Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận cao học, môn tác phẩm kinh điển tư tưởng chính trị cơ bản trong tác phẩm “tuyên ngôn của đảng cộng sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.4 KB, 31 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: GIỚI THIỆU CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN
MÁC-LÊNIN VỀ CHÍNH TRỊ
Đề tài:
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CƠ BẢN TRONG TÁC PHẨM
“TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” VÀ NHỮNG
GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG ĐÓ LÚC ĐƯƠNG THỜI
VÀ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY”


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................3
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN”........................................................................................3
1.1.

Bối cảnh ra đời tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”............3

1.2. Kết cấu nội dung của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.......4
Chương 2: TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CƠ BẢN TRONG TÁC PHẨM
“TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”..................................................8
2.1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vơ sản và chính Đảng tiền phong............8
2.2. Phương thức sản xuất quyết định cơ sở chính trị, tư tưởng.................11
2.3. Cơng khai trước tồn bộ thế giới về chiến lược, sách lược của Đảng
Cộng sản......................................................................................................12
2.4. Về mối quan hệ giữa giai cấp vô sản và Đảng Cộng sản và giải quyết
các quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế......................................................13
Chương 3: NHỮNG GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CƠ BẢN TRONG
TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” LÚC ĐƯƠNG


THỜI VÀ GIA ĐOẠN HIỆN NAY”..............................................................15
3.1. Giá trị tư tưởng chính trị cơ bản trong tác phẩm “Tun ngơn của Đảng
cộng sản” lúc đương thời............................................................................15
3.2. Giá trị tư tưởng chính trị cơ bản trong tác phẩm “Tun ngơn của Đảng
cộng sản” hiện nay......................................................................................19
KẾT LUẬN.....................................................................................................28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................29


MỞ ĐẦU

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển chủ yếu của chủ
nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên lý C .Mác và Ph.Ăng ghen trình bày
trong tác phẩm là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho tồn bộ phong trào
cộng sản và cơng nhân quốc tế, dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao
động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng
lồi người vĩnh viễn thốt khỏi mọi áp bức, bóc lột giai cấp, bảo đảm cho lồi
người được thực sự sống trong hịa bình, tự do và hạnh phúc. Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản giữ địa vị đặc biệt quan trọng trong kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Sự ra đời của tác phẩm vĩ đại này đánh dấu sự hình thành
về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác bao gồm ba bộ phận hợp thành: triết
học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học. 172 năm trôi qua,
kể từ khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời cho đến nay, thế giới đã có
nhiều biến đổi, song lịch sử tiếp tục chứng minh rằng, những tư tưởng vĩ đại
của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản sẽ tiếp tục soi đường cho nhân loại tiến
về tương lai ngày càng tốt đẹp hơn.
Hiện nay bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng,
phức tạp và khó lường, nhìn lại chặng đường cách mạng của Đảng gần 9 thập
kỷ qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử cũng như
những hạn chế, yếu kém trong 34 năm đổi mới đất nước, chúng ta càng nhận

thức sâu sắc hơn những giá trị bền vững và ý nghĩa thời đại của Tun ngơn
của Đảng Cộng sản; từ đó chủ động, khơng ngừng vận dụng sáng tạo và phát
triển phù hợp những nguyên lý nền tảng của Tuyên ngôn vào điều kiện cụ thể
nước ta để thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả: dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Từ những vấn đề trên do vậy em đã lựa chọn đề tài: “Tư tưởng chính
trị cơ bản trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” và những giá
trị tư tưởng đó lúc đương thời và gia đoạn hiện nay” để làm đề tài kết thúc
1


môn với mong muốn hiểu rõ hơn được các nội dung này cũng như những ý
nghĩa mà tác phẩm đem lại trong giai đoạn hiện nay.

2


NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”
1.1.

Bối cảnh ra đời tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
Trong bối cảnh hiện nay, khi cơng nghệ thơng tin càng ngày càng phát

triển và có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế - xã hội của từng
quốc gia, khu vực, các trang mạng xã hội trở thành các phương tiện để các thế
lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền chống phá Đảng, phá hoại thành quả của
cách mạng. Trước thực tiễn đó, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số
35-NQ/TW “về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh

phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Quán triệt tinh
thần của Nghị quyết, xin giới thiệu tác phẩm: Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản, tác phẩm đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin. Qua tác phẩm,
chúng ta hiểu hơn về nền tảng tư tưởng của Đảng, nâng cao tinh thần trách
nhiệm với sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Das Manifest der Kommunistischen
Partei), là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác –
Lênin, được xuất bản lần đầu ngày 21 tháng 2 năm 1848. Tác phẩm được coi
là một trong các văn kiện chính trị có ảnh hưởng lớn nhất của thế giới được
viết bởi Karl Marx và Friedrich Engels. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là
tuyên ngôn của Đồng minh những người Cộng sản - tổ chức quốc tế Marxists
đầu tiên trên thế giới, vạch ra mục tiêu và chương trình hành động của tổ chức
này. Bản tuyên ngôn này kêu gọi hành động cho một cuộc cách mạng vô
sản để lật đổ trật tự xã hội tư sản và cuối cùng xây dựng thành công xã
hội Cộng sản chủ nghĩa, nơi người lao động có được tự do, bình đẳng, thốt
khỏi áp bức, bóc lột.
Tác phẩm đã được UNESCO đưa vào danh mục Di sản tư liệu thế giới.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản ra đời là kết tinh của những yếu tố
khách quan và chủ quan.
3


Về khách quan: những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội đã chín muồi
trong lịch sử. Tác phẩm ra đời vào thời điểm quyết định trong quá trình
chuyển biến của chủ nghĩa xã hội khoa học đấu tranh với các trào lưu tư
tưởng lỗi thời và phản động để thâm nhập phong trào công nhân. Các tư
tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng (tiêu biểu là ba nhà xã hội chủ nghĩa
không tưởng vĩ đại đầu thế kỷ XIX: Saint Simon, Phurie và Owen) tồn tại và
thống trị cho đến lúc đó đã bộc lộ nhiều hạn chế: khơng giải thích đúng bản
chất của ách bóc lột tư bản chủ nghĩa, chưa phát hiện ra quy luật phát triển

của xã hội đó, chưa nhìn thấy vai trị, sứ mệnh của giai cấp công nhân trong
việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Những nhà xã hội chủ nghĩa
không tưởng muốn xây dựng một xã hội mới tốt đẹp, nhưng bằng con đường
thuyết phục, giáo dục, nêu gương, chứ không phải bằng con đường đấu tranh
cách mạng, cải biến cách mạng. Do khơng có cơ sở khoa học và thực tiễn, các
trào lưu tư tưởng trên đây đều trở nên lỗi thời và gây tác động tiêu cực, kìm
hãm sự phát triển của phong trào vơ sản. Việc vạch trần những tư tưởng phản
động và khẳng định những quan điểm lý luận khoa học là một yếu tố để
"Tuyên ngôn" ra đời.
Về chủ quan: Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là kết quả của quá trình
trưởng thành về lập trường, quan điểm, sự thành thục về phương pháp luận là
kết quả của quá trình hoạt động sáng tạo về lý luận và thực tiễn của C.Mác và
Ph.Ăngghen. Cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1847, Đại hội thứ hai của Liên
đoàn những người cộng sản trên cơ sở thảo luận nhất trí thơng qua những
ngun lý do C.Mác và Ph.Ăngghen nêu ra, Đại hội đã ủy thác hai ơng thảo ra
bản tun ngơn chính thức. Tun ngôn của Đảng Cộng sản được soạn thảo
xong vào tháng giêng năm 1948 và được xuất bản vào tháng hai năm 1948.
1.2. Kết cấu nội dung của tác phẩm “Tuyên ngơn của Đảng cộng sản”
Tác phẩm được trình bày trong 04 chương, trong một số lần xuất bản,
các tác giả đã viết thêm các lời tựa để giải thích và bổ sung cho tác phẩm.
Chương I: Tư sản và vô sản
4


Trong chương này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích quá trình phát
sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản, từ đó rút ra kết luận quan trọng: Sự sụp
đổ của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
đều là tất yếu – “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản
đều là tất yếu như nhau”. Giai cấp vơ sản có sứ mệnh lịch sử dẫn đầu các giai
cấp và tầng lớp lao động bị áp bức bóc lột tiến hành cơng cuộc cải tạo xã hội

tư bản và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa.
Chương II: Những người vô sản và những người cộng sản.
Trong chương này C.Mác và Ph.Ăngghen phân tích mối quan hệ giữa
giai cấp vơ sản và Đảng cộng sản; vạch rõ tính chất, nhiệm vụ trước mắt, mục
đích cuối cùng của Đảng cộng sản, những phương hướng và giải pháp để thực
hiện những nhiệm vụ và mục đích ấy. Nói cách khác, chương này chủ yếu
trình bày cương lĩnh và sách lược của Đảng cộng sản, đồng thời bác bỏ những
lời vu khống, xuyên tạc của giai cấp tư sản đối với những người cộng sản.
Chương III: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
Trong chương này C.Mác và Ph.Ăngghen bác bỏ, phê phán các trào lưu
tư tưởng phản động và các trào lưu tư tưởng bảo thủ, nhằm làm rõ sự khác
biệt căn bản về mặt lý luận, quan điểm giữa những người cộng sản và các trào
lưu đó. Qua sự phê phán đó đã làm nổi bật sự khác biệt căn bản về mặt quan
điểm, lý luận giữa các trào lưu tư tưởng phản động, bảo thủ với quan điểm lý
luận của những người cộng sản. Bởi vì “Những quan điểm lý luận của những
người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý
do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra. Những nguyên
lý ấy chỉ là biểu hiện khái quát của những quan hệ thực tại của một cuộc đấu
tranh giai cấp hiện có, của một cuộc vận động lịch sử đang diễn ra trước mắt
chúng ta”.
Chương IV: Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối
lập

5


Chương này được dành để nói về lập trường cách mạng triệt để, tư
tưởng cách mạng không ngừng, sách lược liên minh đoàn kết và đấu tranh của
những người cộng sản đối với các đảng dân chủ tư sản và tiểu tư sản là những
đảng đối lập với các thế lực phản động cầm quyền trong thời kỳ đó ở nhiều

nước.
Phần các Lời tựa của tác phẩm. Sau những lần xuất bản, thực tiễn có nhiều
biến đổi, phong trào cơng nhân cũng có những biến chuyển, nên Mác và Ăng
ghen đã bổ sung thêm một số luận điểm cho phù hợp. Tuy nhiên, Tuyên ngôn
là một tài liệu lịch sử, cho nên, các ông không thể tự ý sửa chữa vào đó, vì
thế, các ơng đã viết các lời tựa cho các lần xuất bản (Ph.Ăngghen: ““Tuyên
ngôn” là một tài liệu lịch sử mà chúng tơi khơng có quyền sửa lại”.
Có tất cả 07 lời tựa cho các lần xuất bản khác nhau, cụ thể:
Lời tựa viết cho bản tiếng Đức, xuất bản năm 1872;
Lời tựa cho bản tiếng Nga, xuất bản năm 1882;
Lời tựa viết cho bản tiếng Đức, xuất bản năm 1883;
Lời tựa viết cho bản tiếng Anh, xuất bản năm 1888;
Lời tựa viết cho bản tiếng Đức, xuất bản năm 1890;
Lời tựa viết cho bản tiếng Ba Lan, xuất bản năm 1892;
Lời tựa viết cho bản tiếng Italia, xuất bản năm 1893.
Trong đó, có 02 Lời tựa năm 1872 và 1882 được C.Mác và
Ph.Ăngghen viết chung, 05 Lời tựa còn lại do Ph.Ăngghen viết. Qua các Lời
tựa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng: những nguyên lý cơ bản được
trình bày trong Tun ngơn vẫn hồn tồn đúng, ở đơi chỗ, có một vài chi tiết
cần xem lại, một số luận điểm mới đã được bổ sung cho phù hợp với thực
tiễn. Vì thế, Tun ngơn là một tài liệu lịch sử, đã đáp ứng yêu cầu lịch sử, là
cương lĩnh chính trị mang tính quốc tế của giai cấp công nhân hiện đại.
Sự ra đời của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.
Ăngghen soạn thảo là một tất yếu khách quan, đáp ứng u cầu thực tiễn của
phong trào cơng nhân trên tồn thế giới. Đánh giá về tác phẩm V. I. Lênin
6


khẳng định: “Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng ngàn bộ sách, tinh thần
của nó đến bây giờ vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thế giới giai cấp vơ sản có tổ

chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh”.

7


Chương 2
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CƠ BẢN TRONG TÁC PHẨM “TUYÊN
NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”
2.1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vơ sản và chính Đảng tiền phong
Nội dung cơ bản trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khẳng định:
Hai nguyên lý của chủ nghĩa Mác là phương thức sản xuất và trao đổi kinh tế
cùng với cơ cấu xã hội của phương thức đó quyết định sự hợp thành nền tảng
của xã hội; lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp là lịch sử của đấu tranh
giai cấp; giai cấp vơ sản chỉ có thể tự giải phóng khỏi tình trạng bị áp bức bóc
lột, nếu đồng thời và vĩnh viễn giải phóng tồn bộ xã hội khỏi tình trạng bị áp
bức bóc lột, phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp; vai trò, chiến lược, sách
lược của Đảng Cộng sản; đập tan những hư truyền về “bóng ma cộng sản” các
thế lực chính trị phản động đang loan truyền ở châu Âu khi đó,v.v.. Trong đó,
“sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất
cả mọi người” chính là quan điểm nhân đạo chủ nghĩa cao cả, thấm sâu vào
trong mọi quan hệ giữa người và người; là sự nhất trí hài hịa giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội sẽ được xác lập một cách công bằng, văn minh trong xã
hội cộng sản.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, lịch sử phát triển của xã hội
loài người từ khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã cho tới nay chính là lịch
sử đấu tranh giai cấp, là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp bị áp bức bóc lột và
giai cấp bóc lột và sự vận động của lịch sử xã hội hiện đại chính là cuộc đấu
tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh đó đưa tới sự
diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.
Song, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng, điều đó sẽ không tự động

diễn ra. Kẻ đào huyệt chôn chế độ tư bản thuộc về giai cấp vô sản - giai cấp
do chính xã hội tư bản sản sinh ra: “Giai cấp tư sản không những đã rèn
8


những vũ khí sẽ giết mình; nó cịn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy
chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản” và “sự
sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như
nhau”. Cũng theo hai ông, không một giai cấp thống trị nào lại tự nguyện rút
lui khỏi vũ đài lịch sử, vì vậy, việc lật đổ giai cấp tư sản thống trị chỉ có thể
thành cơng bởi một cuộc đấu tranh giai cấp do chính giai cấp vơ sản thực
hiện. Và điều kiện để bảo đảm bảo cho thắng lợi đó chính là sự lãnh đạo của
một chính đảng và sự ra đời của Đảng Cộng sản là yêu cầu tất yếu để đảm bảo
cho giai cấp vơ sản hồn thành sứ mệnh lịch sử “đào mồ chôn chủ nghĩa tư
bản”. Thực tế cũng cho thấy, những cuộc đấu tranh trong lòng chế độ tư bản
chủ nghĩa đã tạo điều kiện cho giai cấp vơ sản đồn kết thành tổ chức và sự tổ
chức ấy sẽ hình thành chính đảng. Sự tồn tại, phát triển của Đảng Cộng sản vì
sứ mệnh của giai cấp vô sản; và Đảng Cộng sản chỉ kết thúc vai trò khi sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vơ sản đã hồn thành.
Học thuyết về chính đảng vô sản - đội tiền phong của giai cấp vô sản,
người tổ chức và lãnh đạo giai cấp vô sản được C.Mác và Ph.Ăngghen trình
bày rõ trong Tun ngơn. Trong đó, hai ơng cho rằng, việc thành lập một
chính đảng cách mạng với tư cách này là điều kiện tiên quyết để giai cấp vơ
sản giành lấy chính quyền và xây dựng chế độ xã hội mới. Chính đảng của
giai cấp vơ sản này “tuyệt nhiên khơng có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích
của tồn thể giai cấp vơ sản”, vì “ln ln đại biểu cho lợi ích của tồn bộ
phong trào” và cũng “khơng đặt ra những nguyên tắc riêng biệt nhằm khuôn
phong trào vô sản theo những ngun tắc ấy”. Đó “khơng phải là một đảng
riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác”, mà là “bộ phận kiên quyết
nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước”, “luôn luôn thúc đẩy phong

trào tiến lên”
Khẳng định vai trị tiên phong của chính đảng vô sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen cũng đồng thời chỉ rõ đường lối chiến lược, sách lược của đảng.
Đó chính là mỗi chính đảng vơ sản cần phải và ln ln phải hành động tùy
9


theo những điều kiện lịch sử cụ thể, chứ không phải theo một khn mẫu
cứng nhắc nào đó. Song, khi đề xuất một đường lối cụ thể để hành động, bên
cạnh việc xác định sự phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước, mỗi Đảng
Cộng sản đều phải tính đến những nguyên lý, nguyên tắc chiến lược, sách
lược chung, nhất loạt có tính chất phổ biến, để làm cho những mục tiêu trước
mắt của giai cấp vô sản nước mình phục tùng những mục đích cuối cùng của
giai cấp vơ sản tồn thế giới, tn thủ sự nhất trí giữa những nhiệm vụ quốc tế
và nhiệm vụ dân tộc.
Trong cuộc đấu tranh giai cấp, Đảng Cộng sản không chỉ tập hợp trong
hàng ngũ của mình giai cấp vơ sản mà cả các tầng lớp trung gian, những nhà
tiểu cơng nghiệp, tiểu thương, thợ thủ cơng, nơng dân. Trình bày tính tiên
phong của Đảng Cộng sản, mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp trong
Tuyên ngôn, C. Mác và Ph.Ăngghen khẳng định tính tiên phong của Đảng thể
hiện trong hành động thực tiễn và tiên phong về mặt lý luận. Theo đó, “về mặt
thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng
công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến
lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ
hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vơ sản”.
Như vậy, vai trò tiên phong của Đảng đảm bảo cho Đảng tập hợp được giai
cấp vô sản và sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện đảm bảo cho giai cấp vơ sản
hồn thành sứ mệnh lịch sử tồn thế giới.
Đảng Cộng sản là một bộ phận gắn liền với giai cấp và lợi ích của
Đảng thống nhất với lợi ích giai cấp, vì “họ tuyệt nhiên khơng có một lợi ích

nào tách khỏi lợi ích của tồn thể giai cấp vơ sản”. Mục đích của Đảng là mục
đích của giai cấp, vì Đảng là đại biểu cho lợi ích của tồn bộ phong trào vơ
sản. Nhiệm vụ trước hết của Đảng là tổ chức những người vô sản thành giai
cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền bằng bạo
lực cách mạng. Tiếp đó, giai cấp vơ sản sử dụng quyền lực chính trị của mình
để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Trong khi liên hợp với các đảng
10


phái để chống lại thế lực thống trị, tiến hành sự nghiệp giải phóng, Đảng
Cộng sản có sự liên minh, song luôn giữ vững nguyên tắc và lập trường của
giai cấp công nhân. Trong cuộc cách mạng ấy, những người vơ sản chẳng mất
gì hết ngồi những xiềng xích trói buộc họ; và “Vơ sản tất cả các nước đồn
kết lại” chính là khẩu hiệu chiến đấu cơng khai “quốc tế hóa” sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vơ sản.
2.2. Phương thức sản xuất quyết định cơ sở chính trị, tư tưởng
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản khẳng định hai nguyên lý của chủ nghĩa
Mác: phương thức sản xuất và trao đổi kinh tế cùng với cơ cấu xã hội của
phương thức đó quyết định sự hợp thành nền tảng của xã hội; lịch sử phát
triển của xã hội có giai cấp là lịch sử của đấu tranh giai cấp.
Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu
này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, cả hai yếu tố đó cấu thành cơ sở
của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy.
Từ khi chế độ cơng hữu ruộng đất ngun thủy tan rã, tồn bộ lịch sử
loài người là lịch sử của đấu tranh giai cấp, qua các giai đoạn của sự phát triển
xã hội, cuộc đấu tranh giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột, giữa giai
cấp bị trị và giai cấp thống trị vẫn không ngừng diễn ra.
Những thay đổi trong phương thức sản xuất và trao đổi qua các thời kỳ
lịch sử đã thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và đi liền với nó là thúc
đẩy giai cấp tư sản ra đời và ngày càng lớn mạnh.

Sự ra đời, phát triển, địa vị lịch sử và sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản
và giai cấp tư sản là tất yếu khách quan, do kinh tế quyết định.
Chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản ra đời thúc đẩy xã hội phát triển
mạnh mẽ về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa... Tuy nhiên, tính chất phản
động của chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản cũng dần dần bộc lộ cơng khai,
những tệ nạn xã hội do nó gây ra càng phát triển, như: sự bóc lột tàn nhẫn lao
động làm th; tuyệt đối hóa lợi ích, tuyệt đối hóa đồng tiền; chà đạp lên mọi

11


quan hệ gia đình, tình cảm; thúc đẩy các cuộc chiến tranh xâm lược để mở
rộng thị trường.
Những mâu thuẫn khơng thể điều hịa giữa chế độ sở hữu tư nhân tư
liệu sản xuất với sản phẩm mà nó tạo ra là lực lượng sản xuất cơng nghiệp
hóa, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô
sản là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chế độ tư bản.
Giai cấp vô sản đại diện cho lực lượng sản xuất mới, là giai cấp tiến bộ của
thời đại sẽ giành được vị trí thống trị. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng
lợi của giai cấp vô sản đều là một tất yếu lịch sử như nhau và đều do kinh tế
quyết định.
2.3. Cơng khai trước tồn bộ thế giới về chiến lược, sách lược của
Đảng Cộng sản.
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản cơng khai trước tồn bộ thế giới về chiến
lược, sách lược của Đảng Cộng sản. Điều này thể hiện ở:
Về con đường, phương pháp tiến hành cách mạng vơ sản: TNĐCS vừa
khẳng định tính tất yếu phải tiến hành cách mạng vô sản, nhưng cũng chỉ ra
rằng, không nhất thiết phải sử dụng các biện pháp như nhau và tiến hành nhất
loạt ở tất cả các nước.
Với những mâu thuẫn gay gắt khơng thể điều hịa của chủ nghĩa tư

bản, tiến hành cách mạng là phương thức tất yếu và duy nhất để thay thế chủ
nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội, là tiền đề cần thiết để giải phóng tồn thể
nhân loại cần lao. Cuộc cách mạng vơ sản là kết quả của q trình đấu tranh
lâu dài, gian khổ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động, trải qua nhiều giai
đoạn, phát triển từ tự phát đến tự giác, tạo ra tình thế, chớp lấy thời cơ cho
cách mạng nổ ra và giành thắng lợi.
Cách mạng vô sản phải trải qua hai bước: (1) Giai cấp vô sản phải tiến
hành cuộc cách mạng chính trị đánh đổ giai cấp tư sản và giành chính quyền;
(2) Sau khi giành được chính quyền, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản là lãnh đạo
12


giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng chính quyền như một cơng
cụ có hiệu lực nhất để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Phương pháp cách mạng: Tiến hành không ngừng, tùy theo yêu cầu,
nhiệm vụ của từng thời điểm và phải tiến hành từng bước để đạt tới mục đích
cuối cùng.
Con đường, biện pháp cách mạng phải bằng bạo lực. Đây là kết luận
hết sức đúng đắn của C.Mác và Ph.Ăngghen, là kết quả trực tiếp của quan
niệm duy vật, khoa học về lịch sử mà hai ông là những người đầu tiên vươn
tới và sáng tạo ra.
2.4. Về mối quan hệ giữa giai cấp vô sản và Đảng Cộng sản và giải
quyết các quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế
Giai cấp vơ sản khơng thể hồn thành sứ mệnh lịch sử nếu khơng tổ
chức thành chính đảng của giai cấp. Đảng Cộng sản được hình thành và phát
triển xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Đảng là đội quân tiên
phong của giai cấp vô sản. Đảng đưa vào phong trào công nhân các tư tưởng
cộng sản chủ nghĩa; tổ chức giai cấp vô sản, lãnh đạo cuộc đấu tranh cách
mạng của giai cấp vô sản và xây dựng xã hội XHCN.
Giữa Đảng Cộng sản và giai cấp vơ sản có mối quan hệ gắn bó chặt

chẽ, khơng tách rời. Mục đích, lợi ích của Đảng và của giai cấp vô sản là
thống nhất. Đảng là đại biểu cho quyền lợi của giai cấp vô sản cũng như của
nhân dân lao động.
Đảng Cộng sản phải khơng ngừng nâng cao trình độ lý luận và nắm bắt
thực tiễn, đủ khả năng lãnh đạo giai cấp vơ sản và tồn thể nhân dân lao động
đấu tranh thắng lợi trong công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Mục tiêu, lý tưởng cao nhất của giai cấp vô sản là đi đến xã hội XHCN
và cộng sản chủ nghĩa - nơi con người được giải phóng và được tạo điều kiện
phát triển tồn diện, hài hòa. Để đạt được mục tiêu nhân văn cao cả đó, những
người cộng sản phải giải quyết một cách phù hợp các quan hệ giữa giai cấp dân tộc - quốc tế.
13


Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự
xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc.
Giai cấp vơ sản khơng chỉ đại diện cho lợi ích của từng dân tộc - do
bản chất vốn có của nó - giai cấp vơ sản cịn đại diện cho lợi ích của toàn thể
nhân loại. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản cần và phải thực hiện dưới ngọn
cờ của chủ nghĩa quốc tế vơ sản.
Bên cạnh đó nó cũng vạch trần bản chất phản động, bảo thủ, lỗi thời
của các trào lưu tư tưởng phi khoa học, trá hình dưới chiêu bài khác nhau về
chủ nghĩa xã hội để chống chủ nghĩa xã hội lúc bấy giờ.

14


Chương 3: NHỮNG GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CƠ BẢN
TRONG TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” LÚC
ĐƯƠNG THỜI VÀ GIA ĐOẠN HIỆN NAY”
3.1. Giá trị tư tưởng chính trị cơ bản trong tác phẩm “Tun ngơn

của Đảng cộng sản” lúc đương thời
3.1.1. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” tác động sâu sắc đến tiến
trình phát triển của cách mạng thế giới
Sự ra đời của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đánh dấu bước ngoặt
căn bản của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đưa giai cấp cơng
nhân bước lên vũ đài chính trị với tư cách là một lực lượng xã hội độc lập,
đấu tranh giải phóng mình, đồng thời giải phóng tồn thể nhân loại.
“Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” được C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo
xong vào tháng 02-1848 và xuất bản lần đầu tiên vào trung tuần tháng 3 năm
đó, giữa lúc chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở mức cao, giữ quyền thống trị ở
châu Âu và bắt đầu bành trướng thế lực sang châu Phi, châu Á với các cuộc
chinh phục bằng bạo lực. Vào thời điểm đó, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản” không chỉ là bản cáo trạng đanh thép đối với chủ nghĩa tư bản, mà còn là
cương lĩnh cách mạng đầu tiên của giai cấp vô sản thế giới, là ngọn đuốc soi
đường cho giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh phá bỏ
xiềng xích và mọi sự áp bức, bất công trong xã hội tư bản. Sự ra đời của
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đánh dấu sự phát triển vượt bậc của phong
trào cơng nhân - đó là sự phát triển từ tự phát đến tự giác. Tư tưởng khoa học
và cách mạng trong văn kiện lịch sử này nhanh chóng thâm nhập vào giai cấp
vơ sản và lan tỏa trong các tầng lớp nhân dân lao động, trở thành lực lượng
vật chất vĩ đại. Nhiều cuộc cách mạng xã hội của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động đã nổ ra và giành được những thắng lợi rất quan trọng, làm thay
đổi bộ mặt của thế giới đương đại.

15


Vậy vì sao “Tun ngơn của Đảng Cộng sản” lại trở thành cương lĩnh
cách mạng đầu tiên của giai cấp vơ sản thế giới và có ảnh hưởng sâu sắc đến
tiến trình phát triển của cách mạng thế giới? Có thể cắt nghĩa rằng, đây là một

tác phẩm kinh điển chủ yếu của chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó C. Mác
và Ph. Ăngghen trình bày nhiều luận điểm và nguyên lý mang tính chất phổ
biến cả về mặt lý luận và thực tiễn, có giá trị là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Về mặt lý luận, “Tun ngơn của Đảng Cộng sản” có nhiệm vụ thuyết
trình sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản; sứ mệnh lịch sử thế giới của
giai cấp vô sản hiện đại; những căn cứ khách quan, nội dung khoa học và tính
chất cách mạng của chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời, nó cịn có nhiệm vụ đập
tan mọi câu chuyện hư truyền về “bóng ma cộng sản” mà các thế lực chính trị
phản động ở châu Âu khi ấy đều hoảng sợ và tìm cách bơi nhọ, phản bác. Về
mặt thực tiễn, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” có nhiệm vụ trình bày cơng
khai mục đích, nhiệm vụ, những biện pháp cách mạng và lập trường, chiến
lược, sách lược của những người cộng sản nhằm lật đổ sự thống trị của giai
cấp tư sản, thiết lập nền thống trị của giai cấp vô sản, tiến hành cải tạo xã hội
tư bản và xây dựng xã hội mới văn minh, tiến bộ hơn, đó là xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Đánh giá về tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, V. I.
Lênin khẳng định: “Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng ngàn bộ sách, tinh
thần của nó đến bây giờ vẫn cổ vũ và thúc đẩy tồn thế giới giai cấp vơ sản có
tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh”.
3.1.2. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã thức tỉnh giai cấp công
nhân và nhân dân lao động
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời đã thức tỉnh giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, làm cho họ ý thức được một cách nhanh chóng và
sâu sắc vai trị lịch sử của mình trước giai cấp, dân tộc và nhân loại. Tính cách
mạng triệt để của nó là ở chỗ, lần đầu tiên những người cộng sản - hạt nhân
tiên tiến nhất của giai cấp công nhân - trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới
16


về quan điểm, mục đích, biện pháp của mình để đập tan câu chuyện hoang

đường về “bóng ma cộng sản”, cùng mọi luận điệu xun tạc, cơng kích chủ
nghĩa cộng sản của các thế lực phản động, cơ hội, xét lại. Từ đây, những
người cộng sản và giai cấp công nhân quốc tế đã có vũ khí lý luận và cương
lĩnh để hành động, để đấu tranh chống lại giai cấp tư sản không chỉ bằng bạo
lực, bằng lực lượng vật chất, mà còn bằng cả lý luận phản ánh hiện thực
khách quan của phong trào vô sản thế giới.
Dưới ánh sáng của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế trong 170 năm qua đã giành được những thành tựu
quan trọng, biến chủ nghĩa xã hội từ lý luận, học thuyết thành hiện thực sinh
động trong cuộc sống. Những cuộc cách mạng vô sản và cách mạng giải
phóng dân tộc theo quỹ đạo của cách mạng vô sản đã bùng nổ dữ dội ở nhiều
nước, ở khắp các châu lục. Đó là Cơng xã Pa-ri năm 1871; tiếp đến, sau Chiến
tranh thế giới thứ nhất là thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người - thời đại từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới; rồi đến sau Chiến tranh
thế giới thứ hai là thắng lợi của hàng loạt cuộc cách mạng xã hội kiểu mới ở
cả châu Âu, châu Á và châu Mỹ La-tinh, và từ đây, chủ nghĩa xã hội trở thành
một hệ thống thế giới; đồng thời hàng trăm quốc gia, dân tộc đã vùng lên đấu
tranh chống lại chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và
giành được độc lập ở những mức độ khác nhau, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và kiểu mới. Rõ ràng, lý tưởng của “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” đã tác động sâu sắc đến tiến trình phát triển của
cách mạng thế giới, thúc đẩy lịch sử nhân loại phát triển theo chiều hướng
khách quan là hướng đến xây dựng một xã hội công bằng, nhân đạo, phù hợp
với bản chất con người.
Nhưng lịch sử không bằng phẳng, trơn tru. Con đường cách mạng thế
giới từng diễn ra quanh co, khi cao trào, lúc thối trào, có lúc nơi này hoặc
nơi khác cách mạng đứng trước những trở lực tưởng như không vượt qua nổi.
17



Điển hình là sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc với chiến lược
“diễn biến hịa bình” đối với chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông
Âu trong những năm 90 của thế kỷ XX, cùng với đó là do đảng cộng sản ở
những nước này có những sai lầm về đường lối, mắc phải bệnh giáo điều, chủ
quan, duy ý chí và do cả sự phản bội của một số người lãnh đạo, đứng đầu của
đảng, đã dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở những nơi đó và hệ lụy
đau xót là làm tan rã hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Song, điều cần nhận
rõ, đây chỉ là sự sụp đổ của những mơ hình chủ nghĩa xã hội cụ thể, chứ
không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, với tư cách là một
nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản. Và một sự thật hiển nhiên hiện
nay là, nhiều nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cu
Ba…, với dân số khoảng 1,5 tỷ người (chiếm khoảng 1/5 dân số thế giới),
đang tiến hành cải cách và đổi mới rất mạnh mẽ và đúng hướng, vững bước đi
lên con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn.
Ngay cả ở những nước mà chế độ xã hội chủ nghĩa đã tan rã, các lực
lượng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại và đang quyết liệt đấu tranh để giành lại vị
thế trong xã hội. Ở khơng ít nước tư bản chủ nghĩa phát triển, phong trào cộng
sản và phong trào công nhân vẫn không ngừng mở ra những cuộc đấu tranh vì
dân chủ, dân sinh, cơng bằng và tiến bộ xã hội. Hiện nay, dù chủ nghĩa xã hội
đang gặp nhiều khó khăn, trở ngại trên con đường phát triển, nhưng ngay
trong xã hội tư bản, rất nhiều học giả tư sản vẫn có đánh giá khách quan rằng,
học thuyết Mác vẫn là đỉnh cao của trí tuệ loài người, vẫn tràn đầy sức sống
trong một thời đại đầy biến động chính trị. Có một nghịch lý là, chính sự tác
động của học thuyết Mác, trong đó có những nguyên lý cơ bản mà C. Mác và
Ph. Ăngghen nêu trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, đã buộc chủ nghĩa
tư bản hiện đại phải điều chỉnh, sửa đổi một phần các khuyết tật và lực cản
trong lòng xã hội tư bản để thích nghi và tồn tại.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã trải qua những thử thách lớn lao trên
con đường hiện thực hóa lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho thấy, ở đâu

18



×