Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận cao học , triết học mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn và sự vân dụng quan điểm đó vào công cuộc đổi mới của việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.76 KB, 21 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC
Đề tài:
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VÀ SỰ VÂN DỤNG QUAN ĐIỂM ĐĨ VÀO CƠNG CUỘC ĐỔI
MỚI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
1. Một số vấn đề về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn...............2
1.1. Khái niệm.................................................................................................2
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn...................................3
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận.......................................................................6
2. Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn vào công
cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay...................................................................8
2.1. Trước đổi mới..........................................................................................8
2.2. Thời kỳ đổi mới.....................................................................................12
KẾT LUẬN....................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................19


MỞ ĐẦU
Sự gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn ln là một
địi hỏi cấp bách và là một phương thức để mang đến thành công cho hoạt
động của mỗi cá nhân, của tổ chức và của một chính đảng. Nhận thức đúng và
giải quyết hợp lý mối quan hệ biện chứng tác động qua lại của lý luận và thực
tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn
để phát triển lý luận, thực tiễn phải là cơ sở, động lực của nhận thức và tiêu
chuẩn của chân lý ... ln là chìa khóa để để giải quyết mọi vướng mắc trên


con đường đi đến mục tiêu đã định. Ngược lại, nhận thức không đúng và giải
quyết không tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa
giáo điều, kinh viện và chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ quan duy ý chí, tất
nhiên sẽ dẫn đến những thất bại mà đối với một chính đảng, sự thất bại đó có
thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Để tìm hiểu rõ hơn vấn đề trên, em
xin chọn đề tài số 04 “Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn và
sự vân dụng quan điểm đó vào cơng cuộc đổi mới của Việt Nam hiện nay”
làm bài tập tiểu luận của mình.

1


NỘI DUNG
1. Một số vấn đề về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
1.1. Khái niệm
Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản khơng chỉ của
lý luận nhận thức mácxít mà cịn của tồn bộ triết học Mác - Lênin nói
chung.
* Quan điểm của triết học trước Mác:
- Điđơrô (nhà triết học Pháp): hiểu chưa đầy đủ về thực tiễn, cho rằng
thực tiễn là hoạt động thực nghiệm khoa học trong phòng thí nghiệm.
- Phoiơbắc (nhà triết học duy vật siêu hình người Đức): thực tiễn chỉ là
những hoạt động bẩn thỉu của các con buôn.
- Hêghen (nhà triết học duy tâm khách quan người Đức): thực tiễn chỉ
là khái niệm, tư tưởng thực tiễn chứ không phải bản thân thực tiễn với tư cách
là hoạt động vật chất.
* Quan điểm triết học mácxít:
Thực tiễn là tồn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn khơng phải bao gồm tồn bộ hoạt động vật chất
của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất (để phân biệt với hoạt động

tinh thần, hoạt động lý luận), hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động vật
chất "cảm tính" của con người.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động đặc trưng và bản chất của con người,
được thực hiện một cách tất yếu khách quan và được tiến hành trong các quan
hệ xã hội, là hoạt động mang tính năng động, sáng tạo, là phương thức tồn tại
cơ bản của con người và xa hội lồi người.
Hoạt động thực tiễn có ba dạng cơ bản, đó là:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản đầu tiên
của thực tiễn, có vai trị quyết định đối với các dạng hoạt động khác của thực
2


tiễn. Vì: nó là hoạt động ngun thủy nhất và tồn tại một cách khách quan,
thường xuyên nhất trong đời sống con người và nó tạo ra những điều kiện,
của cải thiết yếu có tính quyết định đến sự sinh tồn và phát triển của con
người và xã hội loài người.
+ Hoạt động chính trị - xã hội: là hoạt động của các cộng đồng người
khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy
xã hội phát triển.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của thực
tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống
hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các qui
luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của
loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại
trong quá trình lịch sử.
Xét về bản chất: lý luận là một hệ thống tri thức chặt chẽ mang tính
trừu tượng khái quát, đúc kết từ thực tiễn, được diễn đạt thông qua các khái
niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật ... phản ánh bản chất của sự vận động,
biến đổi, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.

Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, được hình
thành trong mối quan hệ với thực tiễn.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ với nhau, tác động qua lại
nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trị quyết định.
 Vai trị quyết định của thực tiễn đối với lý luận:
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lý luận đồng
thời là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thực, lý luận. Thực tiễn là nguồn gốc cơ sở
sinh ra lý luận, nến khơng có thực tiễn thì khơng có lý luận, thực tiễn cao hơn
lý luận khơng những ở tính phổ biến mà cịn ở tính hiện thực trực tiếp.

3


Sự phản ánh vượt trước của lý luận qua nỗ lực sáng tạo của những thiên
tài ở những giai đoạn lịch sử nhất định xét cho đến cùng thì cái làm nên sự
vượt trước ấy cũng đã được nảy mầm từ mảnh đất thực tiễn sinh động, đều
do thực tiễn gợi ý mách bảo
Chỉ có thơng qua thực tiễn con người mới vật chất hóa dược lý luận vào
đời sống hiện thực. Lý luận khơng có sức mạnh tự thân mà chỉ có thơng qua
thực tiễn thì lý luận mới phát huy tác dụng, mới tham gia vào quá trình biến
đổi hiện thực.
Đánh giá vai trò của thực tiễn đối với lý luận, Lênin viết: "Thực tiễn
cao hơn nhận thức, lý luận. Vì nó có ưu điểm khơng những của tính phổ biến
mà cịn của tính hiện thực trực tiếp".
 Vai trò tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn:
Lý luận có thể thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu đó là lý
luận khoa học và ngược lại có thể kìm hãm sự phát triển của thực tiễn nếu đó
là lý luận phản khoa học, phản động, lạc hậu.
Lý luận khoa học sẽ trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Nó

hướng dẫn, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương pháp giúp hoạt
động thực tiễn đi tới thành công. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Khơng có lý
luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi". Lý luận đem lại cho thực tiễn những
tri thức đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách
quan, giúp con người xác định đúng mục tiêu để hành động có hiệu quả hơn,
tránh được những sai lầm, vấp váp.
Lý luận khoa học thâm nhập vào hoạt động của quần chúng tạo nên sức
mạnh vật chất, điều chỉnh hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động của con
người trở nên tự giác, chủ động, tiết kiệm được thời gian, cơng sức, hạn chế
những mị mẫm, tự phát.
Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật hiện
tượng trong tương lai, từ đó chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển. Con
người ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những
4


phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo đúng đắn. Nếu
dự báo không đúng sẽ dẫn đến những sai lầm, hậu quả xấu không thể lường
được trong thực tiễn. Vì thế, chức năng dự báo tương lai là chức năng quan
trọng của lý luận.
Lý luận cách mạng có vai trị to lớn đối với thực tiễn cách mạng. Lênin
cho rằng: "Khơng có lý luận cách mạng thì khơng thể có phong trào cách
mạng". Mác thì nhấn mạnh: "Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng thì nó biến
thành lực lượng vật chất".
Vai trị của lý luận khoa học ngày càng tăng lên, đặc biệt trong giai
đoạn mới của thời đại ngày nay, thời đại của cuộc đấu tranh giai cấp và dân
tộc diễn ra gay go, phức tạp, cùng với sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng
của cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ. Ph. Ăngghen chỉ ra rằng: một
dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao khoa học thì khơng thể khơng có tư duy
lý luận.

Sự lạc hậu, giáo điều về lý luận dẫn đến sự khủng hoảng về lý luận của
chủ nghĩa xã hội trong thời gian qua là một trong những nguyên nhân dẫn đến
sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội nói chung, cụ thể là sự sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trước đây.
 Nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Theo quan điểm mácxít, lý luận và thực tiễn khơng tách rời nhau mà
giữa chúng có sự liên hệ, xâm nhập và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học
Mác - Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý
luận và thực tiễn trong qúa trình hình thành và phát triển của nó. Lý luận Mác
- Lênin là sự khái quát thực tiễn CM và lịch sử xã hội, là sự đúc kết những tri
thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực khác nhau. Sức mạnh
của nó là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội, được kiểm nghiệm, bổ
sung trong thực tiễn. Chính vì vậy mà nó có vai trị cải tạo thế giới chứ không

5


chỉ giải thích thế giới. Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác Lênin nói riêng đã tìm thấy ở giai cấp vơ sản vũ khí vật chất của mình và giai
cấp vơ sản đã tìm thấy ở triết học Mác - Lênin vũ khí tinh thần của mình.
Lênin từng nhắc nhở những người cộng sản ở các nước phải biết cụ thể
hóa chủ nghĩa Mác - Lênin cho thích hợp với điều kiện, hồn cảnh từng lúc,
từng nơi. Lý luận cần phải được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra
từ thực tiễn sinh động.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "Thống nhất lý luận với thực tiễn là nguyên
tắc căn bản của triết học Mác - Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn
thì thành thực tiễn mù qng. Lý luận mà khơng liên hệ với thực tiễn là lý
luận sng" hoặc "Có kinh nghiệm mà khơng có lý luận cũng như một mắt
sáng một mắt mờ".

1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý
nghĩa rất quan trọng, giúp chúng ta tránh được bệnh kinh nghiệm cũng như
bệnh giáo điều và rút ra được những quan điểm đúng đắn trong nhận thức và
cuộc sống.
Trước hết, cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu
cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, sâu
sát thực tiễn, tổ chức hoạt động thực tiễn để triển khai lý luận, phải coi trọng
công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung phát triển lý luận. Việc nghiên cứu lý
luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đơi với hành, tránh tình trạng quan liêu,
bàn giữaấy, sách vở, xa rời thực tiễn.
Đồng thời cần phải phát huy vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Phát
huy vai trò của lý luận yêu cầu phải nâng cao trình độ tư duy lý luận, đổi mới
phương pháp tư duy cho toàn Đảng, toàn dân nghĩa là chuyển từ tư duy kinh
nghiệm sang tư duy lý luận, từ tư duy siêu hình, duy tâm sang tư duy biện
chứng duy vật; đổi mới công tác lý luận, hướng công tác lý luận vào những
vấn đề do cuộc sống đặt ra, làm rõ những căn cứ khách quan của đường lối
chính sách của Đảng.
6


Nếu coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn thì sẽ dẫn đến
sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
+ Bệnh kinh nghiệm: là căn bệnh tuyệt đối hóa kinh nghiệm, nhận thức
và hành động chỉ dựa vào kinh nghiệm, đề cao vai trò thực tiễn, hạ thấp lý
luận, không chịu học hỏi để vương lên, không coi trọng việc tổng kết thực
tiễn để khái quát thành lý luận. Thể hiện ở chỗ tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi
thường lý luận, “chỉ biết tối ngày vùi đầu vào cơng tác sự vụ”, ít đào sâu suy
nghĩ, nhất là đối với những người trình độ văn hố kém, ít quen đọc sách và
suy nghĩ, áp dụng kinh nghiệm một cách thiếu sáng tạo.

+ Bệnh giáo điều: là căn bệnh tuyệt đối hóa lý luận, nhận thức và hành
động chỉ dựa vào lý luận, coi lý luận là "chìa khóa vạn năng" cho tư duy và
hành động, bất chấp điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Thể hiện ở chỗ: coi tri thức
là chân lý tuyệt đối, là cứng nhắc, tách lý luận khỏi thực tiễn, rơi vào bệnh lý
luận sng, khơng biết cụ thể hóa lý luận cách mạng cho thích hợp với điều
kiện, hồn cảnh của từng lúc, từng nơi, không biết bổ sung lý luận mới rút ra
từ trong thực tiễn sinh động và vận dụng một cách máy móc, rập khn, cứng
nhắc, thiếu sáng tạo vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện
thực mà không chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể đối tượng, mang lại hiệu
quả xấu cho hoạt động lý luận và thực tiễn. Xét từ khía cạnh trình độ nhận
thức thì bệnh giáo điều có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận, nhất là
lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Để khắc phục hai căn bệnh trên cần phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát
thực tiễn, thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận, đồng
thời phải coi trọng lý luận, nâng cao trình độ tư duy lý luận. Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu “phải học tập tinh thần chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập lập
trường quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng giải
quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”.
Từ nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giưa lý luận và thực tiễn, Hồ
Chí Minh đã phê phán sai lầm của chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo
7


điều. Khi đặt vấn đề phải học tập lý luận theo Người, học lý luận khơng phải
để thuộc lịng từng câu từng chữ, cũng không phải học lý luận để đem loà
thiên hạ, để kiêu ngạo, để mặc cả với Đảng, để trở thành những người lý luận
suông. Mà mục đích học tập lý luận để tự cải tạo mình, để tránh mị mẫm, để
đỡ phạm sai lầm trong cơng tác, để hoàn thành tốt hơn các nhiệm vụ cách
mạng mà Đảng và nhân dân giao phó. Học tập lý luận là cốt áp dụng vào
thực tế và khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những

lý luận mới sinh ra từ trong thực tiễn.
2. Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay
2.1. Trước đổi mới
Do chưa nhận thức đầy đủ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải
qua nhiều chặng đường, chưa gắn lý luận với thực tế điều kiện, hồn cảnh ở
nước ta nên đã chủ quan, nóng vội, bỏ qua những bước đi cần thiết.
Một trong những sai lầm trong chính sách của Đảng trong thời kỳ trước
đổi mới là xuất phát từ căn bệnh giáo điều, xuất phát từ sự lạc hậu, yếu kém
về lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự yếu kém về lý luận làm cho chúng
ta tiếp thu lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt
xén sơ lược, không đến nơi đến chốn, CNXH được hiểu một cách giản đơn,
ấu trĩ. Trong thời kỳ này, đã có lúc ta bắt chước rập khn mơ hình CNXH ở
Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà nước. Hoặc áp
dụng máy móc theo học thuyết của Mác về kinh tế là phải xóa bỏ tư hữu, do
đó khi áp dụng vào nước ta, Đảng đã có biểu hiện nóng vội trong việc tiến
hành cải tạo XHCN nhằm xóa tất cả các thành phần kinh tế mà khơng thấy
được vai trị quan trọng của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta. Đảng ta cũng vấp phải những sai lầm trong việc đề ra chủ
trương, đường lối, chính sách phát triển đất nước: Chủ trương tập trung cho
công nghiệp hóa đất nước mà chủ lực là phát triển cơng nghiệp nặng mà
8


không chú ý đến điều kiện vật chất và lực lượng sản xuất của ta còn chưa
tương xứng, với xuất phát điểm còn rất thấp từ một nền kinh tế lạc hậu, sản
xuất nơng nghiệp là chính, trình độ lực lượng sản xuất không cao, sản xuất
thủ công là chủ yếu. Có thể nói việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là sản xuất
và đầu tư, chúng ta thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, khơng

tính đến điều kiện khả năng thực tế. Sự nhận thức giản đơn, yếu kém trong
việc vận dụng xơ cứng lý luận vào trong còn thể hiện ở việc hiểu và vận dụng
chưa đúng các quy luật khách quan đang tác động trong thời kỳ quá độ ở
nước ta (quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, các quy luật sản xuất hàng hoá, quy luật
thị trường...), quá nhấn mạnh một chiều vai trò của quan hệ sản xuất, của chế
độ công hữu, chế độ phân phối bình qn, khơng thấy đầy đủ u cầu phát
triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ.
Mặt khác, duy trì q lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, quá
tập trung quyền lực nhà nước, dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ
nền kinh tế đất nước, bao cấp trong phân phối ... làm cản trở sự sáng tạo, tạo
nên sự bảo thủ trì trệ của đời sống xã hội. Cũng trong thời kỳ này chúng ta
đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, coi nhẹ những giá trị,
những thành tựu mà nhân loại đạt được trong chủ nghĩa tư bản; muốn nhanh
chóng xố bỏ sản xuất hàng hố, xố bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xem kinh tế thị trường, sản
xuất hàng hóa đối lập với CNXH là do căn cứ một cách cứng nhắc vào luận
điểm của Mác và Ăngghen rằng chủ nghĩa cộng sản là xóa bỏ buôn bán;
cùng với việc xã hội nắm lấy những tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hóa
cũng bị loại trừ và do đó sự thống trị của hàng hóa đối với những người sản
xuất cũng bị loại trừ. Thực ra những luận điểm của CácMác và Ăngghen chỉ
là những dự đoán về giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa cộng sản chứ
khơng phải nói về giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản : giai đoạn chủ nghĩa
xã hội. Ngược lại, trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội, Mác đã nhấn mạnh : đó
9


là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, vì vậy về mọi phương
diện kinh tế, đạo đức, tinh thần nó vẫn cịn mang những dấu vết của xã hội
cũ, nói cách khác, hệ thống kinh tế - xã hội của CNXH còn mang nhiều dấu

ấn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Như vậy, làm sao xóa ngay
được cái “dấu vết” đặc trưng của chủ nghĩa tư bản là kinh tế hàng hóa cũng
như khơng thể xóa bỏ chế độ tư hữu ngay lập tức mà chỉ có thể cải tạo xã hội
hiện nay một cách dần dần.
Hậu quả của những sai lầm xuất phát sự nhận thức yếu kém về lý luận
và xa rời thực tiễn đã làm cho đường lối chính sách của Đảng ta đề ra khơng
phù hợp với thực tiễn nên đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã
hội : Nnhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân (ăn,
mặc, ở) vẫn chưa được giải quyết đầy đủ; đất nước chưa có những thay đổi
sâu sắc và triệt để trong phương thức phát triển; tình trạng mất cân đối trong
nền kinh tế ngày càng trầm trọng; nhiệt tình lao động và năng lực sáng tạo của
nhân dân, tài nguyên và các nguồn lực chưa được khai thác, phát huy đầy đủ,
thậm chí bị xói mịn. Nhìn tổng qt, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền
kinh tế Việt Nam vận động thiếu năng động và kém hiệu quả. Những mất cân
đối và nguy cơ bất ổn định tiềm tàng trong đời sống kinh tế - xã hội bị tích
nén lại Tình trạng thiếu hụt kinh niên làm gia tăng các căng thẳng trong đời
sống xã hội. Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự
điều hành của Nhà nước giảm sút. Trên thực tế, đến cuối những năm 70, đất
nước đã thực sự lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Vấn đề cấp bách
đặt ra cho Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam lúc này là tìm kiếm cách
thức phát triển mới có khả năng đáp ứng các mục tiêu của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trong đó quan trọng nhất là phải tháo gỡ các ràng buộc về
cơ chế và thể chế để giải phóng các nguồn lực phát triển của đất nước.
Đại hội IV chưa xác định được những mục tiêu của chặng đường đầu
tiên. Cụ thể là trong 5 năm 1976 - 1980, đảng ta chủ trương đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, chậm đổi mới cơ chế
10


quản lý kinh tế, cụ thể là đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây

dựng cơ bản và phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục
và sắp xếp lại nền kinh tế, chỉ thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những
công trình quy mơ lớn, khơng tập trung sức giải quyết căn bản vấn đề lương
thực, thực phẩm, phát triển hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Đại hội V đã cụ thể hóa một bước đường lối kinh tế trong chặng đường
trước mắt, đề ra những mục tiêu tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế, xã
hội nhưng trong chỉ đạo thực hiện đã không quán triệt đầy đủ các quy luật
khách quan, chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội chủ quan và bảo
thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ
nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế. Cụ thể là đã chưa thật sự coi trọng phát triển
nông nghiệp, coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách đối với cơng nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp. Về xây dựng cơ
bản, vẫn thiên về xây dựng các cơng trình quy mô lớn nhưng chưa thật cấp
bách, kém hiệu quả dẫn đến sự phân tán về tiền vốn và vật tư.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi đôi với việc ra sức xây dựng
những cơ sở và lực lượng kinh tế mới, phải rất coi trọng cải tạo và sử dụng tốt
các cơ sở và lực lượng kinh tế sẵn có bằng những hình thức và bước đi thích
hợp. Nhưng chúng ta chưa xác định rõ ràng, nhất quán những quan điểm, chủ
trương chính sách chỉ đạo cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, đã có những
biều hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế tư bản tư nhân,
nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh. Đối với kinh tế
tiểu sản xuất hàng hóa, ít chú ý đến những đặc điểm. tính chất của từng
ngành, từng nghề, khơng tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý
và năng lực cán bộ, có xu hướng muốn tổ chức ngay các hợp tác xã quy mô
lớn. Nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không
coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối.
Cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trong phát triển kinh tế cịn nặng
nề, chưa bị xóa bỏ. Chậm đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, thiếu hiểu biết
và ít kinh nghiệm quản lý nhưng lại chưa chú trọng tổng kết kinh nghiệm.
11



Đại hội VI đã thẳng thắn thừa nhận "những sai lầm và khuyết điểm
trong lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt
động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân
của mọi nguyên nhân". Xét đến cùng, những sai lầm trên đây của Đảng ta xuất
phát từ việc chưa quán triệt đầy đủ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với
thực tiễn.
2.2. Thời kỳ đổi mới
Nhận thức được những sai lầm trên, từ ĐH Đảng lần VI (1986), Đảng
đã khởi xướng cơng cuộc đổi mới tồn diện tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, trong đó có mọi phương hướng đổi mới phải xuất phát từ thực tiễn như
Văn kiện Đại hội VI của Đảng đã xác định “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ
thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”. Đại hội VI đã rút
ra bốn bài học kinh nghiệm trong đó bài học thứ hai là "Đảng phải ln luôn
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng
lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng". Thực tế đất nước sau 10 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt
được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Đất nước ta từ mức thiếu
lương thực, phải nhập khẩu lương thực hơn 45 vạn tấn vào năm 1988, nhờ đổi
mới phát triển nơng nghiệp mà từ năm 1989 trở đi đã có đủ lương thực tiêu
dùng trong nước và có một phần xuất khẩu mỗi năm 1 - 1,5 triệu tấn gạo.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thanh phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước từng bước được hình thành.
Đại Hội Đảng lần IX cũng đã nhấn mạnh “Tiến hành đổi mới xuất
phát từ thực tiễn và cuộc sống xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt
của thế giới, không sao chép bất cứ một mơ hình có sẵn nào…”..
Những nhận định trên của Đảng chính là sự tiếp thu và vận dụng đúng
đắn quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng XHCN phải lấy thực tế làm
điểm xuất phát để xác định phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ của cách

mạng, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn để xác định chủ trương,
12


chính sách. Theo quan điểm của người, việc học tập và vận dụng kinh nghiệm
tốt, những mơ hình hiệu quả trong công cuộc xây dựng đất nước của các nước
XHCN trên thế giới giúp chúng ta đỡ mò mẫm, đỡ phạm những sai lầm của
người đi trước. Nói cách khác, những tìm kiếm, phát triển lý luận về CNXH,
con đường và các giải pháp xây dựng CNXH ở mỗi nước có thể là kinh
nghiệm tham khảo chứ khơng thể áp dụng máy móc, rập khn. Xuất phát từ
thực tế nước ta và quy luật về quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ trong giai đoạn quá độ đi lên CNXH, sự tồn tại của nhiều
thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau là tất yếu, do đó cần
phải duy trì nhiều hình thức quản lý, phân phối khác nhau. Theo Người, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa không có nghĩa là vứt bỏ mọi thành tựu văn hố,
văn minh mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản; những thành tựu
đó cần được tiếp thu, khai thác vì sự thành cơng của cơng cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Cũng phải thấy rằng bước đầu công cuộc đổi mới, trên thế giới cũng
diễn ra nhiều biến đổi quan trọng. Những biến đổi ấy vừa có ảnh hưởng tới
Việt Nam, vừa gợi ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn mà Việt Nam có
thể tham khảo với các mức độ khác nhau để lựa chọn con đường phát triển.
Xuất phát từ đặc điểm đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng đã nêu : chúng ta phải
tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và
trí tuệ của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tịi bước
đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng làm một xã hội: do nhân
dân lao động làm chủ, có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền

văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi
áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân, các
13


dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Sáu
đặc trưng nêu trên thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta sẽ xây dựng.
Đại hội IX tiếp tục khẳng định "Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi
ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, ln luôn sáng tạo. Tiến hành đổi
mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham khảo kinh
nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mơ hình sẵn có nào; đổi
mới tồn diện, đồng bộ và triệt để với những bước đi, hình thức và cách làm
phù hợp. Có những điều chỉnh, bổ sung và phát triển cần thiết về chủ trương,
phương pháp, biện pháp; tìm và lựa chọn những giải pháp mới, linh hoạt,
sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì trệ,
làm chuyển biến tình hình".
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa MácLênin, tổng kết kinh nghiệm thành công và cả kinh nghiệm chưa thành công
trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và các nước khác, đặc
biệt là những kinh nghiệm của những năm đổi mới, Đảng ta đã nêu ra những
phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, gồm:
Một là, "xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nguyên kỷ cương xã hội, chuyên
chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích Tổ quốc và của nhân dân".
Hai là, "phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là

nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân".

14


Ba là, "phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng
bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu".
Bốn là, "tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng
và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì
lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể
lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài
người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội".
Năm là, "thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở
rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hồ bình, hợp
tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai
cấp cơng nhân, đồn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực
lượng đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới".

Sáu là, "xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc
phịng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các
thành quả cách mạng".

15


Bảy là, "xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta"
Hiện nay, công cuộc đổi mới ở nước ta càng đi vào chiều sâu, những
biến đổi trên thế giới nhanh chóng, phức tạp, khó lường thì những vấn đề mới
đặt ra ngày càng nhiều, trong đó có những vấn đề liên quan đến nhận thức về
CNXH và con đường xây dựng CNXH. Khơng ít vấn đề về nhận thức lý luận
cịn chưa đủ rõ; khơng ít vấn đề về thực tiễn, nhất là những vấn đề bức xúc
nảy sinh từ cuộc sống, chưa được giải quyết kịp thời và tốt nhất.
Trên cơ sở đó Văn kiện Đại hội IX tiếp tục chỉ rõ : “Đẩy mạnh tổng kết
thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận
những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn; từng bước cụ thể hóa, bổ
sung phát triển đường lối, chính sách của Đảng, đấu tranh với khuynh
hướng, tư tưởng sai trái”. Chỉ có như vậy con đường đến CNXH của chúng
ta mới giảm bớt gập ghềnh, quanh co.
Thực tiễn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn:
đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi toàn diện
và cơ bản, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, hệ thống chính trị và khối
đại địan kết tồn dân tộc được củng cố và tăng cường, giữ vững an ninh,
quốc phòng, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Những
thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo,

phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Sau gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đó, có thể nói rằng mỗi
Đại hội Đảng là một dịp để Đảng và Nhà nước ta tổng kết thực tiễn, nâng tầm
lý luận, làm căn cứ cho việc hoạch định đường lối, chính sách phù hợp cho
từng giai đoạn. Những thành tựu tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận đã
cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách
của Đảng; góp phần vào những thành công rất to lớn của Đảng và nhân dân ta
trong công cuộc đổi mới, tạo thế và lực mới cho đất nước.
16


Đại hội X tiếp tục khẳng định: "đổi mới không phải xa rời mà là nhận
thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho
hành động cách mạng", "phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực
tiễn", "đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò
chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái
mới".
Lý luận đổi mới ở nước ta ngày càng có vai trị quan trọng trong việc
tác động trở lại thực tiễn. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh trở thành cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối chính sách
của Đảng, cho việc quản lý của nhà nước. Đại hội X đã chỉ ra: "Thường xuyên
tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, dự báo tình hình và xu thế phát triển
của thế giới, khu vực và trong nước, cung cấp luận cứ khoa học cho việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước".
Tuy nhiên công tác lý luận ở nước ta hiện nay cịn nhiều bất cập. Lý
luận vẫn cịn tình trạng tách rời thực tiễn, chưa sâu sắc và nhạy cảm để phát
hiện những mâu thuẫn và tình huống có vấn đề trong q trình đổi mới. Chính
vì vậy, chưa bao giờ lý luận lại cần thiết và có tầm quan trọng như hiện nay.
Đại hội X đã đưa ra những phương hướng, giải pháp để phát triển lý luận, đó

là: "phát hiện, ủng hộ và nhân rộng những nhân tố mới, qua thực tiễn làm
sáng tỏ

17


KẾT LUẬN
Nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn có thể thấy
rõ phải coi trọng lý luận nhưng khơng được cường điệu vai trị của lý luận coi
thường thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động cách mạng. Cội
nguồn của những đột phá tạo ra những bước tiến vượt bật của xã hội lồi
người có sự đóng góp của lý luận đích thực. Tuy nhiên, lý luận phải gắn với
thực tiễn, phải được kiểm tra, đúc kết, khái quát từ thực tiễn thông qua việc
tổng kết thực tiễn. Trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta khi đất nước
nảy sinh những vấn đề cần được giải đáp về mặt lý luận, Đảng ta đã đứng trên
quan điểm, phương pháp luận của CN Mác - Lênin và TT HCM để xem xét.
Hàng lọat các vấn đề từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... không thể giải
quyết chỉ bằng lý luận mà địi hỏi Đảng ta phải thực hiện thơng qua thực tiễn,
tổng kết thực tiễn, chỉ có như vậy cơng cuộc xây dựng CNXH của ta mới
giảm bớt chông gai, gập ghềnh. Trên đây là bài làm của em về vấn đề trên, do
kiến thức hạn hẹp, tài liệu tham khảo chưa nhiều nên rất mong nhận được sự
nhận xét của thầy cô giáo.

18



×