Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

BÀI TẬP NHÓM MÔN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG : CÁC CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH KHAI KHOÁNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.49 KB, 21 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KINH TẾ
Tiểu luận
CÁC CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH
KHAI KHOÁNG VIỆT NAM
Thành viên nhóm 1:
Trịnh Phương Ngọc
Lê Thị Minh Hiền
Nguyễn Đức Anh
Đỗ Thị Phương Hoa
Phạm Huyền Trang
Nguyễn Xuân Tú
Nguyễn Thị Mai Anh
Hà Nội, tháng 4 năm 2014
1
MỤC LỤC

2
CHƯƠNG I. CÁC CHỈ TIÊU VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Sự cần thiết của các chỉ tiêu Phát triển bền vững
Vấn đề phát triển bền vững được coi là xu thế tất yếu trong tiến trình phát
triển của xã hội loài người. Nhiều khái niệm Phát triển bền vững được đưa ra
như: “Phát triển bền vững là sự đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà không ảnh
hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai” (Ủy ban Môi
trường và Phát triển Thế giới, 1987) hay “Phát triển bền vững là quá trình phát
triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba trụ cột phụ thuộc và củng
cố lẫn nhau: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường - ở cấp địa
phương, quốc gia, khu vực và toàn cầu” (Hội nghị Johannesburg, 2002)
Hiện nay, mặc dù phát triển bền vững là một vấn đề cấp bách, tuy nhiên do
sự cạnh tranh và sức hút của nền kinh tế thị trường, mỗi ngành, mỗi quốc gia đều
có sự phát triển riêng thiếu tính bền vững trong tương lai. Bên cạnh đó, phát


triển bền vững là một khái niệm mang tính lý thuyết và trừu tượng, do vậy cần
có một cách thức để xác định, đo lường và cụ thể hóa sự phát triển bền vững đối
với mỗi lĩnh vực hay mỗi quốc gia riêng biệt. Đó là lý do các chỉ số phát triển bền
vững ra đời.
1.2. Bộ chỉ tiêu phát triển bền vững
Bộ chỉ tiêu phát triển bền vững là một khái niệm không mới đối với nhiều
nước, song trên thực tế rất dễ bị nhầm lẫn. Vì vậy, trước khi đề cập đến bộ chỉ
tiêu, cần làm rõ một số khái niệm có liên quan:
+ Dữ liệu thô: là toàn bộ thông tin định tính và định lượng có thể thu thập được
trong lĩnh vực quan tâm;
+ Số liệu thống kê: là toàn bộ số liệu thống kê được các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thống kê theo định kỳ hoặc thu được qua các cuộc điều tra, tổng
điều tra;
+ Các chỉ tiêu: là thông tin được tính toán từ số liệu thống kê thể hiện hướng
thay đổi hay một trạng thái nào đó của đối tượng nghiên cứu;
+ Bộ chỉ tiêu: là những chỉ tiêu được nhóm thành một tập hợp liên quan tới
nhau về một khía cạnh nào đó;
+ Chỉ số: là một độ đo tổng hợp ở mức cao, được tính
từ các chỉ số và bộ chỉ số.
Có thể hiểu biểu đồ hình bên như sau: từ dữ liệu
thô, một phần dữ liệu được thống kê phục vụ công tác
nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở số liệu thống kê, các
chỉ tiêu sẽ được lựa chọn và tính toán.
Từ các chỉ tiêu tính toán được có thể chọn ra
một nhóm các chỉ tiêu phản ánh một vấn đề có mối quan hệ với nhau theo nhiều
chiều, được gọi là bộ chỉ tiêu. Từ bộ chỉ tiêu được lựa chọn, các chỉ số được tính
3
toán nhằm đơn giản hóa tính phức tạp của hệ thống qua một con số, song vẫn
phản ánh được bản chất của hệ thống dữ liệu này.
1.3. Mục tiêu của bộ chỉ tiêu PTBV

Đối với mỗi quốc gia, mỗi lĩnh vực khác nhau của một quốc gia, những
thông tin quan trọng được thể hiện thông qua các chỉ số nhằm cung cấp thông
tin về sự bền vững, phục vụ các nhà hoạch định chính sách, giúp hỗ trợ ra quyết
định và giải quyết các mâu thuẫn, xây dựng sự đồng thuận chung nhằm tìm ra
các giải pháp tối ưu cho sự phát triển.
Các mục tiêu của bộ chỉ tiêu PTBV được phân tích cụ thể như sau:
+ Cung cấp thông tin về sự bền vững: các chỉ tiêu thường cung cấp các thông tin
về xu thế, mô tả một trạng thái của một quá trình. Các chỉ tiêu có thể giúp xác
định các thành phần liên quan của sự PTBV, làm tăng cường sự hiểu biết về
trạng thái bền vững. Việc chỉ ra mối quan hệ giữa một vài chỉ tiêu hoặc sự
phát triển theo thời gian của một chỉ tiêu nào đó sẽ giúp cho nhà quản lý có
thể nhìn rõ xu hướng phát triển hiện tại và hiểu thế nào là PTBV trong tương
lai.
+ Hỗ trợ ra quyết định: từ những thông tin mà các chỉ tiêu cung cấp cho người
nhận thông tin, có thể hỗ trợ việc ra quyết định một cách hệ thống, minh bạch,
toàn diện, kịp thời… Các chỉ tiêu giúp đo được sự bền vững và nhờ đó có thể
giúp quản lý được. Ngày nay, các chỉ tiêu đang được sử dụng nhiều hơn cho
việc xác định các mục tiêu và tiêu chuẩn.
+ Xác định và kiểm soát rủi ro: những thông tin các chỉ tiêu cung cấp có thể giúp
các nhà quản lý xác định các rủi ro có thể xảy ra trong tương lai, từ đó hỗ trợ
việc kiểm soát chúng. Khi những khía cạnh liên quan của PTBV được xác định,
các chỉ tiêu được xây dựng và sử dụng nhằm cung cấp thông tin về những rủi
ro của quá trình phát triển.
+ Giải quyết các mâu thuẫn và xây dựng sự đồng thuận: các chỉ tiêu tạo nên một
ngôn ngữ chung để trao đổi và xác định các điểm giống và khác nhau của các
phương án phát triển. Các chỉ tiêu có thể chỉ ra những ưu điểm và nhược điểm
của các phương án, từ đó giúp tìm ra phương án tối ưu.
1.4. Phân loại các chỉ tiêu PTBV
Bộ chỉ tiêu PTBV thường được phân loại theo tính chất và theo lĩnh vực.
Theo tính chất, các chỉ tiêu được phân loại như sau:

- Nhóm S (State): các chỉ tiêu trạng thái, chỉ rõ trạng thái của hệ thống tại một
thời điểm cụ thể. Ví dụ như: mức độ ô nhiễm không khí hiện tại, mức thu nhập
năm X.
- Nhóm T (Target): các chỉ tiêu mục tiêu, mục đích, dự kiến trạng thái của hệ
thống trong tương lai. Ví dụ: chuẩn mực cho chất lượng nước mong muốn.
4
- Nhóm P (Pressure): các chỉ tiêu áp lực, các chỉ tiêu trực tiếp tác động đến các
vấn đề môi trường. Ví dụ: khí thải CO
2
, tiếng ồn.
- Nhóm D (Driving forve): các chỉ tiêu động lực: đề cập đến các yếu tố kinh tế - xã
hội làm tăng thêm áp lực đối với môi trường. Ví dụ: phát triển công nghiệp, tăng
dân số.
- Nhóm I (Impact): các chỉ tiêu ảnh hưởng, chỉ rõ các tác động đến sự thay đổi
trạng thái. Ví dụ: tỷ lệ chết vì bệnh tim do tiếng ồn gây ra.
- Nhóm R (Response): các chỉ tiêu hưởng ứng, chỉ rõ nỗ lực của xã hội trong việc
giải quyết các vấn đề. Ví dụ: các chương trình nâng cao chất lượng không khí.
Ngoài ra, các chỉ tiêu còn được phân loại theo lĩnh vực. Bốn lĩnh vực
thường được xem xét là kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế.
1.5. Bộ chỉ tiêu của Hội đồng phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc
Năm 1996, Hội đồng phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc đưa ra dự
thảo 134 chỉ tiêu cho các nước sử dụng để báo cáo với thế giới về sự phát triển
bền vững. Năm 2001, 58 tiêu chí cốt lõi của phát triển bền vững được công bố
nhằm hỗ trợ các nước trong việc đo lường mức độ phát triển bền vững. Khung 58
tiêu chí này gồm 15 chủ đề và 38 chủ đề nhánh, các tiêu chí trên được phân loại
theo 4 lĩnh vực: kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế. (bảng 1).
Bảng 1. Bộ chỉ tiêu PTBV của Liên Hiệp Quốc (2001)
Chủ đề Chủ đề nhánh Chỉ tiêu
X Ã H Ộ I
Công

bằng
Nghèo đói
1. Phần trăm DS sống dưới mức nghèo khổ
2. Chỉ số Gini về bất cân đối thu nhập
3. Tỷ lệ thất nghiệp
Công bằng về
giới
4. Tỷ lệ lương trung bình của nữ so với nam
Y tế
Dinh dưỡng 5. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em
Tỷ lệ chết
6. Tỷ lệ chết dưới 5 tuổi
7. Kỳ vọng sống của trẻ mới sinh
Điều kiện vệ sinh8. Phần trăm DS có thiết bị vệ sinh phù hợp
Nước sạch 9. DS được sử dụng nước sạch
Tiếp cận dịch vụ
y tế
10. Phần trăm DS tiếp cận được các dịch vụ y tế
ban đầu
11. Tiêm chủng cho trẻ em
12. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai
Giáo dục
Cấp giáo dục
13. Phổ cập tiểu học đối với trẻ em
14. Tỷ lệ người trưởng thành đạt mức giáo dục
cấp II
Biết chữ 15. Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành
Nhà ở Điều kiện sống 16. Diện tích nhà ở bình quân đầu người
5
An ninh Tội phạm 17. Số tội phạm trong 100.000 DS

Dân số Thay đổi dân số
18. Tỷ lệ tăng DS
19. DS thành thị chính thức và cư trú không
chính thức
M Ô I T R Ư Ờ N G
Không
khí
Thay đổi khí hậu20. Phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính
Phá hủy tầng
ozon
21. Mức độ tàn phá tầng ozon
Chất lượng
không khí
22. Mức độ tập trung của chất thải khí ở khu
vực thành thị
Đất
Nông nghiệp
23. Đất canh tác và diện tích cây lâu năm
24. Sử dụng phân hóa học
25. Sử dụng thuốc trừ sâu
Rừng
26. Tỷ lệ che phủ rừng
27. Cường độ khai thác gỗ
Hoang hóa 28. Đất bị phong hóa
Đô thị hóa
29. Diện tích thành thị chính thức và phi chính
thức
Đại
dương,
biển và

bờ biển
Khu vực bờ biển
30. Mức độ tập trung của tảo trong nước biển
31. Phần trăm DS sống ở khu vực bờ biển
Ngư nghiệp
32. Loài hải sản chính bị bắt hàng năm
Nước
sạch
Số lượng
33. Mức độ cạn kiệt của nguồn nước ngầm và
nước mặt so với tổng nguồn nước
Chất lượng
34. BOD trong khối nước
35. Mức tập trung của Faecal Coliform trong
nước sạch
Đa dạng
sinh học
Hệ sinh thái
36. Diện tích hệ sinh thái chủ yếu được lựa chọn
37. Diện tích được bảo vệ so với tổng diện tích
Loài 38. Sự đa dạng của số loài được lựa chọn
K I N H T Ế
Cơ cấu
kinh tế
Hiện trạng kinh
tế
39. GDP bình quân đầu người
40. Tỷ lệ đầu tư trong GDP
Thương mại 41. Cán cân thương mại hàng hóa và dịch vụ
Tình trạng tài

chính
42. Tỷ lệ nợ trong GDP
43. Tổng việc trợ ODA hoặc nhận viện trợ ODA
so với GNP
Tiêu dùng vật
chất
44. Mức độ sử dụng vật chất
Sử dụng năng
lượng
45. Tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người
hàng năm
46. Tỷ lệ tiêu dùng nguồn năng lượng có thể tái
sinh
47. Mức độ sử dụng năng lượng
Mẫu
hình sản
Xả thải và quản
lý xả thải
48. Xả thải rắn của công nghiệp và đô thị
49. Chất thải nguy hiểm
6
xuất và
tiêu
dùng
50. Chất thải phóng xạ
51. Chất thải tái sinh
Giao thông vận
tải
52. Khoảng cách vận chuyển theo đầu người
theo một cách thức vận chuyển

T H Ể C H Ế
Khung
khổ thể
chế
Quá trình thực
hiện chến lược
PTBV
53. Chiến lược PTBV quốc gia
Hợp tác quốc tế 54. Thực thi các Công ước quốc tế đã ký
Năng lực
thể chế
Tiếp cận thông
tin
55. Số lượng người truy cập Internet/1000 dân
Cơ sở hạ tầng
thông tin liên lạc
56. Đường điện thoại chính/1000 dân
Khoa học và công
nghệ
57. Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển tính
theo % của GDP
Phòng chống
thảm họa
58. Thiệt hại về người và của do các thảm họa
thiên nhiên
Từ bộ chỉ tiêu phân theo các lĩnh vực nêu trên, trên cơ sở tham khảo kinh
nghiệm các nước đã tham gia các chương trình thử nghiệm, các cơ quan chính
trong hệ thống của Liên Hiệp Quốc, các chuyên gia quốc tế, Hội đồng Phát triển
bền vững của Liên Hiệp Quốc khuyến khích các quốc gia lựa chọn hoặc bổ sung
thêm các chỉ tiêu mới phù hợp với đất nước mình để tiến hành xây dựng bộ chỉ

tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Đối với từng quốc gia, các chỉ tiêu không phù hợp, không có ý nghĩa hoặc
không được thử nghiệm đầy đủ và dựa trên các phương pháp luận không phổ
biến có thể được lược bớt. Đối với mỗi ngành trong một quốc gia, các chỉ tiêu cơ
bản cần được xây dựng phù hợp với đặc thù phát triển của từng ngành, các chỉ
tiêu còn lại trong bộ chỉ tiêu cần đảm bảo sự cân đối giữa các chủ đề của phát
triển bền vững.
7
CHƯƠNG II. ĐÁNH GIÁ TÍNH BỀN VỮNG NGÀNH KHAI KHOÁNG
CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ KHỨ
2.1. Tổng quan về công nghiệp khai khoáng Việt Nam
Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản khá đa dạng và phong phú với
hơn 60 loại khoáng sản tại hơn 5.000 mỏ, điểm quặng. Trong đó, một số loại
khoáng sản có trữ lượng lớn ở quy mô thế giới như bauxit, titan, đất hiếm, đá
vôi… Ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam đã được hình thành khá lâu, đặc
biệt là khai thác than, được thực hiện trên 100 năm nay. Ngành dầu khí và khai
thác khoáng sản thời gian qua đã phát triển nhanh, có đóng góp quan trọng đối
với nguồn thu ngân sách và sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Tuy nhiên, trong giai đoạn tới ngành công nghiệp khai khoáng được dự báo
là sẽ gặp nhiều khó khăn do trữ lượng dầu khí và than đang ngày càng cạn kiệt.
Trong khi đó, mặc dù Việt Nam có một số loại khoáng sản có trữ lượng cao, tầm
cỡ thế giới, nhưng chưa thể đưa vào khai thác quy mô lớn do trên thế giới cũng
có rất nhiều loại khoáng sản này và nhu cầu sử dụng hiện tại là không cao. Trong
khi đó những loại khoáng sản quý hiếm mà thế giới cần như vàng, bạc, chì, kẽm,
kim cương… thì Việt Nam lại có ít, hoặc không có.
Hiện nay, phần lớn các mỏ khoáng sản quan trọng, có quy mô lớn đang
được quản lý và khai thác bởi các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước. Các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào hoạt động khoáng sản còn
hạn chế. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia khai thác, chế biến
khoáng sản quy mô nhỏ và trung bình, loại hình doanh nghiệp này gặp nhiều khó

khăn cả về nguồn nhân lực và vốn, thường sử dụng công nghệ sơ chế, lạc hậu nên
hệ số thu hồi khoáng sản thấp, dẫn đến lãng phí tài nguyên. Tình trạng khai thác
không theo quy hoạch, không theo thiết kế mặc dù đã có xu hướng giảm nhưng
vẫn còn khá phổ biến.
Thực tiễn hoạt động ngành công nghiệp khai khoáng nước ta đã và đang
bộc lộ nhiều bất cập, thiếu tính bền vững. Tình trạng khai thác khoáng sản trái
phép diễn ra khá phổ biến ở nhiều địa phương, gây thất thoát tài nguyên khoáng
sản và nguồn thu ngân sách nhà nước. Khai thác khoáng sản theo kiểu “dễ làm –
khó bỏ”, chưa sử dụng tổng hợp các loại khoáng sản. Nguồn lợi tài nguyên
khoáng sản mà thiên nhiên ban tặng đôi khi rơi vào tay một số nhóm lợi ích thay
vì cho cả một cộng đồng do cơ chế kiểm tra giám sát của các cơ quan nhà nước
còn chưa chặt chẽ. Khai thác khoáng sản cũng đang để lại nhiều ảnh hưởng tiêu
cực, khó khắc phục về môi trường. [2]
Ngành khai khoáng là một ngành công nghiệp đặc biệt, sử dụng trực tiếp
tài nguyên thiên nhiên quốc gia, cụ thể là khoáng sản trong lòng đất. Những hoạt
động của ngành này chủ yếu gồm các hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến, sử
8
dụng khoáng sản và những hoạt động bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng
sản. Những hoạt động trên tác động trực tiếp tới bề mặt đất theo cả chiều rộng
và chiều sâu. Bởi vậy, bên cạnh những nguồn lợi trực tiếp được tạo ra cho doanh
nghiệp và nhà nước, những hoạt động của ngành gây nên những xáo trộn về địa
hình, cảnh quan, hệ sinh thái, môi trường, cũng như tạo nên mâu thuẫn, xung đột
trong việc sử dụng tài nguyên ở những khu vực bề mặt diễn ra hoạt động sản
xuất, sinh hoạt của người dân. Do đó, nếu không được quy hoạch và tổ chức thực
hiện hợp lý, những hoạt động của ngành khai khoáng không chỉ gây ảnh hưởng
nghiêm trọng tới môi trường tự nhiên mà còn có thể gây nên những vấn đề khó
giải quyết trong xã hội như sinh kế người dân khu vực đền bù, chênh lệch mâu
thuẫn giàu nghèo và một số tệ nạn xã hội khác tại những khu khai thác mỏ với
lực lượng lao động từ nhiều vùng miền khác nhau trong cả nước.
2.2. Các chỉ tiêu phát triển bền vững quan trọng đối với ngành khai

khoáng Việt Nam
Để góp phần giúp cho việc nhìn nhận và đánh giá quá trình phát triển của
ngành khai khoáng Việt Nam trong quá khứ, cũng như làm cơ sở cho những kiến
nghị và đề xuất đối với sự phát triển của ngành khai khoáng Việt Nam trong
tương lai, sau quá trình nghiên cứu về đặc điểm của ngành khai khoáng Việt
Nam và tìm hiểu về các chỉ tiêu phát triển bền vững đối với ngành khai khoáng
của một số nước trên thế giới, nhóm đã lựa chọn một số chỉ tiêu mà nhóm cho là
quan trọng và cần thiết giúp đánh giá sự phát triển bền vững của ngành khai
khoáng Việt Nam.
Các chỉ tiêu được lựa chọn để trình bày và tính toán cho ngành khai
khoáng Việt Nam được phân loại theo 4 lĩnh vực: kinh tế, xã hội, môi trường và
thể chế.
Bảng 2. Bộ chỉ tiêu Phát triển bền vững ngành khai khoáng Việt Nam
Chủ đề nhánh
Chỉ tiêu
K I N H T Ế
Cơ cấu kinh tế
1) Đóng góp của ngành khai khoáng cho GDP cả nước
2) Tỉ lệ đầu tư trong GDP
3) Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước
4) Chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong nước
Mẫu hình sản
xuất và tiêu
dùng
5) Hoàn thổ môi trường sau khai thác và xử lý chất
thải sau chế biến
X Ã H Ộ I
Lao động làm
việc
6) Lượng lao động làm việc trong ngành

7) Tỷ lệ lao động làm việc trong ngành đã qua đào
tạo
8) Mức thu nhập bình quân hàng tháng của lao động
trong ngành
9
9) Tỷ lệ tai nạn lao động trên GDP của ngành
T À I N G U Y Ê N & M Ô I T R Ư Ờ N G
Trữ lượng 10) Trữ lượng thăm dò tăng thêm
Khai thác
11) Mức độ tổn thất tài nguyên trong khai thác, chế
biến khoáng sản
12) Tỷ lệ số lượng khoáng sản khai thác vượt quá
nhu cầu của thị trường
13) Hệ số thu hồi khoáng sản
Đất 14) Tỷ lệ suy thoái đất/GDP trong ngành khai khoáng
Rừng
15) Tỷ lệ suy thoái rừng/GDP trong ngành khai
khoáng
16) Mức độ cạn kiệt nguồn nước ngầm và nước mặt
so với tổng nguồn nước
Không khí
17) Phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính từ hoạt động
khai thác, chế biến khoáng sản
T H Ể C H Ế
Khung khổ thể
chế
18) Hệ thống văn bản pháp luật ngành khai khoáng
Năng lực thể chế
19) Hoạt động kiểm toán và công bố thông tin về hoạt
động của ngành khai khoáng

20) Khả năng tiếp cận thông tin về ngành khai
khoáng của người dân
21) Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển công nghệ
sử dụng trong ngành
22) Thiệt hại về người và của do các thảm họa thiên
nhiên
Các chỉ tiêu phát triển bền vững ngành khai khoáng về kinh tế
1) Đóng góp của ngành khai khoáng cho GDP cả nước
Đóng góp của ngành khai khoáng chiếm 4,81% GDP năm 1995, đã tăng lên
khoảng 9,65%-10,59% trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2011. Chỉ tính riêng
năm 2009, doanh thu từ xuất khẩu khoáng sản đạt khoảng 8,5 tỷ USD, trong đó
từ dầu thô đạt 6,2 tỷ USD, chiếm tỷ trọng khá lớn trong thu ngân sách nhà nước
(khoáng 25%).
Tuy nhiên, các số liệu thống kê cho thấy tăng trưởng GDP ngành khai
khoáng có xu hướng không ổn định từ năm 2001 đến năm 2011 (hình 1).
10
Hình 1. Tăng trưởng GDP các ngành, năm 2001-2011
2) Tỷ lệ đầu tư/mức đóng góp GDP của ngành khai khoáng
Đây là tỷ lệ so sánh giữa lượng tiền đầu tư cho các hoạt động của ngành với
mức đóng góp của ngành cho nền kinh tế quốc gia, từ đó xác định được phần
trăm hiệu quả đầu tư vốn cho ngành, nếu phần trăm càng cao thì hiệu quả càng
lớn. Mức đầu tư được xác định là đầu tư nhà nước, đầu tư tư nhân và đầu tư
nước ngoài vào ngành khai khoáng. Chỉ tiêu này có thể tính toán cụ thể nếu có
đầy đủ số liệu về mức đầu tư cho ngành khai khoáng.
Mặc dù được đầu tư cao (đứng thứ 5/18 năm 2008), nhưng hiệu quả đầu tư
của ngành khai khoáng đóng góp vào tăng trưởng GDP (tỷ số giữa GDP do ngành
khai khoáng đóng góp/tổng đầu tư ngành khai khoáng) thấp. Cụ thể năm 2000,
tỷ số này là 4,44 lần (đứng thứ 6/18), năm 2008 là 2,59 lần (đứng thứ 8/18)
thấp hơn so với hiệu quả đầu tư của các ngành kinh tế và lĩnh vực khác (Bảng 3)
Bảng 3. Vị trí ngành khai khoáng so với các ngành kinh tế và lĩnh vực khác [3]

Chỉ tiêu 2000 2008
1. Đầu tư 6 5
2. Đóng góp vào GDP 4 4
3. Việc làm 11 11
4. Hiệu quả đóng góp tăng GDP 6 8
11
3) Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước
Chỉ tiêu này cho biết mức độ đóng góp của ngành trong tổng sản phẩm
trong nước. Có thể thấy mặc dù hoạt động khai thác khoáng sản hiện nay diễn ra
ở nhiều nơi với nhiều hình thức khai thác khác nhau, quy mô sản xuất được mở
rộng và ứng dụng nhiều công nghệ mới, nhưng mức đóng góp của ngành trong
tổng sản phẩm trong nước không biến động nhiều, từ năm 2005 đến năm 2012
chỉ giao động từ 9,7 đến 11,9% (bảng 4). Đây có thể là kết quả của quá trình thu
hẹp và thắt chặt quản lý trong hoạt động cấp phép khai thác khoáng sản ở nước
ta thời gian qua. Ngoài ra, lượng sản phẩm khai thác còn phụ thuộc vào nhu cầu
sử dụng trong nước và nhu cầu xuất khẩu.
Bảng 4. Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế năm 2012
%
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Sơ bộ
2012
Khai khoáng 9,73 9,39 8,96 9,07 9,14 9,97 10,34 11,91
4) Chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong nước
Chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong nước cho biết mức độ phát triển tăng
hay giảm theo phần trăm của năm sau so với năm trước, từ đó có thể thấy được
xu hướng phát triển tổng sản phẩm của ngành khai khoáng trong một giai đoạn
nhất định. Từ bảng số liệu dưới có thể thấy biến động của chỉ số phát triển tổng
sản phẩm trong nước qua các năm là không nhiều và tương đối ổn định.
Bảng 5. Chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh 2010
(Năm trước = 100)

%
Năm
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Sơ bộ
2012
Khai khoáng
101,8
6
98,0
0
97,8
0
96,1
7
107,6
2
101,0
0
101,9
0
104,9
0
5) Hoàn thổ môi trường sau khai thác và xử lý chất thải sau chế biến
Để xác định được chỉ tiêu này, trước hết cần phân loại các loại hình khai
thác khoáng sản. Tương ứng với mỗi loại hình khai thác sẽ có phương pháp hoàn
thổ phục hồi môi trường và xử lý chất thải khác nhau. Từ đó xác định tỷ lệ các
điểm mỏ tiến hành hoàn thổ và xử lý môi trường theo đúng quy định với tổng các
điểm mỏ khai thác khoáng sản ở nước ta, sẽ xác định được chỉ tiêu này. Việc
hoàn thổ môi trường sau khai thác và xử lý chất thải sau chế biến tốt thể hiện sự
quan tâm tới môi trường và xã hội của doanh nghiệp khai thác khoáng sản. Tỷ lệ

chỉ tiêu được xác định cho biết phần trăm khu vực khai thác có cơ hội được trở
12
lại với điều kiện vốn có ban đầu và tiến hành phục hồi môi trường trở lại. Do vậy,
phần trăm càng cao thì càng thể hiện tính bền vững.
Những năm gần đây, vấn đề hoàn thổ môi trường được các nhà khoa học
đề cập nhiều và cũng được quy định trong các văn bản pháp luật của nhà nước,
tuy nhiên, cho đến nay ở nước ta vẫn chưa có mỏ khai thác khoáng sản nào hoàn
thổ môi trường đúng quy định. Vấn đề xử lý ô nhiễm trong và sau khai thác vẫn
chưa thực sự được coi là hoạt động của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, mà vẫn chỉ là những quy định và yêu cầu của các cơ quan nhà nước.
→ Có thể thấy, tổng vốn đầu tư cho ngành khai thác khoáng sản chiếm vị trí cao
so với nhiều ngành và lĩnh vực kinh tế khác nhưng hiệu quả đóng góp vào tăng
trưởng GDP (tỷ số giữa đóng góp vào GDP của ngành khai khoáng/tổng đầu tư
cho khai khoáng) chưa cao. Cụ thể là tổng vốn đầu tư cho ngành khai khoáng từ
năm 2005-2008 đứng vị trí thứ 5/18 ngành và lĩnh vực, nhưng hiệu quả đóng
góp cho nền kinh tế chỉ đứng thứ 8 so với các ngành kinh tế và lĩnh vực khác.
Các chỉ tiêu phát triển bền vững ngành khai khoáng về xã hội
6) Lượng lao động làm việc trong ngành
Lượng lao động làm việc trong ngành thể hiện lượng công ăn việc làm mà
ngành mang lại cho xã hội. Trong giai đoạn 2005-2012, lượng lao động trong
ngành khai khoáng chiếm khoảng 0,6% lượng lao động cả nước, tỷ lệ này có xu
hướng tương đối ổn định. (bảng 5)
7) Tỷ lệ lao động làm việc trong ngành đã qua đào tạo
Lao động đã qua đào tạo là những người đã học và tốt nghiệp ở một
trường lớp đào tạo chuyên môn kỹ thuật của cấp học hoặc trình độ đào tạo
tương đương thuộc Hệ thống giáo dục quốc dân từ 3 tháng trở lên (có văn bằng
hoặc chứng chỉ công nhận kết quả đào tạo). Tỷ lệ lao động làm việc trong ngành
khai khoáng đã qua đào tạo thể hiện chất lượng lao động làm việc trong ngành,
tỷ lệ cao tương ứng với chất lượng lao động cao.
Trong số hơn 280.000 lao động làm việc trong ngành khai khoáng hàng

năm, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo dao động từ 33-42% qua các năm. Tỷ lệ này
có xu hướng tăng do khả năng tiếp cận giáo dục và các chính sách đào tạo nhân
lực ở nước ta đang được chú trọng quan tâm trong những năm gần đây.
Bảng 6. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm
Nghìn người
2005 2007 2008 2009 2010 2011
Sơ bộ
2012
TỔNG

42774,
9
45208,
0
46460,
8
47743,
6
49048,5
50352,
0
51699,0
Khai 256,5 298,8 291,4 291,5 275,6 279,1 286,9
13
khoáng
(%) 0,6 0,7 0,6 0,6 0,6 0,6 0,6
8) Mức thu nhập bình quân hàng tháng của lao động trong ngành
Theo dữ liệu của Tổng cục thống kê, mức thu nhập bình quân hàng tháng
của lao động trong ngành khai khá cao so với các ngành khác trong cả nước. Tuy
nhiên, mức thu nhập có xu hướng không ổn định theo thời gian.

Bảng 7. Thu nhập bình quân hàng tháng của lao động theo giá năm 2012

Nghìn
đồng
Ngành kinh tế 2005 2009 2010 2011 Sơ bộ 2012
Nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản 1130,4
2688,
3
3125,
2
4165,
7 5199,0
Khai khoáng
3504,
0
6439,
9
4453,
2
4852,
8 5532,9
Công nghiệp chế biến, chế tạo 1777,4
2742,
2
3280,
0
3955,
6 4472,3
Xây dựng 1566,9

2746,
2
3122,
5
3669,
0 4624,1
Hoạt động tài chính, ngân hàng
và bảo hiểm 3353,0
6811,
0
6380,
6
6573,
2 6853,7
Giáo dục và đào tạo 1337,0
2754,
2
2980,
0
3426,
4 4263,0
Y tế và hoạt động trợ giúp xã
hội 1322,1
2840,
5
3104,
6
3628,
4 4490,6
Hoạt động dịch vụ khác 1287,4

2563,
2
2524,
4
2507,
5 3090,8
9) Tỷ lệ tai nạn lao động trong ngành/mức đóng góp GDP của ngành
Chỉ tiêu này thể hiện mức độ thiệt hại về con người so với mức độ đóng
góp vào nền kinh tế của ngành khai khoáng. Số lượng tai nạn lao động thể hiện
chất lượng môi trường làm việc của người lao động. Tai nạn lao động ít thể hiện
một quá trình sản xuất an toàn và hiệu quả. Chỉ tiêu tính toán được theo các năm
có thể cho thấy xu hướng hoạt động của ngành khai khoáng.
Đối với chỉ tiêu này, hiện nay chưa có số liệu thống kê để xác định.
→ Nhìn chung, dù tạo được nhiều việc làm cho xã hội, nhưng so với số lượng việc
là của các ngành kinh tế khác thì số lượng việc làm trong ngành khai khoáng
cũng chưa tương xứng với vốn đầu tư và chỉ đứng thứ 11/18 so với các ngành
kinh tế và lĩnh vực khác (giai đoạn 2002-2012). Hơn nữa, chỉ có dưới 50% lao
14
động trong ngành khai khoáng có việc làm ổn định trong các doanh nghiệp, số
còn lại chỉ có việc làm ngắn hạn và thu nhập bấp bênh.
15
Các chỉ tiêu phát triển bền vững ngành khai khoáng về tài nguyên và môi
trường
10) Trữ lượng thăm dò tăng thêm
Việc thăm dò tài nguyên khoáng sản trong lòng đất góp phần giải quyết
vấn đề khan hiếm tài nguyên của hiện tại, Đồng thời, hướng tới việc thỏa mãn
những nhu cầu của thế hệ tương lai. Việc quan trắc, thăm dò trữ lượng tài
nguyên khoáng sản cần được đầu tư và tiến hành một cách hiệu quả. Đồng thời,
lên kế hoạch cho việc khai thác những mỏ đã thăm dò và đủ điều kiện nguồn lực
để có thể khai thác và chế biến sâu, giữ lại những mỏ khoáng sản mới phát hiện

và nghiên cứu công nghệ chế biến sâu dành cho các thế hệ mai sau.
11) Mức độ tổn thất tài nguyên trong khai thác, chế biến khoáng sản
Hiện nay, tổn thất tài nguyên trong khai thác, chế biến khoáng sản chủ yếu
là do hoạt động khai thác lậu, xuất khẩu thô tài nguyên, quá trình khai thác sử
dụng công nghệ lạc hậu, vừa gây tổn thất tài nguyên vừa gây ảnh hưởng xấu tới
môi trường. Mức độ tổn thất cho biết khả năng tổ chức và quản lý hoạt động khai
thác khoáng sản của Chính phủ, đồng thời, cho biết công nghệ sử dụng trong các
hoạt động của ngành có đảm bảo bảo vệ môi trường hay không.
Với chỉ tiêu này, mức độ tổn thất tài nguyên trong hoạt động của ngành
khai khoáng cao, thì sự phát triển được xem là có xu hướng không bền vững
Hiện nay ở nước ta, do công nghệ khai thác chế biến chưa được quan tâm
đúng mức, phần lớn những cơ sở khai thác chế biến quy mô nhỏ, khai thác và sản
xuất manh mún nên mức độ thu hồi thất và không thu hồi được các khoáng sản
đi kèm gây thất thoát tài nguyên lớn. Theo báo cáo của Tập đoàn Than và
Khoáng sản Việt Nam (TKV), tổn thất trong khai thác than ở Quảng Ninh vào
khoảng 7,3-7,7% đối với khai thác lộ thiên và khoảng 28-31% trong khai thác
hầm lò. Độ thu hồi quặng vàng trong chế biến (tổng thu hồi) hiện chỉ đạt khoảng
30-40% và không chỉ mất mát mà còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. [2]
12) Tỷ lệ số lượng khoáng sản khai thác vượt quá nhu cầu của thị trường
Chỉ tiêu này cho biết lượng khoáng sản dư thừa trên thị trường, thể hiện
sự lãng phí trong khai thác và sử dụng tài nguyên. Đồng thời cho biết cơ sở để
điều chỉnh kế hoạch sản xuất cho phù hợp.
Nếu tỷ lệ số lượng khoáng sản khai thác vượt quá nhu cầu của thị trường
càng lớn thì sự phát triển có xu hướng không bền vững.
13) Hệ số thu hồi khoáng sản
Hệ số thu hồi khoáng sản (K) là tỷ lệ trữ lượng khai thác được tính toán
trên cơ sở phương pháp khai thác với trữ lượng địa chất thực tế. Chỉ tiêu này thể
hiện khả năng khai thác tối ưu tài nguyên khoáng sản.
Hệ số thu hồi khoáng sản liên quan đến phương pháp khai thác, được quy
định như sau: Khai thác lộ thiên K = 0,9; khai thác hầm lò K = 0,6; khai thác nước

khoáng, nước nóng thiên nhiên và các trường hợp còn lại K = 1,0;
16
Phương pháp và công nghệ sử dụng càng hiện đại thì hệ số thu hồi khoáng
sản càng cao, và ngược lại. Nếu hệ số thu hồi khoáng sản tương ứng với phương
thức khai thác trên nhỏ hơn mức quy định thể hiện sự lãng phí tài nguyên, dẫn
đến xu hướng phát triển không bền vững.
14) Tỷ lệ suy thoái đất khu vực khai thác khoáng sản/mức đóng góp GDP của ngành
15) Tỷ lệ suy thoái rừng khu vực khai thác khoáng sản/mức đóng góp GDP của
ngành
16) Mức độ cạn kiệt nguồn nước ngầm và nước mặt so với tổng nguồn nước khu vực
có hoạt động khai thác khoáng sản
17) Phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính từ hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản
Chỉ tiêu 14-17 thể hiện mức độ suy thoái về môi trường so với mức độ
đóng góp vào nền kinh tế của ngành khai khoáng. Tỷ lệ suy thoái, mức độ cạn kiệt
tài nguyên đất, nước, rừng và sự phát thải khí nhà kính khu vực khai thác
khoáng sản cao thể hiện sự thiếu quan tâm tới môi trường trong hoạt động sản
xuất, dẫn đến những suy thoái và ô nhiễm gây ảnh hưởng tới môi trường tự
nhiên, để lại hậu quả cho hiện tại và tương lai. Nếu các chỉ tiêu trên có xu hướng
cao, sự phát triển thể hiện xu hướng không bền vững.
Trong quá trình hoạt động, ngành khai khoáng đã gây ra nhiều hậu quả về
tài nguyên môi trường, ảnh hưởng đến kinh tế xã hội, và cũng phải đối mặt với
những vấn đề và thách thức liên quan đến nền quản trị thiếu bền vững. Điều này
được thể hiện ở những điểm sau:
+ Từ năm 2005, quyết định phân cấp phê duyệt khai thác khoảng sản đã
hình thành cơ chế “xin-cho” trong ngành khai khoáng. Một số lượng lớn
giấy phép khai thác khoáng sản đã được thông qua nhanh chóng đi kèm
với tình trạng hỗn loạn và thiếu điều kiện giám sát hoạt động ở cấp tỉnh.
+ Tình trạng truy thu và nộp thuế tài nguyên không được tuân thủ nghiêm
ngặt vì hoàn toàn dựa trên khai báo của doanh nghiệp. Do vậy, có những
doanh nghiệp khai thác 10 phần, thì chỉ khai báo và đóng thuế cho nhà

nước 5 phần. Đôi khi lợi nhuận từ các nguồn tài nguyên lại rơi vào tay một
số nhóm lợi ích thay vì cộng đồng. [1]
+ Tình trạng khai thác khoáng sản trái phép diễn ra phổ biến tại rất nhiều
địa phương, gây thất thoát nguồn tài nguyên khoáng sản và làm thất thu
ngân sách quốc gia.
+ Là một trong những ngành gây tác động và hủy hoại môi trường nặng nề,
nhưng việc tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường, cũng như hoạt
động phục hồi sau khai thác chưa được thực hiện đầy đủ trong ngành
công nghiệp khai khoáng. Quá trình kiểm tra, giám sát và quản lý của cơ
quan nhà nước còn chưa được thực hiện một cách có hiệu quả.
17
+ Chưa có chiến lược phát triển hợp lý: Ví dụ, Việt Nam là nước xuất khẩu
than, nhưng với trữ lượng và tình trạng khai thác hiện nay, nước ta sẽ
phải nhập khẩu than trong tương lai.
Do vậy, các chỉ tiêu liên quan đến thể chế được lựa chọn gồm có:
18) Hệ thống văn bản pháp luật ngành khai khoáng
19) Hoạt động kiểm toán và công bố thông tin về hoạt động của ngành khai khoáng
20) Khả năng tiếp cận thông tin về ngành khai khoáng của người dân
21) Đầu tư cho nghiên cứu, phát triển công nghệ sử dụng trong ngành
22) Thiệt hại về người và của do các thảm họa thiên nhiên
Để phát triển theo mô hình bền vững thì đòi hỏi quốc gia phải có tiềm lực
vững mạnh về nhân lực và vật lực. Năng lực thể chế tăng khả năng lập kế hoạch,
thực hiện và giám sát trong quá trình phát triển bền vững. Tiềm lực càng lớn thì
sẽ giúp hoàn thiện các kỹ năng cộng đồng, đánh giá các lựa chọn chính sách được
rõ ràng và minh bạch hơn.
Năng lực thể chế là một công cụ rất có ý nghĩa cho tiến trình phát triển
theo hướng bền vững, nhưng rất khó để ước định số lượng các chỉ tiêu này một
cách thích hợp. Các chỉ tiêu được lựa chọn cho chủ đề này là để đánh giá khả
năng tiếp cận thông tin, hệ thống pháp luật, hệ thống thu chi, trình độ khoa học
công nghệ và khả năng phòng ngừa, chống chọi và ứng phó với thiên tai của Việt

Nam.
Hoạt động thu - chi các khoản thuế, phí và lệ phí, hoạt động kiểm toán,
minh bạch thông tin ngành công nghiệp khai khoáng ở nước ta hiện đang tồn tại
những vấn đề sau:
+ Những thông tin về các nguồn thu chi còn nhiều điểm thiếu minh bạch và
không nhất quán do không có hệ thống pháp lý đầy đủ về quy định trách
nhiệm công bố thông tin.
+ Phương thức xác định giá thuế để tính thuế tài nguyên dựa theo hóa đơn
xuất của doanh nghiệp, có thể dẫn đến hiện tượng doanh nghiệp khai
khoáng thỏa thuận với đối tác ghi giá trên hóa đơn thấp hơn so với giá
trên thị trường nhằm trốn một phần thuế tài nguyên. (hiện tượng doanh
nghiệp khai báo không đúng sản lượng đã diễn ra ở nhiều địa phương
khai thác khoáng sản như than, titan )
+ Việc sử dụng nguồn phí bảo vệ môi trường không được thông báo rộng
rãi, vấn đề ô nhiễm môi trường không được giải quyết, nhưng thực tế
doanh nghiệp đã nộp phí bảo vệ môi trường. Ở nhiều địa phương, phí bảo
vệ môi trường được sử dụng chưa đúng mục đích, chẳng hạn dùng để xây
dựng cơ sở hạ tầng như nhà văn hóa, giao thông không mang tính chất
bảo vệ môi trường gây nên sự thiếu rõ ràng trong việc phân bổ nguồn chi
18
phí kết hợp với tình trạng thiếu công khai thông tin, ảnh hưởng không tốt
trong hoạt động quản lý nguồn thu từ khoáng sản.
+ Do có khá nhiều quy định pháp lý nhưng nhìn chung, giữa những quy định
pháp luật và thực thi pháp luật trong công tác thu ngân sách và công bố
thông tin của ngành công nghiệp khai khoáng ở Việt Nam còn nhiều
khoảng trống. Mặt khác, do thiếu công cụ giám sát và quản lý chặt chẽ,
nhà nước đã và đang mất đi một số khoản thu đáng kể.
+ Thông tin về các nguồn thu chi còn thiếu minh bạch, chỉ có các doanh
nghiệp đã niêm yết trên sàn chứng khoán là thường xuyên công khai
thông tin chi tiết về nguồn thu-chi, những doanh nghiệp còn lại và các cơ

quan quản lý nhà nước hầu như không công bố rộng rãi những dữ liệu về
nguồn thu-chi. Do vậy, khả năng tiếp cận thông tin về nguồn thu chi đối
với người dân là không thể.
Có thể thấy những đóng góp của ngành công nghiệp khai khoáng đối
với sự phát triển kinh tế nước ta. Tuy nhiên, từ quá trình phân tích các chỉ
tiêu ở mục 2.2, có thể thấy sự phát triển của ngành khai khoáng của nước
ta hiện nay có xu hướng không bền vững.
19
CHƯƠNG III. CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
NGÀNH KHAI KHOÁNG VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI
Trên cơ sở những phân tích và đánh giá ở chương trước, một số biện pháp
được đề xuất giúp phát triển bền vững ngành khai khoáng Việt Nam trong tương
lai được trình bày dưới đây.
3.1. Nâng cao năng lực kiểm toán
Cải thiện công tác đào tạo và nâng cao chất lượng ngành kiểm toán nói
chung và kiểm toán môi trường nói riêng. Quan tâm đến các yếu tố đầu vào và
đầu ra của quá trình sản xuất để giúp phát hiện những quy trình, công đoạn tốn
kém và gây ô nhiễm để có những biện pháp cải thiện phù hợp giúp tiết kiệm chi
phí và bảo vệ môi trường.
Cùng với những thể chế thắt chặt về thuế và phí môi trường từ hoạt động
khai thác khoáng sản, năng lực kiểm toán được nâng cao cũng sẽ giúp cho nhà
nước quản lý tốt nguồn thu này, tránh thất thoát gây lãng phí.
3.2. Nâng cao chất lượng môi trường lao động tại các khu vực khai thác
khoáng sản
Con người là trung tâm của phát triển bền vững. Với đặc thù của ngành
khai thác khoáng sản, môi trường làm việc của người lao động là rất độc hại. Do
vậy, cần có những biện pháp nâng cao chất lượng môi trường làm việc của người
lao động tại những khu vực này, như tăng cường các yêu cầu về thiết bị bảo hộ
cho người lao động làm việc tại các mỏ khai thác khoáng sản, thường xuyên kiểm
tra hiện trạng các thành phần môi trường khu vực mỏ để có những biện pháp

điều chỉnh cho phù hợp.
3.3. Sử dụng công nghệ khai thác hiện đại, thân thiện với môi trường
Công nghệ khai thác là yếu tố rất quan trọng quyết định quá trình sản
xuất. Cần có những nghiên cứu về sử dụng công nghệ sản xuất sạch, thân thiện
với môi trường. Đồng thời đầu tư nâng cấp trang thiết bị máy móc để hạn chế
các tác động tới môi trường từ hoạt động sản xuất
3.4. Sáng kiến minh bạch ngành công nghiệp khai khoáng (EITI)
Sáng kiến minh bạch ngành công nghiệp khai khoáng là một sáng kiến
toàn cầu. Sáng kiến này xây dựng những nội dung, nguyên tắc và cách thức giúp
đạt được sự cân bằng giữa các nhóm lợi ích: chính phủ, doanh nghiệp và cộng
đồng.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đang xem xét tham gia EITI. Thực
hiện EITI có thể giúp cải thiện tình trạng tham nhũng hiện nay trong nền kinh tế,
giúp cộng đồng được tiếp cận các nguồn thông tin một cách dễ dàng hơn, đồng
20
thời góp phần cải thiện hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp khai thác
khoáng sản.
3.5. Định hướng nghiên cứu khoa học và đào tạo phục vụ phát triển bền
vững ngành công nghiệp khai khoáng
Nghiên cứu về phát triển bền vững ở nước ta hiện nay vẫn còn là một
ngành nghiên cứu mới. Cần có những định hướng nghiên cứu cụ thể hơn trong
tương lai để giúp đo lường, đánh giá và có những biện pháp kịp thời điều chỉnh
hoạt động phát triển theo hướng bền vững trong tương lai.
Tài liệu tham khảo
1. Phát triển bền vững, Lý thuyết và khái niệm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Dự án
VIE/01/021.
2. Sáng kiến minh bạch ngành công nghiệp khai khoáng – EITI và khả năng
tham gia của Việt Nam, CODE, 2011.
3. Một số tài liệu thu thập tại website Tổng cục thống kê và website Bộ Tài
nguyên và Môi trường.

21

×