức tạp hiện nay. Tồn cầu
hóa vừa là thời cơ cho sự hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời
cũng là những thách thức to lớn, nhiều khi hoàn toàn mới mẻ, đối với vấn đề
giữ gìn, bảo vệ, phát huy và phát triển các giá trị văn hóa riêng biệt, độc đáo,
có tính truyền thống của mỗi dân tộc, quốc gia trong bối cảnh và đặc điểm
mới của thế giới hiện đại.

Kết quả của tồn cầu hóa là tạo ra những giá trị chung, là sự xích lại
gần nhau, đan xen giữa các quá trình của sự phát triển, đặc biệt trên các lĩnh
vực quan trọng như kinh tế, khoa học - cơng nghệ, thương mại,... Tuy vậy,
tồn cầu hóa khơng có nghĩa là tất cả các quốc gia, các dân tộc sẽ tiến tới một
sự đồng nhất về mọi mặt, mà ngược lại, tồn cầu hóa chỉ có thể diễn ra khi
đồng thời tạo ra những giá trị phổ quát cho nhiều quốc gia, nhiều dân tộc,
mang lại cho các dân tộc những điều kiện và cơ hội tốt để phát huy và phát


triển những giá trị riêng, độc đáo, đặc trưng của dân tộc mình. Và điều đó sẽ
diễn ra khơng phải là hệ quả tự nhiên của tồn cầu hóa, mà nhất thiết phải cần
một quá trình cùng điều chỉnh, cùng hợp tác và đấu tranh của các quốc gia,
dân tộc tham gia tồn cầu hóa. Nêu khơng làm được điều này, sẽ diễn ra một
quá trình mà các thế lực mạnh và đen tối sẽ lái "con tàu" toàn cầu hóa về
hướng làm thui chột, làm yếu đi các giá trị văn hóa riêng của từng dân tộc, sẽ
thực hiện mưu đồ áp đặt văn hóa, biến các quốc gia khác thành lệ thuộc, tự
đánh mất mình trong thế giới hiện đại.
Ở đây, về mặt văn hóa, trong q trình tồn cầu hóa, mỗi dân tộc phải
đứng trước và ln ln phải xử lý mâu thuẫn giữa tồn cầu hóa có xu hướng
mạnh, tạo ra các giá trị phổ quát chung với bản sắc văn hóa riêng, độc đáo của
dân tộc. Và đây cũng chính là một đặc điểm riêng trong quan hệ giữa tồn cầu
hóa và văn hóa của các dân tộc.
Xin lưu ý rằng, không đơn thuần chỉ là vấn đề bảo vệ, giữ gìn bản sắc
văn hóa của từng dân tộc trước tác động của toàn cầu hóa, mà cịn có những
vấn đề lớn hơn, sâu hơn: phát huy bản sắc dân tộc trong chính q trình giao
lưu, hợp tác văn hóa, phát triển và tự làm giàu có mình hơn, phong phú, hiện
đại hơn trong q trình chủ động giao tiếp và tiếp nhận, "cho và nhận" về mặt
văn hóa. Khơng nhận biết sâu và biện chứng quá trình trên sẽ dẫn tới một
cách nhìn phiến diện, với khuynh hướng bảo thủ cho rằng, để đối phó với tồn
cầu hóa, mỗi dân tộc trong khi mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, phải đóng

cửa về văn hóa, "khư khư" giữ gìn, bảo vệ các bản sắc riêng của mình, khơng
chấp nhận cả cho và nhận, vốn là một quy luật nội tại của sự tồn tại và phát
triển của mỗi nền văn hóa dân tộc.
4. Những ưu điểm và hạn chế của q trình tồn cầu hóa truyền
thơng đại chúng
Những ưu điểm: Tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng là một q trình
khách quan, là lơgíc tất yếu của tiến trình phát triển của nhân loại và những hệ


quả của nó cơ bản, chủ yếu mang tính tích cực. Có thể thấy những hệ quả tích
cực chính sau đây:
- Tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng mở ra môi trường thông tin rộng
lớn, thuận tiện nhất, giúp cho các dân tộc, các quốc gia và cư dân toàn thế giới
tăng cường khả năng giao lưu, tăng cường hiểu biết, xích lại gần nhau. Điều
này cũng có nghĩa là, nó giúp cho nhân loại nhân lên sức mạnh của mình
trong việc thống nhất nhận thức, hành động, tạo ra áp lực mạnh mẽ cho việc
giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đặt ra, từ mối quan hệ giữa con người với
thiên nhiên đến các vấn đề trong quan hệ giữa con người với con người ở
những quy mô, phạm vi khác nhau.
- Tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng tạo ra một mơi trường học tập
tồn cầu, mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho mọi cư dân trái đất có thể tiếp thu
tri thức nhân loại, nâng cao trình độ hiểu biết cho mình. Chưa bao giờ nhân
loại có mơi trường học tập thuận lợi như ngày nay, khi mà qua phát thanh,
truyền hình, sách báo, tạp chí, mạng Internet, mọi người trên trái đất đều có
được cơ hội khai thác toàn bộ kho tàng tri thức của nhân loại. Đó là một
trường học mở cửa cho tất cả những ai mong muốn học tập và nâng cao trình
độ hiểu biết.
- Tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng trở thành môi trường, điều kiện
thúc đẩy sự phát triển, ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và cơng nghệ.
Ảnh hưởng có tính chất động lực này thể hiện ở việc truyền thông đại chúng

cung cấp cho cư dân tồn cầu một cách nhanh chóng, tồn diện và phong phú
nhất tất cả những thông tin về những tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
mới nhất, tạo điều kiện cho mọi cá nhân, tổ chức đều có thể cập nhật, nâng
cao hiểu biết, thúc đẩy việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công
nghệ ấy vào đời sống. Mặt khác, toàn bộ những kết quả của việc ứng dụng
các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, cơng nghệ trên thế giới cũng nhanh chóng
được giới thiệu, được phân tích, đúc kết kinh nghiệm thực tế, tạo điều kiện
cho cho việc hưởng thụ rộng rãi những kết quả đó. Đến lượt mình, việc hưởng


thụ ấy lại trở thành động lực thúc đẩy phát triển khoa học, kỹ thuật và công
nghệ.
- Hệ thống truyền thơng đại chúng tồn cầu hóa trở thành nguồn thơng
tin sinh động, phong phú, tồn diện và có tính thời sự, cung cấp cho các nhà
hoạch định chính sách của mọi quốc gia. Để có được chính sách đúng đắn, có
hiệu quả, thì điều kiện đầu tiên chính là thơng tin. Chỉ có với hệ thống thơng
tin đầy đủ mới có khả năng phân tích, đánh giá tình hình đầy đủ, chính xác,
đưa ra những dự báo hợp lý, trên cơ sở đó đưa ra quyết định hành động đúng
đắn. Truyền thơng đại chúng tồn cầu phản ánh sinh động nhất, đầy đủ nhất
bức tranh hiện thực của đời sống xã hội. Ngồi ra, đó cũng là nguồn dữ liệu
thơng tin được tích lũy với khối lượng, dung lượng khổng lồ, khơng chỉ có ý
nghĩa quan trọng với những nhà hoạch định chính sách, mà cịn rất cần thiết
đối với những người làm công tác nghiên cứu khoa học, cũng như tất cả
những ai ham hiểu biết, có mong muốn nâng cao trình độ hiểu biết.
- Hệ thống truyền thơng đại chúng tồn cầu cũng là cơng cụ để dự báo,
điều hành và xử lý những dịch vụ đời sống của cư dân mọi quốc gia, dân tộc.
Xã hội càng phát triển, các loại dịch vụ càng trở nên phong phú, sinh động
hơn, thậm chí trở thành những ngành hoạt động khổng lồ và có ý nghĩa quan
trọng hơn cả nhiều ngành sản xuất vật chất của xã hội. Một loạt các loại hình,
yêu cầu dịch vụ hiện đại đã được xử lý, giải quyết thơng qua vai trị của hệ

thống truyền thơng đại chúng tồn cầu. Đó là các dịch vụ quảng cáo, bán
hàng, cung cấp dịch vụ; các dịch vụ thanh tốn, trao đổi tài chính, nguồn vốn;
các dịch vụ văn hóa, giải trí, tâm lý, du lịch; các dịch vụ về giáo dục, đào tạo,
tư vấn, v.v..
Những tác động của tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng đối với truyền
thông đại chúng ở nước ta hiện nay Xét từ những nhân tố tích cực, có thể nói
rằng tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng tăng cường khả năng giao lưu mọi
mặt, tạo cơ hội cho các dân tộc trên thế giới xích lại gần nhau hơn.


Những hạn chế: Đối với Việt Nam, khi đất nước đang thực hiện công
cuộc đổi mới với chủ trương "đi tắt, đón đầu", tác động của tồn cầu hóa
truyền thơng đại chúng đối với văn hóa dân tộc lại càng mạnh mẽ và thể hiện
rõ rệt.
Cùng với những ưu điểm kể trên, q trình tồn cầu hóa truyền thơng
đại chúng cũng đồng thời mang lại những hệ quả tiêu cực, những hạn chế nhất
định. Có thể nhận thức những tác động có tính tiêu cực của tiến trình tồn cầu
hóa truyền thông đại chúng với những thể hiện sau đây:
- Q trình tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng diễn ra trong tình
trạng khơng cơng bằng do sự phát triển không đều của truyền thông đại chúng
ở những quốc gia, khu vực khác nhau. Ở các nước có nền kinh tế phát triển,
các loại hình phương tiện cũng như các chủ thể truyền thông đại chúng phát
triển trước và mạnh mẽ do có điều kiện thuận lợi mọi mặt, có nguồn lực to
lớn cả về tài chính, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, tiến bộ khoa học lẫn trình
độ đội ngũ chuyên gia. Trên thực tế, quá trình phát triển tồn cầu hóa truyền
thơng đại chúng trước hết và căn bản là tồn cầu hóa các cơng ty, tập đồn
truyền thơng đại chúng của các nước phương Tây, các nước có nền kinh tế
phát triển nhất.
- Sự lưu hành những thơng tin xấu, bất lợi, có tính chất tiêu cực đối với
những giá trị văn hóa, giá trị nhân văn truyền thống cũng đang là một nguy cơ

của xã hội hiện đại. Cùng với dịng chảy những thơng tin có giá trị tốt, tồn
cầu hóa cũng đồng thời với việc mở toang cánh cửa kiểm soát của các quốc
gia cho những thông tin tiêu cực, bất lợi, trái với những giá trị đích thực và
các truyền thống bản địa tốt đẹp. Đặc biệt, hệ quả phức tạp là sự đổ bộ xơ bồ
những thơng tin có tính chính trị nhưng khơng có định hướng nhận thức rõ
ràng, dẫn đến sự nhiễu loạn, làm mất phương hướng của dư luận xã hội, thậm
chí dẫn đến những tác động tư tưởng tiêu cực, bất lợi cho sự ổn định chính trị
- xã hội, một điều kiện không thể thiếu để bảo đảm cho sự phát triển của mỗi
quốc gia.


- Khả năng lợi dụng hệ thống truyền thông đại chúng để can thiệp vào
các vấn đề, các tiến trình, sự kiện chính trị - xã hội, phục vụ cho những mục
đích chính trị, vụ lợi. Đây là hiện tượng rất phổ biến và cũng dễ nhận thấy
trong đời sống chính trị quốc tế hiện đại. Ý đồ của hành vi này là thúc đẩy
những cải biến xã hội để phục vụ cho những mục tiêu chính trị, như tạo ra
môi trường, thị trường, cạnh tranh quyền lực, thế lực chính trị, thúc đẩy việc
hình thành những điều kiện thuận lợi hơn cho những liên kết chiến lược của
những lực lượng có cùng mục đích. Nguồn thơng tin can thiệp chính trị
thường được khai thác từ hai phía, - bên ngoài quốc gia và ngay trong nội bộ
mỗi quốc gia. Nguồn thơng tin bên ngồi bao gồm nguồn thơng tin quốc tế,
những luận điểm, quan niệm, giá trị từ bên ngồi. Nguồn thơng tin từ bên
trong là sự khai thác ngay từ những vấn đề, sự kiện, những ý kiến, tâm tư của
nội bộ xã hội, thông thường được phản ánh rất nhiều trên các phương tiện
thông tin đại chúng, nhưng đã được sửa chữa, được hướng theo chiều hướng
nhận thức phù hợp với mục đích đưa thơng tin.
- Những ảnh hưởng tiêu cực về văn hóa do dịng chảy các sản phẩm phi
văn hóa và sự áp đặt các giá trị văn hóa ngoại lai, phi truyền thống dẫn đến sự
nhất thể hóa tiêu cực về văn hóa, sự phá hoại và thậm chí, cịn dẫn đến cái
chết của một số nền văn hóa bản địa. Theo nguyên tắc chung, nguồn thơng tin

truyền thơng của nước nào thì mang theo các giá trị văn hóa của nước ấy. Về
thực chất, tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng, trước hết là mở rộng phạm vi
và quy mô ảnh hưởng của truyền thông đại chúng các nước giàu mạnh, phát
triển. Mặt khác, chính các nước cơng nghiệp phát triển phương Tây cũng
muốn bành trướng ảnh hưởng văn hóa như một thứ sức mạnh mềm nhằm tạo
thuận lợi cho môi trường kinh doanh, phát triển kinh tế và bành trướng quyền
lực chính trị của mình. Điều ấy tất yếu dẫn đến dịng chảy văn hóa một chiều
khơng cơng bằng, ảnh hưởng tiêu cực đến các nền văn hóa của các nước
nghèo, chậm phát triển. Những ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa truyền
thơng đại chúng chỉ là thứ yếu, phái sinh so với vai trò động lực phát triển của


nó. Tuy nhiên, nếu khơng hạn chế kịp thời, những hệ quả tiêu cực ấy sẽ dẫn
đến những hậu quả xấu, phức tạp cho các quốc gia, dân tộc, thậm chí cả sự đổ
vỡ các nền văn hóa. Tóm lại, tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng chính là
một sản phẩm của tiến trình phát triển xã hội. Nó là kết quả trực tiếp của sự
phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ, của sự tăng cường giao lưu, hội
nhập quốc tế cũng như sự mở rộng các nhu cầu về thông tin, dịch vụ của xã
hội hiện đại. Đến lượt mình, tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng lại trở thành
một yếu tố tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nhân loại, của xã hội lồi
người nói chung. Vì thế, tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng cũng chính là
một q trình có tính quy luật, khơng thể đảo ngược và phù hợp với lơgíc phát
triển của xã hội. Vấn đề đặt ra là phải nhận thức đúng bản chất của q trình
tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng, đề ra những chính sách kịp thời, hợp lý
nhằm khai thác tốt nhất những ảnh hưởng tích cực, hạn chế đến mức thấp nhất
những ảnh hưởng tiêu cực của nó để làm cho truyền thơng đại chúng thực sự
trở thành một động lực của sự phát triển xã hội hiện đại
5. Những giải pháp hạn chế tiêu cực
Toàn cầu hóa truyền thơng đại chúng đã trở thành một xu thế không thể
cưỡng lại, bắt buộc mọi quốc gia, dân tộc phải tham gia và chấp nhận thách

thức. Quốc gia, dân tộc nào thông minh, đủ bản lĩnh và tỉnh táo sẽ phát huy
tối đa các mặt tích cực và hạn chế thấp nhất các ảnh hưởng tiêu cực. Đối với
nước ta thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, biện pháp
sau:
- Trước hết, đó là việc phải xử lý hài hịa mối quan hệ tương tác giữa
sức ép của tồn cầu hóa trên lĩnh vực truyền thông đại chúng và việc bảo vệ
an ninh, chính trị, tư tưởng và văn hóa theo hướng vừa tăng cường giao lưu
vừa giữ được bản sắc dân tộc, vừa tận dụng thuận lợi và vượt qua thách thức.
Những vấn đề này thuộc về quan điểm, đường lối cách xử lý... sao cho vừa
tham gia vào xu thế hội nhập chung của nhân loại như một bộ phận quan
trọng vừa tồn tại như một chỉnh thể độc lập, có chủ quyền và giàu bản sắc.


Trong quan hệ này, các yếu tố kế thừa và cách tân, truyền thống và hiện đại,
nội sinh và ngoại sinh, giao lưu và tiếp biến văn hóa... cần được nhìn nhận
một cách thấu đáo và biện chứng.
- Tiếp tục giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với hệ thống truyền
thông đại chúng. Nội dung thông tin của các cơ quan đại chúng trong nước
phải giữ vững vai trò là dịng chủ lưu thơng tin trong đời sống kinh tế - xã hội.
Quán triệt và tăng cường thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị
khóa VIII và các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
quản lý cơng tác báo chí, xuất bản... Các cơ quan báo chí một mặt tích cực
tuyên truyền, giáo dục, góp phần đưa các chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống, mặt khác phải thường xun có các biện
pháp tích cực, nhằm tập trung dư luận trong nước và quốc tế đấu tranh có hiệu
quả với những nội dung thơng tin phát tán trên hệ thống truyền thơng đại
chúng tồn cầu có quan điểm sai trái, phản động, ảnh hưởng không tốt tới
công tác an ninh, chính trị, tư tưởng, văn hóa của chúng ta.
- Tăng cường đầu tư phát triển hệ thống truyền thông đại chúng, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vừa đầu tư xây

dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, vừa đào tạo đội ngũ cán bộ vững vàng
về chính trị tư tưởng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, tiếp cận được với trình
độ khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới, chủ động hội nhập tồn cầu hóa
thơng tin đại chúng. Khai thác, phát huy triệt để mặt tích cực và hạn chế tối đa
các ảnh hưởng xấu của toàn cầu hóa thơng tin đại chúng.
- Bên cạnh việc giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ về mọi mặt đội ngũ
những người làm công tác truyền thông đại chúng cần chú trọng làm tốt công
tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho mọi tầng lớp nhân dân về
những tác động tiêu cực của tồn cầu hóa thơng tin đại chúng từ đó có nhận
thức đầy đủ để tự giác không tiếp cận và kiên quyết đấu tranh chống lại
những nội xung xấu.


- Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho báo chí phát triển, đồng thời tăng
cường quản lý nhà nước đối với hoạt động của các cơ quan báo chí. Chú trọng
có các biện pháp tích cực nhằm chống khuynh hướng thương mại hóa báo chí.
Bảo đảm báo chí nước ta phải thể hiện rõ là báo chí cách mạng, lấy mục tiêu,
nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục là hàng đầu.
Như vậy, tồn cầu hóa nói chung và tồn cầu hóa truyền thơng đại
chúng nói riêng thực sự đang tạo ra những vận hội mới cũng như những khó
khăn, thách thức to lớn đối với an ninh, chính trị, tư tưởng và văn hóa của tất
cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Đối với nước ta, một nước đang phát
triển thì thách thức lại càng lớn hơn, chúng ta một mặt với những chính sách
và bước đi phù hợp, khơn khéo khai thác những cơ hội mà tồn cầu hóa đem
lại đồng thời phải hết sức tỉnh táo, khôn khéo lựa chọn để hạn chế tối đa các
mặt tiêu cực mà tồn cầu hóa mang lại.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) PGS.TS Nguyễn Văn Dững và PGS.TS Đỗ Thị Thu Hằng (2012), Truyền

thông - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
2) Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thơng đại chúng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội
3) Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 55, tr.391-393, Nxb.Chính trị quốc gia
4) Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội.



×