Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

2 quan điếm hồ chí minh về nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng vào xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.47 KB, 27 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài:
QUAN ĐIẾM HỒ CHÍ MINH VỀ NGUN TẮC ĐẠI ĐỒN KẾT
DÂN TỘC VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN
KẾT DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................3
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN
KẾT DÂN TỘC............................................................................3
1.1. Khái niệm về đại đoàn kết dân tộc............................................................3
1.2. Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.................4
1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành cơng của
cách mạng.........................................................................................................4
1.2.2. Đồn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng......6
1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.....................................7
1.2.4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là
Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.................................8
Chương 2. NGUYÊN TẮC ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ SỰ VẬN
DỤNG VÀO XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY............................................................9
2.1. Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh..................9
2.2. Vận dụng nguyên tắc đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh vào xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay.......................................18
KẾT LUẬN....................................................................................................24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................25



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý
báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại
sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi
sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” 1.
Từ thực tiễn lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định đồn kết là một
trong các truyền thống quí báu của dân tộc ta đã được hun đúc trên nền tảng
lòng yêu nước nồng nàn của các thế hệ người Việt Nam.
Trong thời kỳ cách mạng Việt Nam thành công, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì sự đồn kết thống nhất trong các tổ
chức, giữa các tổ chức và mọi tổ chức với nhân dân trong khối đại đoàn kết
thống nhất được nâng lên một tầm cao mới. Và nó cũng được đảm bảo bằng
một nguyên tắc đoàn kết rất chặt chẽ. Trên cơ sở tiếp thu Chủ nghĩa Mác –
Lênin về con đường cách mạng Việt Nam.
Với tinh thần nhân văn cao cả và nhãn quan chính trị sắc bén, suốt cả
cuộc đời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơng ngừng xây dựng, hồn thiện một hệ
thống quan điểm về đại đồn kết tồn dân tộc, tích cực truyền bá tư tưởng
đồn kết trong tồn Đảng, các cấp chính quyền, trong các tầng lớp nhân dân.
Đó là một trong những nhân tố quan trọng trong vai trò lãnh đạo của Đảng, nó
quyết định sự tồn tại của một Đảng chính trị chân chính, cách mạng. Đặc biệt
với vai trị lãnh đạo xuyên suốt của Đảng cộng sản Việt Nam trong đấu tranh
dành độc lập cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ngày
nay đã khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa đoàn kết và thành công. Hơn thế
nữa, phạm vi, mức độ, quy mô của thành cơng trước hết phụ thuộc vào chính
quy mơ và mức độ của khối đại đồn kết. Có đồn kết mới có thắng lợi, càng
gặp kẻ thù lớn, càng khó khăn gian khổ bao nhiêu lại cần phải đồn kết chặt
chẽ, rộng rãi và vững chắc bấy nhiêu.
1


Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, tr. 38.

1


Kế thừa truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc của ông cha trong lịch
sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước – một di sản tinh thần cực kỳ quý
báu của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln khẳng định “Đồn
kết là vấn đề sống cịn”, “Khơng đồn kết thì suy và mất. Có đồn kết thì
thịnh và cịn. Chúng ta phải lấy đồn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân
tộc và bảo vệ nước nhà” 2.
Bảo vệ Tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng ta
cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị và tầm quan trọng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với thực hiện Chỉ thị số 05CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh” và chuyên đề năm 2020 về “Tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Chính
vì vậy em đã chọn vấn đề “Quan điếm Hồ Chí Minh về nguyên tắc đại
đoàn kết dân tộc và sự vận dụng vào xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở
nước ta hiện nay.” làm đề tài tiểu luận cho mơn học của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Ngun tắc đại đồn kết dân tộc theo quan điểm của Hồ Chí Minh và
vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay
3. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng nhiều phương pháp nhưng chủ yếu là phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác – Lênin, phương pháp lịch sử, phân tích và xử lý thơng tin.
4. Kết cấu tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, tiểu luận được
trình bày trong 2 chương và 5 tiết.


2

Hồ Chí Minh tồn tập, H.2011, Tập 6, tr.55

2


NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT
DÂN TỘC
1.1. Khái niệm về đại đồn kết dân tộc
Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống
cực kì quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn,
một triết lý nhân sinh và hành động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố,
thăng trầm của thiên tai, địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững. Trên cơ
sở thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng thế giới đã sớm
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.
Với nhãn quan chính trị sắc bén, với tinh thần nhân văn cao cả, suốt cả
cuộc đời, Hồ Chí Minh đã khơng ngừng xây dựng, hoàn thiện một hệ thống
quan điểm về đại đồn kết dân tộc, tích cực truyền bá tư tưởng đồn kết
trong tồn Đảng và các cấp chính quyền, trong các tầng lớp nhân dân, kể cả
đồng bào Việt Nam ở xa Tổ quốc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận quan
trọng hợp thành trong hệ thống tư tưởng của Người về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu tồn bộ di cảo của Người có thể nhận
thấy cụm từ “đoàn kết” được Người nhắc tới hơn hai ngàn lần và cụm từ
“đại đoàn kết” được Người nhắc tới hơn tám mươi lần, điều đó nói lên sự
quan tâm đối với vấn đề đoàn kết ở mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh của lịch

sử, đồng thời tỏ rõ tầm chiến lược tư tưởng đoàn kết của Người. Đoàn kết có
thể hiểu một cách đơn giản là sự tập hợp, kết thành một khối thống nhất,
cùng hoạt động vì một mục đích chung nào đó. Cịn đại đồn kết là đoàn kết
rộng rãi tức muốn nhấn mạnh tới thành phần, quy mơ, lực lượng của khối
đồn kết.
3


Hồ Chí Minh nói nhiều tới đồn kết, đại đồn kết, tuy nhiên chỉ một
lần duy nhất Người định nghĩa về khái niệm đại đoàn kết: “Đại đoàn kết tức
là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công
nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của
đại đồn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có
nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác”. Tư tưởng
về đại đoàn kết tiếp tục được Hồ Chí Minh cụ thể hóa hơn trong các cụm từ
như: “đại đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết dân tộc”, “toàn
dân tộc ta đoàn kết”. Tuy cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng nội hàm của
các khái niệm trên đều thống nhất khi khẳng định lực lượng của khối đại
đoàn kết là của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Như vậy, đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đại đồn
kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất
nước, đoàn kết mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống
trong nước hay định cư ở nước ngoài thành một khối vững chắc trên cơ sở
thống nhất về mục tiêu chung và những lợi ích căn bản.
1.2.Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
Tư tưởng đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những
luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức cách mạng
và tiến bộ, nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội. Nói một cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng

cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người.

1.2.1. Đại đồn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành
công của cách mạng
Với Hồ Chí Minh, đồn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
nhân dân ta. Người cho rằng: Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân
dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng cách mạng vô sản.
4


Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải
điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với
những đối tượng khác nhau, nhưng đại đồn kết dân tộc ln ln được
Người coi là vấn đề sống cịn của cách mạng.
- Đồn kết khơng phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ
bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. - Đồn kết quyết
định thành cơng cách mạng. Vì đồn kết tạo nên sức mạnh, là then chốt của
thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực lượng đủ mạnh,
muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất. Giữa
đồn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui mơ của đồn kết quyết
định quy mơ,mức độ của thành cơng.
- Đồn kết phải ln được nhận thức là vấn đề sống cịn của cách
mạng.
Tại sao Đế quốc Pháp có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến tranh
hiện đại lại phải thua một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm
lược? Đó là vì đồng bào Việt Nam đã đồn kết như Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định:
“Tồn dân Việt Nam chỉ có một lịng: Quyết khơng làm nơ lệ. Chỉ có
một chí: Quyết khơng chịu mất nước. Chỉ có một mục đích: Quyết kháng

chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng
bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc. Dù
địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng
cũng phải thất bại”.
Chính sức mạnh của lực lượng tồn dân đồn kết làm nên thắng lợi của
Cách Mạng Tháng Tám. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích:
“ Vì sao có cuộc thắng lợi đó?
Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng
của toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các
tôn giáo đều nổi dậy theo là cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ
5


quốc.Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Khơng ai thắng được lực
lượng đó”.
Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận:
“Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết mn người như
một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta khơng đồn kết thì bị
nước ngoài xâm lấn”.

1.2.2. Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng
Hồ Chí Minh cho rằng “ Đại đồn kết dân tộc khơng chỉ là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả
dân tộc”. Bởi vì, đại đồn kết dân tộc chính là nhiệm vụ của quần chúng, do
quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết
quần chúng tạo thành sức mạnh vơ địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho
dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.Đại đoàn kết dân tộc là
truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân Việt Nam trong suốt tiến trình lịch
sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Kế thừa truyền thống quý báu đó,

trong hệ thống tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng đại đoàn kết
toàn dân tộc là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của Người.
Về vai trị của đại đồn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đại
đồn kết tồn dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề
sống cịn, quyết định thành cơng của cách mạng. Đoàn kết làm nên sức mạnh
và là cội nguồn của mọi thành cơng: “Đồn kết là một lực lượng vơ địch của
chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi."
Để đánh bại các thế lực đế quốc, thực dân giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu chỉ có tinh thần yêu nước thôi là
chưa đủ, cách mạng muốn thành công và “thành công đến nơi," phải tập hợp
tất cả các lực lượng, xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững.

6


Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân
dân ta cuối thế kỷ 19 bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước khơng
đồn kết được thành một khối thống nhất. Muốn cách mạng thành cơng phải
có lực lượng cách mạng, muốn có lực lượng cách mạng phải thực hiện đồn
kết.
Bác viết: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì
chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và
làm trọn nhiệm vụ nhân dân giao phó cho chúng ta."
Khơng dừng lại ở việc xác định đại đoàn kết là mục tiêu, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cịn khẳng định nhiệm vụ của tồn Đảng là giữ gìn sự đồn kết.
Trong Di chúc, Bác dặn lại rằng "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý
báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần
phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình."

Như vậy, trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân
tộc được xác định là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán
triệt trong tất cả các lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách đến hoạt
động thực tiễn.

1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đồn kết tồn dân
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng
cháu tiên, không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người khơng
tín ngưỡng, khơng phân biệt già trẻ , gái, trai, giàu, nghèo. Nói dến đại đồn
kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong
cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nói rõ: “ ta đoàn kết để đấu tranh
cho thống nhất và độc lập tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước
nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lịng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân
thì ta đồn kết với họ”.
Muốn thực hiện đại đồn kết tồn dân thì phải kế thừa truyền thống u
nước- nhân nghĩa- đồn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ
7


lượng với con người. Xác định khối đại đoàn kết là liên minh cơng nơng, trí
thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Người cho
rằng: liên minh cơng nơng- lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết
toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đồn kết dân tộc càng
được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại
đồn kết dân tộc.

1.2.4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ
chức là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc:
- Trên nền tảng liên minh công nông (trong xây dựng chế độ xã hội mới

có thêm lao động trí óc) dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc
thống nhất lợi ích của tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không
ngừng mở rộng.
- Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác
nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” – Lấy cái chung, đề cao cái
chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt

8


Chương 2
NGUYÊN TẮC ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO
XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
2.1. Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong bài Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt tồn
quốc, tháng 1-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước
hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân,
nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đồn
kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc
tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác”. Vì vậy, khối đại đoàn kết
toàn dân tộc xây dựng dựa trên nguyên tắc lấy lập trường giai cấp công nhân
để giải quyết hài hòa các mối quan hệ giai cấp - dân tộc.
Thứ nhất, tin vào dân, dựa vào dân vì lợi ích của dân để đoàn kết toàn
dân, phát động các phong trào thi đua yêu nước trong lao động, học tập, sản
xuất và chiến đấu, bởi vì: “Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn
kết của nhân dân”. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất
Việt, con rồng cháu tiên, không phân biệt dân tộc đa số với dân tộc thiểu số,

người tín ngưỡng với người khơng tín ngưỡng, khơng phân biệt già trẻ, gái,
trai, giàu, nghèo. Nói đến đại đồn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp
mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Muốn thực hiện đại
đoàn kết tồn dân thì phải kế thừa truyền thống u nước- nhân nghĩa- đồn
kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Xác
định khối đại đồn kết là liên minh cơng nơng, trí thức. Tin vào dân, dựa vào
dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Người cho rằng: liên minh công nông- lao
động trí óc làm nền tảng cho khối đại đồn kết tồn dân, nền tảng được củng
cố vững chắc thì khối đại đồn kết dân tộc càng được mở rộng, khơng e ngại
bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
9


Thứ hai, đồn kết tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, lâu dài, rộng rãi và
chặt chẽ. Nhân dân cần được vận động, giác ngộ, tự nguyện đứng trong Mặt
trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng để “Đồn kết của ta khơng
những rộng rãi mà cịn đồn kết lâu dài. Đồn kết là một chính sách dân tộc,
khơng phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất
và độc lập của Tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng nhiều lần nói: “Ai có tài, có đức, có sức, có lịng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”. Muốn đồn
kết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ chức dân
chúng, ngồi thì liên minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi
nơi. Như vậy, để đoàn kết và lãnh đạo cách mạng, điều kiện tiên quyết là phải
có một Đảng cách mạng với tính cách là Bộ tham mưu, là hạt nhân để tập hợp
quần chúng trong nước và tổ chức, giữ mối liên hệ với bè bạn ở ngoài nước.
Đảng cách mạng muốn thống nhất về chính trị và tư tưởng, đảm bảo được vai
trị đó, thì phải giữ vững bản chất của giai cấp công nhân, phải được vũ trang
bằng chủ nghĩa chân chính, khoa học và cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác –
Lênin: ”Để làm trọn trách nhiệm người lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải dựa

vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông làm nền tảng vững chắc để
đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân dân. Có như thế mới phát triển và củng
cố được lực lượng cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng”.
Tuân thủ và vận dụng những nguyên tắc có tổ chức sinh hoạt của một
đảng chân chính cách mạng theo Chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong việc xây
dựng tổ chức Đảng ở Việt Nam. Trong suốt thời gian cầm quyền lãnh đạo
cách mạng giành chính quyền và thời kỳ Đảng cầm quyền. Hồ Chí Minh chú
ý đến các vấn đề đồn kết mang tính tự giác trong tổ chức, nhất là trong công
việc, từng cán bộ, đảng viên trong các cơ quan tổ chức của Đảng, Nhà nước
và các đoàn thể phải nghiêm chỉnh chấp hành với tinh thần tự giác, nhưng
phải có tính tổ chức kỷ luật chặt chẽ. Xuất phát từ những nguyên tắc về xây
dựng tổ chức của Chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng các tổ chức, đặc biệt là
10


xây dựng tổ chức Đảng để thực hiện vai trò lãnh đạo tập hợp khối đại đồn
kết dân tộc thì Hồ Chí Minh rất chú ý và quan tâm. Tuy nhiên tuỳ hoàn cảnh
và điều kiện của mỗi quốc gia và điều kiện cụ thể mà Hồ Chí Minh đã vận
dụng và phát huy một cách sáng tạo vào hoàn cảnh và điều kiện của Việt
Nam. Nhằm để phát huy tinh thần chủ động tích cực sáng tạo của tất cả cán
bộ, đảng viên và sức mạnh của nhân dân trên tinh thần cả nước đồng lịng
đồng tâm.
“Dân ta có một chữ đồng
Đồng tâm, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh tự giác khơng có nghĩa là tự giác vơ tổ
chức, tự theo ý mình làm, tự giác theo Người là nhằm phát huy trí tuệ của toàn
bộ con người Việt Nam, khi đã vào tổ chức thì tinh thần ấy vẫn được phát huy
với dân chủ cao độ, nhưng phải có tổ chức, có kỷ cương, kỷ luật. Đối với
Người, kỷ luật trong tổ chức là rất quan trọng nhưng không phải bắt buộc mà là
mang tính tự nguyện, như trong tổ chức đảng kỷ luật từ tính chất của Đảng là

tổ chức tự nguyện nên: “kỷ luật này là do lòng tự giác của Đảng viên về nhiệm
vụ của họ đối với đảng”3, “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ
luật chẳng những kỷ luật của Đảng mà cả kỷ luật của các đồn thể nhân dân
và của cơ quan chính quyền cách mạng”4. Có như vậy mới đảm bảo “tư tưởng
thống nhất, hành động thống nhất”. Nếu khơng có tư tưởng thống nhất, hành
động thống nhất thì ý chí sẽ lung lay, kỷ luật trở nên lỏng lẻo, sự đoàn kết bị
buông lỏng dẫn đến sức mạnh tất nhiên sẽ yếu. Vì vậy trong cơng tác tổ chức
thì chúng ta nên tơn trọng ngun tắc, đưa ra ngồi những kẻ phản bội, hủ bại,
những kẻ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, công thần, thiếu trách nhiệm... làm trái
tiêu chuẩn, phẩm chất của người cán bộ nói chung và của đảng viên.
Ngun tắc tổ chức của Hồ Chí Minh khơng tập trung vào trong việc
xây dựng đảng, mà nó cịn mang tính rộng rãi vì trong tư tưởng của người
ln quan tâm đến vấn đề đoàn kết là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt
3
4

Sđd, Tập 5, tr 250
Sđd, Tập 6, tr 167

11


nam. Ngồi tổ chức Đảng thì các đồn thể là tổ chức gần dân nhất và dể tập
hợp nhân dân nhất, ln nắm bắt những thơng tin một cách chính xác từ
nhân dân. Nên việc đoàn kết dân tộc trong mặt trận thống nhất dưới sự lãnh
đạo của đảng là vấn đề chiến lược của cách mạng vì nhằm mục đích để phục
vụ cho nhân dân, cho Tổ quốc. Ở nước ta gồm 54 dân tộc anh em cùng nhau
làm ăn sinh sống từ lâu đời, việc xây dựng, duy trì, củng cố khối đại đồn kết
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ góp phần giải quyết tốt mối quan hệ giữa
các dân tộc: “Phải đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong Đảng và ngoài Đảng,

đoàn kết lương giáo, v.v... Đoàn kết chặt chẽ để thi đua tăng gia sản xuất và
thực hành tiết kiệm, thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội.”5
Trong tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh ln xuất phát từ tinh thần
tự giác, nhưng phải phát huy được tính dân chủ. Vì khi có dân chủ thì mới
đảm bảo cho tính tự giác phát huy đến cao độ. Dân chủ phải mang tính tổ
chức, khơng dân chủ q trớn, khi đó trở thành một câu lạc bộ cãi vả. Do
vậy theo Hồ Chí Minh dân chủ phải trên cơ sở tập trung, thống nhất của tổ
chức. Dân chủ là đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung chứ không phải dân
chủ phân tán, vô tổ chức. Tập trung là tập trung trên cơ sở dân chủ, không
phải là tập trung theo kiểu quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, “mọi việc đều
bàn bạc một cách dân chủ và tập thể, khi đã quyết định rồi, thì phân phối
cơng tác phải rạch rịi, giao cho một hoặc mấy đồng chí phụ trách làm đến
nơi đến chốn.”6
Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực
lượng xã hội có định hướng, tổ chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt mang
tính nguyên tắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đại đồn kết dân tộc
với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền
bối và một số lãnh tụ cách mạng trong khu vực và trên thế giới. Đi vào quần
chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết quần chúng vào cuộc đấu tranh tự giải
phóng mình là mục tiêu nhất qn của Hồ Chí Minh
5
6

Hồ Chí Minh tồn tập NXBCTQG, H.2000, tập 9, tr.530.
Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, HN 1996, tập 10, tr 36

12


Thứ ba, đoàn kết gắn với đấu tranh, tự phê bình và phê bình trên cơ sở

hiệp thương, dân chủ, chân thành, thẳng thắn, thân ái. Vì “Đồn kết thực sự
nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đồn kết thực
sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình
những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”.
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm
tương đồng cịn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con đường
đối thoại, bàn bạc để đi đến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn
có những tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt Hồ
Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”; mặt khác, Người nêu
rõ: Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết và căn
dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đồn kết xi chiều, nêu cao tinh
thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục những mặt
chưa tốt, củng cố đồn kết.
Hồ Chí Minh khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của tồn dân, khơng
phải việc của một hai người. Người cho rằng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, nhân dân Việt Nam đấu tranh và đổ máu đã nhiều nhưng chưa giành
được độc lập vì tồn dân chưa đồn kết thành một khối. Muốn cách mạng
thành cơng, dân tộc được độc lập, nhân dân được tự do, hạnh phúc cần phải
giác ngộ, tổ chức đoàn kết toàn dân trong một mặt trận thống nhất. Từ
truyền thống và thực tiễn đấu tranh của dân tộc ta, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Sử ta dạy cho ta bài học này: lúc nào dân ta biết đồn kết mn người như
một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta khơng đồn kết thì bị
nước ngồi xâm lấn”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Dưới ách thống trị của thực dân đế quốc, dân tộc
Việt Nam chịu thân phận nô lệ, bị đầu độc huỷ hoại cả về thể xác lẫn tinh
thần, nhưng có truyền thống đồn kết đấu tranh chống ngoại xâm và cường
quyền được giác ngộ, nhất định nhân dân Việt Nam sẽ đoàn kết đứng lên
giành độc lập tự do, quyền sống, quyền làm người.
13



Trải qua những năm bơn ba nước ngồi tìm đường cứu nước cứu dân
tộc. Người đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong
điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Đặc biệt là những nguyên tắc cũng được Người
vận dụng sáng tạo trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết ở Việt Nam.
Theo Chủ nghĩa Mác – Lênin xã hội luôn luôn biến đổi và phát triển
theo quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Nhưng đấu tranh
không phải là sự bài trừ tuyệt đối, phủ định toàn bộ mà là sự kế thừa phát
huy những cái tốt, cái hiệu quả. Trong cơng tác đồn kết, thì cũng cần phải
có sự đấu tranh giữa cái xấu và cái tốt rồi rút ra cái chân lý, để mọi người
phục tùng chân lý, và biện pháp hữu hiệu nhất là mọi người phải tự giác trên
tinh thần tự phê bình và phê bình. Khối đồn kết dân tộc chúng ta bao gồm
nhiều thành phần, giai cấp và các tầng lớp lao động khác nhau, nên khơng
thể có sự đồng nhất về tất cả mọi mặt như trình độ nhận thức. Vì vậy trước
những vấn đề nào đó sẽ có những ý kiến khác nhau, những cách thức và
phương pháp giải quyết khác nhau. Bằng tự phê bình và phê bình, trí tuệ
sáng tạo của từng cán bộ, tổ chức được khơi dậy và phát huy mạnh mẽ, tìm
ra cái đúng và dần dần tiếp cận chân lý. Qua tự phê bình và phê bình, trình
độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ dần dần được nâng lên và trách nhiệm trước
quần chúng được phát huy một cách thiết thực hiệu quả.
Hồ Chí Minh khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của toàn dân,
không phải việc của một hai người. Người cho rằng cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, nhân dân Việt Nam đấu tranh và đổ máu đã nhiều nhưng chưa
giành được độc lập vì tồn dân chưa đồn kết thành một khối. Muốn cách
mạng thành công, dân tộc được độc lập, nhân dân được tự do, hạnh phúc
cần phải giác ngộ, tổ chức đoàn kết toàn dân trong một mặt trận thống nhất.
Từ truyền thống và thực tiễn đấu tranh của dân tộc ta, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Sử ta dạy cho ta bài học này: lúc nào dân ta biết đồn kết mn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta khơng
đồn kết thì bị nước ngồi xâm lấn”.

14


Đối với Việt Nam, trong khối đại đoàn kết Mặt trận dân tộc thống
nhất dưới sự lãnh đạo của đảng, thì nhiều vấn đề phức tạp cần giải quyết mà
mọi cán bộ, đảng viên không thể nắm bắt, nhận thức đầy đủ và sâu sắc
những việc xảy ra hằng ngày, hằng giờ trong xã hội. Vì vậy việc mắc sai
lầm, khuyết điểm là khó tránh. Chỉ có thơng qua tự phê bình và phê bình
trên cơ sở đấu tranh có tình thương u đồng chí, thì mới giúp cho những
cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân tránh những sai lầm, khuyết
điểm.
Tự phê bình và phê bình là một trong những đặc trưng quan trọng về
phong cách Lêninit của người cán bộ trong tổ chức. Ngoài những tiêu chuẩn,
những nguyên tắc rất nghiêm ngặt, song vẫn không tránh khỏi những người
vào tổ chức vì mục đích lợi ích cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“... Có người tưởng vào đảng thì để tìm cơng ăn việc làm. Có người vào
đảng mong làm chức này tước nọ. Có người vì anh em bạn hữu kéo vào...” 7
Vì vậy phải bằng mọi cách đấu tranh tự phê bình và phê bình để phát
hiện và đưa những phần tử xấu, cơ hội, thù địch ra khỏi đảng. Vì “sức hấp
dẫn được tham gia một đảng chấp chính rất là lớn..., những phần tử tiểu tư
sản và công khai thù địch với tất cả những gì có tổ chức vơ sản, lại sẽ ồ ạt
kéo về phía đảng rất đơng” 8.
Mác – Ăngghen cho rằng tự phê bình và phê bình là rất cần thiết cho
hoạt động và phát triển của đảng Cộng sản. Ăngghen nhấn mạnh: Việc đảng
phê bình hoạt động đã qua của mình và việc tuyệt đối cần thiết và bằng cách
đó, đảng học cách hoạt động tốt hơn. Lênin coi tự phê bình và phê bình là
quy luật bất di bất dịch về sự phát triển của đảng cách mạng. Tự cao tự đại
không thấy những sai lầm khuyết điểm của mình, giấu giếm những sai lầm,
khuyết điểm ấy là một trong những nguyên nhân giảm sức chiến đấu.
“Tất cả những đảng các mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị tiêu

vong vì tự cao tự đại và khơng biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của
7
8

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, HN 1995, tập 5, tr 254
Lênin toàn tập, Nxb tiến bộ Maxcowa, 1978, tập 45, tr 24.

15


mình và vì sợ sệt khơng dám nói lên những nhược điểm của mình. Cịn
chúng ta sẽ khơng bị tiêu vong, vì chúng ta khơng sợ nói lên những nhược
điểm của chúng ta, và những nhược điểm đó, chúng ta sẽ học được cách
khắc phục.”9
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần quan tâm đến vấn đề này. Cán bộ
đảng viên phải tự điểm trước nhân dân. Hể thấy khuyết điểm thì phải đấu tranh
kiên quyết sửa chữa đồng chí mình, như thế thì mới cho người phát triển, cơng
việc mới thành công.
Nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm thì cũng như giấu giếm
bệnh tật trong mình khơng dám uống thuốc để bệnh ngày càng nặng, nguy
đến tính mệnh. Người khẳng định “một đảng cầm quyền mà giấu giếm
khuyết điểm của mình là một đảng hỏng...”
Vì vậy có thể thấy tầm quan trọng của nguyên tắc tự phê bình và phê
bình trên cơ sở đấu tranh có tình đồng chí thương u lẫn nhau. Đó là
phương pháp có hiệu quả giáo dục rèn luyện cho mọi cán bộ, thành viên các
tổ chức và ngay cả đảng viên, nó trở thành quy luật phát triển, biện pháp
quan trọng của việc củng cố và xây dựng mọi tổ chức, để góp phần cho khối
đại đoàn kết toàn dân thống nhất ý chí thống nhất hành động. Từ đó giúp cho
mọi người, mọi cán bộ, đảng viên thấy được những ưu điểm mình để phát
huy và đồng thời khắc phục những khuyết điểm để hoàn thành nhiệm vụ đối

với Đảng, Mặt trận, các tổ chức đoàn thể. Đặc biệt khi thực hiện có chất
lượng tự phê bình và phê bình trong tất cả mọi lĩnh vực sẽ góp phần quyết
định thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Từ đó có thể khẳng định tầm quan trọng của nguyên tắc đoàn kết trên cơ sở
đấu tranh và tự phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình cách
mạng Việt Nam trải qua hai cuộc kháng chiến và trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, đoàn kết trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa
- đồn kết của dân tộc. Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người, trân
9

Sđd, Tập 45, tr 141.

16


trọng “phần thiện”, dù nhỏ nhất ở mỗi con người để tập hợp, quy tụ rộng rãi
mọi lực lượng. Người viết: “Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế
khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải
khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có
ít hay nhiều lịng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải
lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đồn kết, có đại
đồn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”
Thứ năm, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ
nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của
giai cấp công nhân
Ngay khi thành người cộng sản, Hồ Chí Minh đã xác định cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và chỉ có thể giành được
thắng lợi hồn tồn khi có sự đồn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế
giới. Trong quá trình cách mạng, tư tưởng của Người về vấn đề đoàn kết với
cách mạng thế giới càng được làm sáng tỏ hơn và đầy đủ hơn. Cách mạng Việt

Nam phải gắn với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, với các nước xã
hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng tiến bộ đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ và
hồ bình thế giới. Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác
định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng
Việt Nam chỉ có thể thắng lợi khi đồn kết chặt chẽ với các lực lượng trong
phong trào cách mạng thế giới. Theo Người “Ai làm cách mệnh trong thế giới
đều là đồng chí của nhân dân An Nam cả”10. Trong suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng, Hồ Chí Minh đã đấu tranh khơng mệt mỏi để củng cố, tăng cường
đồn kết quốc tế, kiên quyết chống chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực
đoan. Đối với Hồ Chí Minh, các dân tộc trên thế giới đủ màu da “vàng đen
trắng đỏ đều là anh em”. Trong diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III Đảng lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh rất phấn khởi đọc câu thơ :
“Quan san muôn dặm một nhà, Bốn phương vô sản đều là anh em”11.
10
11

Sđd, tập 2, tr 301.
Sđd, tập 10, tr 195

17


Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ dừng lại ở đoàn kết trong
nội bộ dân tộc Việt Nam mà phải đi đến đoàn kết quốc tế, coi đại đoàn kết
dân tộc là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế, đoàn kết quốc tế làm
tăng thêm sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc. Nếu như đại đoàn kết dân tộc
là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam
thì đồn kết quốc tế là một nhân tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng
dân tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn và quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.

2.2. Vận dụng nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh
vào xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nội dung mang tính chiến lược trong
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đồng thời, đây cũng là nội dung
và giải pháp quan trọng trong công tác xây dựng Đảng nhằm phát huy sức
mạnh nội lực, tạo động lực cho công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất
nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Đảng và Nhà nước ta đã vận
dụng những ngun tắc đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh vào xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay bằng những việc làm cụ thể như:
Thứ nhất: Giáo dục nâng cao nhận thức về tính cấp thiết xây dựng và
củng cố khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc, từ khi ra
đời đến nay Đảng ta ln coi trọng việc xây dựng khối đại đồn kết toàn dân
tộc. Điều này đã trở thành truyền thống quý báu của Đảng và nhân dân ta, tạo
thành sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Tuy nhiên, “khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những
thách thức mới”12. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận
dân chưa vững chắc, việc tập hợp nhân dân vào mặt trận và các đồn thể, các
tổ chức xã hộ cịn nhiều hạn chế.
12

Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy BCHTW, khóa IX, Nxb CTQG, H. 2003, tr10.

18




×