Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

BÀI TẬP NHÓM MÔN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG : CÁC CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH THỦY SẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.71 KB, 36 trang )

MỤC LỤC
I. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH THỦY SẢN
1. Vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
Cung cấp thực phẩm, tạo nguồn dinh dưỡng cho mọi người dân Việt Nam
50% sản lượng đánh bắt hải sản ở vùng biển Bắc Bộ, Trung Bộ và 40% sản lượng đánh
bắt ở vùng biển Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ được dùng làm thực phẩm cho nhu cầu
của người dân Việt Nam. Nuôi trồng thuỷ sản phát triển rộng khắp, tới tận các vùng
sâu vùng xa, góp phần chuyển đổi cơ cấu thực phẩm trong bữa ăn của người dân Việt
Nam, cung cấp nguồn dinh dưỡng dồi dào. Từ các vùng đồng bằng đến trung du miền
núi, tất cả các ao hồ nhỏ đều được sử dụng triệt để cho các hoạt động nuôi trồng thuỷ
sản. Trong thời gian tới, các mặt hàng thủy sản sẽ ngày càng có vị trí cao trong tiêu thụ
thực phẩm của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam
Đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm
Ngành Thuỷ sản là một trong những ngành tạo ra lương thực, thực phẩm, cung cấp các
sản phẩm tiêu dùng trực tiếp. Có thể nói Ngành Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong
việc cung cấp thực phẩm cho người dân, không những thế nó còn là một ngành kinh tế
tạo cơ hội công ăn việc làm cho nhiều cộng đồng nhân dân, đặc biệt ở những vùng
nông thôn và vùng ven biển. Những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2001 đến năm 2004,
công tác khuyến ngư đã tập trung vào hoạt động trình diễn các mô hình khai thác và
nuôi trồng thuỷ sản, hướng dẫn người nghèo làm ăn. Hiện tại, mô hình kinh tế hộ gia
đình được đánh giá là đã giải quyết cơ bản công ăn việc làm cho ngư dân ven biển. Bên
cạnh đó, mô hình kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần giải quyết việc
làm cho nhiều lao động ở các vùng, nhất là lao động nông nhàn ở các tỉnh Nam Bộ và
Trung Bộ. Nghề khai thác thuỷ sản ở sông Cửu Long được duy trì đã tạo công ăn việc
làm cho 48.000 lao động ở 249 xã ven sông.
1
Xoá đói giảm nghèo
Ngành Thuỷ sản đã lập nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo bằng việc phát triển các
mô hình nuôi trồng thuỷ sản đến cả vùng sâu, vùng xa, không những cung cấp nguồn
dinh dưỡng, đảm bảo an ninh thực phẩm mà còn góp phần xoá đói giảm nghèo. Tại các
vùng duyên hải, từ năm 2000, nuôi thuỷ sản nước lợ đã chuyển mạnh từ phương thức


nuôi quảng canh sang quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh, thậm chí nhiều
nơi đã áp dụng mô hình nuôi thâm canh theo công nghệ nuôi công nghiệp. Các vùng
nuôi tôm rộng lớn, hoạt động theo quy mô sản xuất hàng hoá lớn đã hình thành, một bộ
phận dân cư các vùng ven biển đã giàu lên nhanh chóng, rất nhiều gia đình thoát khỏi
cảnh đói nghèo nhờ nuôi trồng thuỷ sản.Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ở các mặt nước
lớn như nuôi cá hồ chứa cũng đã phát triển, hoạt động này luôn được gắn kết với các
chương trình phát triển trung du miền núi, các chính sách xoá đói giảm nghèo ở vùng
sâu vùng xa.
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn
Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển một cách toàn diện một nền kinh tế biển.
Nếu như trước đây việc lấn ra biển, ngăn chặn những ảnh hưởng của biển để mở rộng
đất đai canh tác là định hướng cho một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước thì hiện nay
việc tiến ra biển, kéo biển lại gần sẽ là định hướng khôn ngoan cho một nền kinh tế
công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong những thập kỉ qua, nhiều công trình hồ thuỷ
điện đã được xây dựng, khiến nước mặn ngoài biển thâm nhập sâu vào vùng cửa sông,
ven biển. Đối với nền canh tác nông nghiệp lúa nước thì nước mặn là một thảm hoạ,
nhưng với nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ thì nước mặn được nhận thức là một
tiềm năng mới, vì hoạt động nuôi trồng thuỷ sản có thể cho hiệu quả canh tác gấp hàng
chục lần hoạt động canh tác lúa nước.Một phần lớn diện tích canh tác nông nghiệp kém
hiệu quả đã được chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản. Nguyên nhân của hiện tượng này là
do giá thuỷ sản trên thị trường thế giới những năm gần đây tăng đột biến, trong khi giá
các loại nông sản xuất khẩu khác của Việt Nam lại bị giảm sút dẫn đến nhu cầu chuyển
đổi cơ cấu diện tích giữa nuôi trồng thủy sản và nông nghiệp càng trở nên cấp bách.
Chính phủ đã đưa ra nghị quyết 09 NQ/CP ngày 15/6/2000 về chuyển đổi cơ cấu kinh
2
tế trong nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và đó cũng là yếu tố giúp cho
quá trình chuyển đổi diện tích nuôi trồng thuỷ sản càng diễn ra nhanh, mạnh và rộng
khắp hơn. Quá trình chuyển đổi diện tích, chủ yếu từ lúa kém hiệu quả, sang nuôi trồng
thuỷ sản diễn ra mạnh mẽ nhất vào các năm 2000-2002: hơn 200.000 ha diện tích được
chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản hoặc kết hợp nuôi trồng thủy sản, tuy nhiên từ

2003 đến nay ở nhiều vùng vẫn tiếp tục chuyển đổi mạnh, năm 2003 đạt 49.000 ha và
năm 2004 đạt 65.400 ha. Có thể nói nuôi trồng thủy sản đã phát triển với tốc độ nhanh,
thu được hiệu quả kinh tế - xã hội đáng kể, từng bước góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế
ở các vùng ven biển, nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo và làm giàu cho nông
dân.Tại nhiều vùng nông thôn, phong trào nuôi cá ruộng trũng phát triển mạnh mẽ.
Đây là hình thức nuôi cho năng suất và hiệu quả khá lớn, được đánh giá là một trong
những hướng chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, góp phần làm tăng thu nhập cho
người lao động và xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Tính đến nay, tổng diện tích ruộng
trũng có thể đưa vào nuôi cá theo mô hình cá - lúa là 446.151 ha. Năm 2001, diện tích
đã nuôi được xác định là 239.379 ha, con số này vẫn tiếp tục tăng trong những năm
tiếp theo.
Tạo nghề nghiệp mới, tăng hiệu quả sử dụng đất đai
Ao hồ nhỏ là một thế mạnh của nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng nông thôn Việt Nam.
Người nông dân sử dụng ao hồ nhỏ như một cách tận dụng đất đai và lao động. Hầu
như họ không phải chi phí nhiều tiền vốn vì phần lớn là nuôi quảng canh. Tuy nhiên,
ngày càng có nhiều người nông dân tận dụng các mặt nước ao hồ nhỏ trong nuôi trồng
thuỷ sản nước ngọt với các hệ thống nuôi bán thâm canh và thâm canh có chọn lọc đối
tượng cho năng suất cao như mè, trắm, các loại cá chép, trôi Ấn Độ và các loài cá rô
phi đơn tính.
Nguồn xuất khẩu quan trọng
Trong nhiều năm liền, Ngành Thuỷ sản luôn giữ vị trí thứ 3 hoặc thứ 4 trong bảng danh
sách các ngành có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất đất nước
Ngành thuỷ sản là một trong 10 ngành có kim ngạch xuất khẩu đạt trên một tỷ USD.
Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt gần 2,7 tỷ USD.
3
Đảm bảo chủ quyền quốc gia, đảm bảo an ninh quốc phòng ở vùng sâu,
vùng xa, nhất là ở vùng biển và hải đảo
Ngành Thuỷ sản luôn giữ vai trò quan trọng trong bảo vệ an ninh, chủ quyền trên biển,
ổn định xã hội và phát triển kinh tế các vùng ven biển, hải đảo, góp phần thực hiện
chiến lược quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.Năm 1997, Thủ tướng chính phủ

đã ký Quyết định số 393/TTg phê duyệt Chương trình cho vay vốn tín dụng đầu tư
đóng tàu khai thác hải sản xa bờ. Thực hiện quyết định này, từ năm 1997 đến năm
1999, Tổng cục Đầu tư và Phát triển đã cho vay 867.871 triệu đồng, tương đương với
802 con tàu. Năm 2000, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 64/2000/QĐ-TTg về
việc sửa đổi quy chế quản lý và sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
cho các dự án đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt tàu dịch vụ và đánh bắt hải sản xa bờ,
tổng số vốn đã duyệt cho vay từ năm 2000 đến năm 2005 là 182.372 triệu đồng để
đóng mới 166 con tàu. Việc gia tăng số lượng tàu lớn đánh bắt xa bờ không chỉ nhằm
khai thác các tiềm năng mới, cung cấp nguyên liệu cho chế biến mà còn góp phần bảo
vệ an ninh quốc phòng trên các vùng biển của nước ta.Tính đến nay, rất nhiều cảng cá
quan trọng đã được xây dựng theo chương trình Biển đông hải đảo, cụ thể là: Cô Tô
(Quảng Ninh), Bạch Long Vĩ và Cát Bà (Hải Phòng), Hòn Mê (Thanh Hoá), Cồn Cỏ
(Quảng Trị), Lí Sơn (Quảng Nam), Phú Quí (Bình Thuận), Côn Đảo(Bà Rịa-Vũng
Tàu), Hòn Khoai (Cà Mau), Nam Du, Thổ Chu và Phú Quốc (Kiên Giang). Hệ thống
cảng cá tuyến đảo này sẽ được hoàn thiện đồng bộ để phục vụ sản xuất nghề cá và góp
phần bảo vệ chủ quyền an ninh vùng biển của tổ quốc.
4
2. Sản xuất thủy sản ở Việt Nam
Nước ta với hệ thống sông ngòi dày đặc và có đường biển dài hơn 3.260 km, nên rất
thuận lợi phát triển hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản. Trong năm 2012, sản
lượng khai thác tăng mạnh 10,6% so với năm 2011, chủ yếu do sản lượng đánh bắt cá
ngừ tăng mạnh ở các tỉnh miền Trung nhờ thời tiết thuận lợi và việc ngư dân sử dụng
công nghệ đánh bắt cá ngừ đại dương bằng đèn cao áp, nâng công suất lên gấp đôi và
giảm thời gian đi biển 15-30%. Trong khi đó, sản lượng nuôi trồng năm 2012 chỉ tăng
6,8% khi hoạt động nuôi tôm gần như không tăng trưởng do hội chứng tôm chết sớm
EMS hoành hành trên diện rộng. Sản lượng cá tra chỉ tăng nhẹ 3,4% trong năm 2012,
nhưng đã đạt mức cao kỷ lục 1.190 nghìn tấn. Tăng trưởng sản lượng nuôi trồng đến
chủ yếu từ hoạt động nuôi trồng các loài thủy sản khác, với mức tăng khá cao 10,6%
trong năm 2012.
Sản lượng thủy sản Việt Nam đã duy trì tăng trưởng liên tục trong 17 năm qua với mức

tăng bình quân là 9,07%/năm. Với chủ trương thúc đẩy phát triển của chính phủ, hoạt
5
động nuôi trồng thủy sản đã có những bước phát triển mạnh, sản lượng liên tục tăng
cao trong các năm qua, bình quân đạt 12,77%/năm, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng
tổng sản lượng thủy sản của cả nước. Trong khi đó, trước sự cạn kiệt dần của nguồn
thủy sản tự nhiên và trình độ của hoạt động khai thác đánh bắt chưa được cải thiện, sản
lượng thủy sản từ hoạt động khai thác tăng khá thấp trong các năm qua, với mức tăng
bình quân 6,42%/năm.
3. Quan điểm, định hướng phát triển ngành thủy sản đến năm 2020
Quán triệt đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng, trên tinh thần tiếp tục và
đẩy nhanh công cuộc đổi mới của đất nước, để góp phần thực hiện được các mục tiêu
kinh tế xã hội đề ra trong năm 2010, đảm bảo yêu cầu gắn kết giữa phát triển sản xuất
đa dạng với bảo vệ chủ quyền vùng biển và an ninh quốc phòng, quan điểm phát triển
Ngành Thuỷ sản đến năm 2020 được xác định là:
3.1Tiếp tục phát huy và phát huy hơn nữa tiềm năng và các nguồn lực để xây dựng
thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX Đảng
Cộng sản Việt Nam.
3.2Tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến
gắn với chuyển dịch cơ cấu đưa Ngành Thuỷ sản nhanh chóng trở thành một ngành
6
sản xuất hàng hoá thống nhất, có tính cạnh tranh cao, có tỷ trọng xứng đáng trong
cơ cấu GDP các ngành nông-lâm-ngư nghiệp và trong nền kinh tế quốc dân.
3.3Coi trọng mở mang thị trường sản phẩm, cả xuất khẩu và nội địa; xuất khẩu được
coi là mũi nhọn trong nhiều năm tới để xác định cơ cấu sản phẩm phù hợp. Cơ
cấu này cùng với các yêu cầu an ninh thực phẩm phải tạo ra sự thống nhất trong
mọi khâu và mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh của ngành, không tác động có hại
đến các ngành kinh tế liên quan phù hợp với các yêu cầu bảo vệ môi trường sinh
thái, giữ gìn và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên.
3.4Phát huy rộng rãi sự tham gia của các thành phần kinh tế để phát triển sản xuất
kinh doanh, góp phần đáng kể trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, nâng cao

cuộc sống tinh thần, vật chất và dân trí của dân cư ven biển, hải đảo. Phát triển
kinh tế gắn với bảo đảm an ninh quốc phòng.
3.5Chủ động hội nhập Quốc tế và khu vực Đông Nam Á; xây dựng năng lực quản lý
ngành đáp ứng các yêu cầu của thị trường xuất khẩu và tiếp cận nghề cá có trách
nhiệm. Tranh thủ các kinh nghiệm quản lý và công nghệ tiên tiến trong nghề cá
thế giới trên cơ sở thu hút và thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án hợp tác
quốc tế.
Theo những quan điểm đó, định hướng phát triển thuỷ sản từ nay đến năm
2020 sẽ là:
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đi đôi với chuyển dịch cơ cấu để đảm bảo phát triển
bền vững, hiệu quả. Ưu tiên xây dựng và hoàn thiện hạ tầng cơ sở nghề cá, coi trọng
phát triển nguồn nhân lực để qua từng kế hoạch 5 năm đạt được các tiến bộ vững
chắc, nhằm cơ bản công nghiệp hoá ngành theo hướng hiện đại vào năm 2020.
- Tăng cường quản lý để nghề khai thác thuỷ sản có sự tăng trưởng hợp lý gắn với bảo
vệ và phát triển nguồn lợi. Đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản, khai thác mạnh các tiềm
năng nuôi biển và các khu vực nước ngọt. Khai thác hợp lý tuyến nước lợ, kết hợp
nuôi thâm canh hợp lý với phát triển nuôi sinh thái các đối tượng xuất khẩu. Giảm thất
thoát sau thu hoạch gắn liền với áp dụng hệ thống thống nhất bảo đảm an toàn vệ sinh
từ khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
7
- Gắn xây dựng thuỷ sản thành ngành sản xuất hàng hoá tập trung, thống nhất với quản
lý và phát triển theo vùng, phù hợp với cơ cấu kinh tế được quy hoạch cho các vùng,
miền.
- Lựa chọn, phát triển và áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến, bảo đảm sức cạnh
trạnh cao, đáp ứng các yêu cầu bền vững, các đòi hỏi của hội nhập nhưng cũng đồng
thời phù hợp với khả năng đầu tư và đặc thù của nghề cá nhân dân.
- Thông qua triển khai các chính sách đổi mới, đặc biệt là các chính sách về thị trường,
về các thành phần kinh tế và về đất đai, mặt nước để phát huy cao nhất tiềm năng và
các nguồn lực cho phát triển ngành. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tài trợ, các dự án
quốc tế.

- Xây dựng cơ cấu thị trường và cơ cấu sản phẩm ổn định, vừa có tính cạnh tranh cao,
vừa chủ động đối phó với các rào cản thương mại trong quá trình hội nhập. Nâng dần
tiêu thụ trong nước gắn với phát triển thị trường thuỷ sản nội địa. Phát triển mạnh mẽ
và đổi mới dịch vụ hậu cần nghề cá.
- Bảo đảm an toàn cho ngư dân đi biển. Giảm thiểu rủi ro về người và tài sản do thiên
tai, dịch bệnh hoặc do sự bất thường trong mua bán sản phẩm mà thị trường bên ngoài
chi phối.
8
II. LÝ THUYẾT VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH THỦY SẢN
1. Nội dung phát triển bền vững trong khai thác hải sản
(1) Phát triển bền vững về kinh tế.
- Tăng giá trị và sản lượng khai thác hải sản
- Tăng hiệu quả khai thác hải sản
- Tăng số lượng và công suất tàu cá
- Chuyển dịch cơ cấu tàu cá và nghề khai thác hải sản
- Đổi mới công nghệ khai thác và tổ chức sản xuất
- Phát triển cơ sở hậu cần và dịch vụ khai thác hải sản
- Tăng vốn đầu tư khai thác hải sản
(2) Phát triển bền vững về xã hội.
- Nâng cao trình độ cho lao động khai thác hải sản
- Nâng cao thu nhập cho lao động khai thác hải sản
- Tạo thêm nhiều việc làm trong khai thác hải sản
- Đảm bảo an toàn trong khai thác hải sản
- Bảo hiểm cho người lao động
(3) Phát triển bền vững về môi trường
- Bảo vệ nguồn lợi hải sản
- Phát triển nguồn lợi hải sản
2. Khái quát về chỉ số phát triển bền vững ngành thủy sản
Theo đuổi phát triển bền vững như là một mục đích của chính sách đã trở nên
quan trọng hơn trong những năm gần đây, những nhà hoạch định chính sách đang

được yêu cầu cung cấp nhiều thông tin hơn để làm sao đo lường được sự tiến triển
của mục tiêu phát triển bền vững.
Ủy ban OECD về thủy sản đã ban hành chương trình làm việc, nghiên cứu để đành
giá các chỉ số bền vững về kinh tế và xã hội cho ngành thủy sản. Với mục đích góp
9
phần cải thiện trong biện pháp đo lường chỉ số phát triển bền vững về ngành thủy
sản dựa trên 3 trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường, nghiên cứu của OECD được
dựa trên những trường hợp cụ thể từ các nước OECD và các tổ chức quốc tế.
Chỉ số thủy sản cung cấp những phương thức thực tiễn và chi phí hiệu quả cho sự
đánh giá thực trạng và sự phát triển của hệ thống thủy sản và những hiệu quả mà
chính sách có thể tác động lên hệ thống đó.
FAO cũng thực hiện những nghiên cứu nhằm xây dựng bộ chỉ số phát triển bền
vững. Mục đích của các chỉ số là để tăng cường giao tiếp, minh bạch, hiệu quả và
trách nhiệm giải trình trong quản lý tài nguyên thiên nhiên. Không chỉ hỗ trợ trong
quá trình đánh giá việc thực hiện các chính sách quản lý thủy sản ở cấp khác nhau,
các chỉ số còn cung cấp một công cụ dễ hiểu để mô tả trạng thái của nguồn lợi thủy
sản và các hoạt động thủy sản và đánh giá các xu hướng liên quan đến mục tiêu phát
triển bền vững. Trong quá trình đo lường tiến bộ hướng tới phát triển bền vững ,
một bộ chỉ số sẽ kích thích hành động để đạt được phát triển bền vững .
Các chỉ số miêu tả một cách đơn giản mức độ mà các mục tiêu phát triển bền vững
đang được đạt được. Chỉ số là những công cụ cơ bản, chỉ số tổng hợp một lượng lớn
thông tin đánh giá sự bền vững về kinh tế, xã hội, thể chế và môi trường sinh thái
dựa vào những tín hiệu liên quan trong ngành thủy sản.
Chỉ số cung cấp thông tin về các hoạt động kinh tế của ngành thủy sản của một quốc
gia, và tác động của nó đối với tài nguyên, có thể được đánh giá trong bối cảnh rộng
lớn hơn. Tại cấp độ khu vực, các chỉ số có thể hỗ trợ trong quá trình hài hòa hóa các
chiến lược quản lý tài nguyên xuyên biên giới và để đo hiện trạng tổng thể của hệ
sinh thái biển
FAO đã đưa ra 4 tiêu chí trong phát triển bền vững thủy sản như sau
Tiêu chí Tiêu chuẩn

10
Kinh tế
- Thu hoạch
- Giá trị thu hoạch
- Đóng góp vào GDP
- Giá trị xuất khẩu ngành thủy sản
- Đầu tư tàu thuyền và thiết bị xử lí
- Thuế và trợ cấp
- Thu nhập
- Doanh thu ròng( lợi nhuận)
Xã hội
- Việc làm/ thành phần tham gia
- Nhân khẩu
- Hiểu biết/ giáo dục
- Sự tiêu thụ
- Thu nhập
- Truyền thống,văn hóa đánh bắt, nuôi trồng thủy sản
- Tiền công
- Sự phân bổ giới tính trong quá trình ra quyết định
Sinh thái
- Kết cấu đánh bắt
- Sự đa dạng của những loài mục tiêu
- Tỉ lệ khai thác thủy sản
- Đa dạng sinh học
- ảnh hướng trực tiếp của thiết bị khai thác trên các loài mục tiêu
Áp lực khai thác
Thể chế/ chính trị
- Quyền sở hữu
- Tính minh bạch và sự tham gia
- Chế độ tuân thủ

- Năng lực quản lí
3. Tiêu chí phát triển bền vững trong ngành thủy sản.
Bộ tiêu chí này được dựa trên nghiên cứu của FAO. FAO mô tả tiêu chí lựa
chọn sinh thái, kinh tế, xã hội, thể chế nhằm thực hiện hoạt động đánh giá sự phát
triển bền vững của ngành thủy sản. Những tiêu chí này được trình bày không theo
trật tự đặc biệt nào và cấp độ liên quan của các tiêu chí này sẽ khác nhau trong
ngành thủy sản. Ví dụ, về các tiêu chí và chỉ tiêu trong đo lường thể chế/chính phủ
và kinh tế ở những quy mô khác nhau có thể áp dụng từ địa phương tới cấp độ toàn
cầu.
11
3.6Kinh tế
Như chúng ta đã biết, tiêu chí kinh tế là một trong ba trụ cột chính của phát triển bền
vững. Trong ngành thủy sản cũng vậy, tiêu chí kinh tế đóng vai trò phát triển bền
vững trong ngành này.
Các tiêu chuẩn cụ thể thể hiện chỉ tiêu kinh tê có bảng sau
Tiêu chuẩn Ví dụ về chỉ số Cấu trúc Căn cứ xem xét
Thu hoạch
- Số bến đỗ
- Sự đánh bắt
- Loài, nhóm tuổi,
- Khu vực,
- Ngành thủy sản
- MSY
- Mức độ lịch sử
- Mức độ mục tiêu
chính sách
Khả năng thu
hoạch
- Tàu có boong
- Tàu không boong

- Tổng cường lực
- Loại tàu
- Phân khúc thủy sản
- Thời gian sử dụng tàu
- Tỷ lệ cá chết/ loài
- Sức tải hay cường
lực của MSY
- Mục tiêu chính sách
Giá trị thu
hoạch ( theo
giá cố định)
- Tổng giá trị suy
giảm
- Theo nhóm loài
- Theo ngành, thủy sản
- Mức lịch sử chọn
lọc
Trợ cấp
- Giảm thuế
- Tài trợ
- Theo ngành
- Theo tàu/ thủy sản
- Mức lịch sử
- Mức 0
- Mức mục tiêu
Đóng góp vào
GDP
- GDP ngành thủy sản/
GDP quốc gia
- Theo nhóm loài - Mức lịch sử

Xuất khẩu
- Xuất khẩu/tổng giá
trị thu hoạch
- Theo loài
- Theo phân khúc thủy sản
- Mức lịch sử
Đầu tư
- Giá trị thị trường hay
giá trị thay thế
- Khấu hao
- Cơ cấu tuổi tàu
- Loại tàu
- Thủy sản
- Mức lịch sử
Việc làm
- Tổng việc làm - Số tàu/thủy sản
- Ngành
- Mức lịch sử
- Mục tiêu chính sách
Thu nhập
ròng
- Lợi nhuận + tiền
thuê
- Thu nhập ròng / tổng
đầu tư
- Giá trị các quyền lợi
- Theo ngành
- Thủy sản
- Mức lịch sử
- MEY

12
Cường lực
( chủ yếu ở
thủy sản)
- Không tàu, thời gian
đánh bắt
- Việc làm
- Số lượng thiết bị sử
dụng
- Phân khúc thủy sản
- Điều khoản tiền tệ
Dưới đây là diễn giải một số tiêu chuẩn trong tiêu chí kinh tế :
Về lợi nhuận, trong trường hợp không có sự bóp méo của thị trường như sự
trợ cấp lớn về số lượng hoặc sự kiểm soát giá cả, lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế quan
trọng nhất. Lợi nhuận thấp hoặc tiêu cực thường chỉ ra rằng trữ lượng cá được khai
thác một cách lãng phí kinh tế và công suất đánh bắt quá lớn trên cả 2 phương diện
kinh tế và sinh học. Ít trường hợp có kết quả lợi nhuận thấp từ sự kết hợp không
thuận lợi của giá cá thấp và chi phí đánh bắt cao. Phần lớn các loại cá thương phẩm
mang lại lợi nhuận cao hoặc lợi nhuận thỏa đáng với sự đầu tư của công nghệ đánh
bắt cá hiện tại và khi phản đối sự quản lý hiệu quả việc đánh bắt.
Về giá trị quyền đánh bắt, việc thực hiện quản lý về giá trị quyền đánh bắt
được thực hiện thông qua quyền lợi được chuyển nhượng như hạn ngạch chuyển
nhượng cá nhân (ITQs), việc thuê tài nguyên trở nên vốn hóa giá trị của các quyền.
Trong trường hợp không giao dịch đầu cơ, một sự thay đổi trong giá thị trường của
quyền hạn ngạch phản ánh sự thay đổi trong số người tham gia thị trường, ước tính
lợi nhuận tiềm năng của ngành thủy sản. Sự thay đổi như vậy có thể xảy ra, ví dụ
như kết quả của một sự suy giảm trong trữ lượng cá phong phú, sự rớt giá hoặc tăng
lên trong chi phí đánh bắt. Sự phát sinh thứ 2 của những người nắm quyền chuyển
nhượng đánh bắt cá có thể nhận ra lợi nhuận thấp hoặc bằng 0 vì chi phí vốn phát
sinh khi mua quyền chuyển nhượng.

Về trợ cấp, việc cung cấp các khoản trợ cấp cho đầu vào của việc đánh bắt
như nguyên liệu và việc xây dựng, mua bán tàu cá và thiết bị là nguyên nhân quan
trọng nhất trong lãng phí kinh tế và đánh bắt quá độ dùng đánh giá không hiệu quả
việc đánh bắt thủy sản. Mức độ trợ cấp như vậy không chỉ giúp chỉ ra sự yếu kém
của quản lý kinh tế trong ngành thủy sản. Những khó khăn liên quan đến sức chứa
13
quá tải hiện hành trong trợ cấp cho thủy sản và các hậu quả cần phải giảm công suất
và việc làm. Những sự điều chỉnh như vậy chỉ có thể khả thi khi chính trị đi kèm với
các biện pháp đền bù như mua hậu và đào tạo lại tạm thời, hỗ trợ thu nhập cho ngư
dân tìm kiếm việc thay thế.
3.7 Xã hội
Cũng giống như tiêu chí kinh tế, tiêu chí xã hội cũng là một trong ba trụ cột
chính của phát triển bền vững nói chung. Điều đó cho thấy, tầm quan trọng của chỉ
tiêu này trong ngành thủy sản. Thông qua các tiêu chí xã hội sẽ làm rõ hơn vai trò
của nó trong sự phát triển bền vững ngành thủy sản. Cụ thể:
Về lao động, tỉ lệ lao động trong ngành thủy sản đặc biệt là trong đánh bắt
thủy sản trên tổng dân số cho biết mức độ phụ thuộc của người dân vào ngành thủy
sản ( khai thác thủy sản).
Về sự tiêu thụ protein, trong các nước đang phát triển đặc biệt là các nước
ven biển thì thủy sản đóng góp hơn 2/3 số lượng tiêu thụ protein động vật trên tổng
dân số. Tuy nhiên trong nhiều năm gần đây, sự sẵn có của thủy sản trên bình quân
đầu người đã giảm đi đáng kể, điều này ngày càng tăng ở nhiều nước vì giảm sản
lượng khai thác và đánh bắt xuất khẩu có giá trị cao để tiêu thụ ở nước ngoài. Vì
nhu cầu về sản xuất tăng lên do đó nguy cơ về thực tiễn không bền vững tạo ra sự
đánh bắt nhiều hơn cho thị trường sinh lợi về chi phí tiêu dùng trong nước. Thay đổi
trong tiêu thụ thủy sản bình quân đầu người và tiêu thụ cá theo tỷ lệ tổng mức tiêu
thụ protein là những chỉ tiêu quan trọng liên quan đến ý nghĩa của sự đóng góp của
ngành thủy sản tới sinh kế của người dân ven biển, và liên quan áp lực cộng đồng về
việc phát triển bền vững ngành thủy sản.
Về truyền thống và văn hóa, kiến thức địa phương bắt nguồn từ sự truyền

miệng truyền qua các đời, đây là một khía cạnh quan trọng trong quản lý việc đánh
bắt ở cả các nước phát triển và đang phát triển. Những truyền thống này thiết lập
nên những điều “nên và không nên” trong đánh bắt thủy sản, ở một số nước còn
14
thành lập và duy trì vài điều cấm kỵ. Việc rèn luyên những tập quán truyền thống bị
mất đi đã chỉ ra những thay đổi đáng kể trong thực tiễn khai thác và đánh bắt, và là
dấu hiệu cho sự mất đi về hệ thống kiểm soát đánh bắt truyền thống và đang mất
dần sự kiểm soát khiến việc tổ chức trong đánh bắt cá trở nên lỏng lẻo. Thông tin về
sự ưu tiên thực hành các truyền thống đánh bắt có thể thu thập được bẳng cách tham
khảo ý kiến ngư dân và các nhà lãnh đạo địa phương.
3.8 Sinh thái
Kết cấu đánh bắt
Kết cấu đánh bắt đề cập đến kích thước của cá, thành phần loài và số lượng và mức
độ dinh dưỡng của mỗi loài trong việc đánh bắt. Những sự thay đổi trong kết cấu
đánh bắt là những dấu hiệu đáng chú ý cho tiềm năng của sự không bền vững trong
ngành thủy sản. Những sự thay đổi trong kết cấu này có thể phản ánh một sự giảm
xuống trong quy trình đánh bắt cá trong chuỗi thức ăn trong đó áp lực quá mức tác
động lên những nhóm riêng lẻ (các loại săn mồi có giá trị cao), dẫn đến sự thay đổi
của áp lực khai thác đối với các loài ít được ưa thích hơn hoặc các nhóm quy mô
khác (ví dụ như nhóm những con mồi có giá trị thấp hơn). Thay đổi trong cơ cấu
đánh bắt sẽ báo hiệu sự không bền vững có thể bị ẩn đi nếu như dữ liệu không được
thu thập đầy đủ ở phạm vi tốt về không gian và thời gian để biểu thị mô hình của sự
thay đổi trong kết cấu đánh bắt này trong mỗi đơn vị ngư trường.
Thông tin trong kết cấu đánh bắt nên được thu thập từ ngư dân và các thành phần
phức tạp, được hỗ trợ bởi chương trình quan sát và hỗ trợ nhận dạng phân loại để
kiểm tra đặc trưng của các loài. Các dữ liệu về cấu trúc này sẽ được lấy trong không
gian và thời gian tốt nhất mà có thể đạt được trong mỗi ngư trường.
Khu vực và chất lượng môi trường sống mang tính quan trọng và quyết định
Môi trường sống có thảm thực vật (như cỏ biển, tảo, cây đước và đầm lầy), cửa
song, dải san hô ngầm, hẻm núi ngoài biển, núi nước dưới đáy biển… là những nhân

tố cơ bản của hệ sinh thái biển. Đối với ngành thủy sản nói riêng thì những điều trên
là rất quan trọng hoặc quyết định, ví dụ như vùng nuôi trồng. Môi trường sống cung
15
cấp những hỗ trợ trực tiếp và quan trọng trong sản xuất thủy sản chẳng hạn như cỏ
biển hoặc hệ rừng ngập mặn, thông qua đó tất cả việc khai thác thủy sản phải trải
qua. Hoặc rạn san hô có thể là nguồn chính cho những rạn san hô có cấu trúc phức
tạp. Cả 2 đều quan trọng cho sự đa dạng sinh học nói chung và là nguồn thức ăn cho
các loài bị khai thác. Thay đổi trong khu vực môi trường sống, được đo lường bằng
cách sử dụng các công cụ có thể chỉ ra điều kiện thay đổi trong môi trường mà bị
gây ra bởi hoạt động đánh bắt cá. Mất thảm thực vật biển do sự ô nhiễm có thể ảnh
hưởng đến các loài cá, trong khi đánh cá hoặc nạo vét trong thảm thực vật biển sẽ
phá hủy nhiều loại môi trường sống của thảm thực vật biển. Chất lượng môi trường
sống, được đo bằng mức độ phủ san hô hoặc tỷ lệ sống của san hô trên dải san hộ
ngầm, ví dụ thành phần động vật trong thảm thực vật, liên quan chặt chẽ tới giá trị
môi trường sống cho các mịc đích đánh bắt thủy sản. Tín hiệu trong sự thay đổi chất
lượng môi trường sống thay đổi trong hệ sinh thái có thể có những tác động rất quan
trọng đối với thủy sản, không phân biệt nguyên nhân của chúng. Tất cả các hoạt
động đánh bắt cần phải nhận thức được mức độ quan trọng của môi trường sống và
sự hỗ trợ của ngành thủy sản, mức độ, tính chất của bất kì sự thay đổi nào đều có thể
xảy ra bất kể nguyên nhân nào xảy ra.
Áp lực khai thác – khu vực đánh bắt và không đánh bắt cá
Không phải tất cả các khu vực trong bất kỳ khu vực đánh bắt cá được đánh bắt với
cường độ bằng nhau, một số địa điểm gặp khó khăn trong việc khai thác , hoặc chỉ
có thể được đánh bắt trong điều kiện thời tiết nhất định. Đối với một số kiểu đánh
bắt như đánh lưới, ngư trường thường chứa các khu vực không an toàn cho đánh bắt
do nguy hiểm từ thiết bị (đặt ra các ví dụ về dải san hô, hẻm núi, tháp nhọn hoặc các
trở ngại khác). Hơn nữa, ngư trường thường không được coi là đồng nhất trong sản
xuất, do đó một số khu vực sẽ được khai thác với cường độ cao hơn vì lợi nhuận đạt
được lớn hơn hoặc tỷ lệ đánh bắt cao hơn. Ngoài ra, dự trữ và các hình thức đóng
cửa được sử dụng để bảo vệ sự sinh sản hoặc vòng đời của những sinh vật non, nhỏ

từ thu hoạch hoặc từ những ảnh hưởng bất lợi khác. Điều này có nghĩa là có thể có
nhiều vùng rộng lớn ngay cả trong ngư trường được định rõ nơi mà không xảy ra
16
hoặc rất hiếm khi xảy ra. Các khu vực này có thể được coi như nơi cư trú tự nhiên
nơi các mẫu môi trường sống và hệ sinh thái đến mức độ miễn dịch từ ảnh hưởng
của việc đánh bắt cá. Những khu vực này đóng góp vào việc duy trì mục tiêu của
một số nhóm bằng cách cung cấp việc phục hồi cho ngành thủy sản.
Việc giám sát phạm vi của các khu vực đánh bắt quá mức độ bảo vệ và cư trú cho
các loài không di trú địa phương và các mẫu môi trường sống. Để đo lường và dẫn
chứng bằng tài liệu, thông tin chi tiết này được lấy từ các khu vực đánh bắt, các loại
công cụ sử dụng thường xuyên trong hoạt động đánh bắt. Dữ liệu về các chỉ số này
được thu thập từ sự hợp tác giữa ngư dân và bản ghi dưới dạng bản đồ hoặc hồ sơ
không gian tương thích. Xác định mức độ của khu vực đánh bắt quá mức và khu vực
không đánh bắt và sự thay đổi theo dõi cung cấp thông tin quan trọng sử dụng để
đánh giá mức độ mà phương thức quản lý việc đánh bắt cá hỗ trợ cho việc bảo tồn
các loài không nằm trong mục tiêu. Mức độ và vị trí của các khu vực đánh bắt quá
mức cung cấp các thông tin quan trọng về các mô hình không gian của việc đánh bắt
cá và bất kỳ mô hình khai thác nào đều là không bền vững
 Những yêu cầu dữ liệu thủy sản cho các tiêu chuẩn và tiêu chí sinh thái
Để có thể sử dụng cho việc đánh giá tình trạng và xu hướng của các hệ sinh thái
khai thác , dữ liệu thủy sản cần phải liên quan đến môi trường sống và hệ sinh
nhưng các dữ liệuhiện có thường không cung cấp đủ thông tin . Ví dụ, thông tin về
đánh bắt (trọng lượng và thành phần ) hiện đang có sẵn cho nhiều quốc gia, thường
theo loại thủy sản, hoặc các lĩnh vực , nhưng nói chung không có thông tin về những
tiêu cực về hệ sinh thái khai thác và môi trường sống.
Trong đo lường và báo cáo môi trường sống và hệ sinh thái về tầm quan trọng đối
với nghề cá , phương pháp tiếp cận chuẩn được yêu cầu để các chỉ số có thể được
phát triên hiệu quả, có tính nhất quán và có thể so sánh được giữa các quy mô không
gian.
Kết quả là, dữ liệu cần phải được duy trì dưới dạng chuẩn để tạo điều kiện cho việc

truy cập, phân tích, tổng hợp và giải thích. Để đạt được mục tiêu này, việc thu thập
dữ liệu cần được tổ chức theo hướng dẫn được cung cấp cho việc phân tích về môi
17
trường sống và hệ sinh thái trong không gian và thời gian thích hợp. Một số yếu tố
dưới đây được sử dụng như hướng dẫn
Giải pháp phân loại
Dữ liệu thủy sản có liên quan (ví dụ như khối lượng đánh bắt ) nên được ghi chép
theo loài hoặc theo cách phân loại dễ nhận dạng khác và theo đơn vị diện tích về
thủy sản. Với mục đích so sánh, chúng có thể được thể hiện dưới dạng đơn vị ( như
tấn/ km
2
)
Quy mô không gian
Bất cứ khi nào có thể (và đặc biệt là nghề cá quy mô lớn mà nguồn tài liệu có thể
có sẵn), dữ liệu thủy sản có liên quan, như sản lượng đánh bắt, nên được ghi lại
theo đơn vị không gian trên tổng thể. Các đơn vị này có thể được xác định tốt nhất
bằng việc sử dụng hệ tiểu sinh thái (ví dụ như vịnh, phạm vi độ sâu) hoặc địa
phương đánh bắt cá. Với mục đích phân tích những thay đổi, chỉ số hệ sinh thái và
môi trường sống nên được thích hợp hơn đối với cùng một đơn vị không gian, được
sử dụng để ghi chép việc đánh bắt.
Quy mô thời gian
Các dữ liệu thủy sản có liên quan (ví dụ như bắt trọng lượng) có thể được thu thập
bằng cách sử dụng sổ ghi hoặc các hình thức ghi chép chính thức khác. Quy mô thời
gian có thể được tính từ vài giờ đến 1 tuần trên tháng. Đối với việc đo lường môi
trường sống và hệ sinh thái cái mà thường thay đổi nên được đo lường dựa trên tỷ lệ
mà chúng có thể bị phá hủy hoặc tái tạo lại. Điều này phụ thuộc vào tính chất và vị
trí của chúng cũng như vào điều kiện tự nhiên và cường độ của các mối đe dọa đến
tính toàn vẹn, mở rộng và chất lượng của môi trường. Cường độ của các mối đe dọa
đến tính toàn vẹn của họ , về mở rộng và chất lượng. Hệ thống gần bờ( thảm cỏ biển
) sẽ đòi hỏi các phép đo thường xuyên hơn và sâu sắc hơn môi trường sống ở nước

ngoài xa( chẳng hạn như núi biển ) .
Để đảm bảo rằng tất cả các hệ sinh thái được theo dõi đúng cách, giám sát toàn diện
và báo cáo sẽ là cần thiết, các hoạt động đánh bắt cá trong vùng EEZ (với các chi
tiết bởi hệ sinh thái tiểu khu), cũng như trong các đại dương. Các thông tin sau đó có
18
thể được đối chiếu theo các hệ sinh thái (theo quy định của Longhurst, 1998) Bao
gồm hệ sinh thái biển lớn (LMEs) và theo loại hình môi trường sống như được nêu
ở trên.
Việc đáp ứng các yêu cầu cơ sở dữ liệu về sức khỏe hệ sinh thái, có thể xuất
hiện các mối đe dọa. Tuy nhiên, chất lượng và mức độ của môi trường sống ven
biển có thể được thẩm đinh nhanh chóng ,nói chung , ví dụ như sử dụng các cuộc
điều tra đánh giá nhanh mức độ đa dạng của môi trường sống ven biển, giải pháp
không gian và thời gian, chụp ảnh trên không, khảo sát dưới biển hoặc bẳng các
phương pháp truyền thống khác. Trong vùng nước sâu hơn, môi trường sống có thể
cần phải được theo dõi và đánh giá bằng việc sử dụng công nghệ cao hơn như quay
phim từ xa, và thậm chí sử dụng máy chủ xa hơn .Sử dụng kỹ thuật này, cả chất
lượng và không gian của môi trường sống đều được đánh giá, ví dụ một quy mô
hoạt động tiêu chuẩn hóa có 6 mức tương ứng : (1) bị phá hủy, (2) bị quấy rầy
nghiêm trọng, (3) bị xáo trộn vừa phải, (5) thực tế không bị ảnh hưởng
hoặc nguyên sơ, và (6) trong tình trạng không rõ.
Bảng: Điểm tham chiếu điển hình được sử dụng trong quản lý thủy sản quản lý

MSY Sản lượng bền vững tối đa
MCY Năng suất ổn định tối đa
MEY Năng suất kinh tế tối đa
LTAY Năng suất dài hạn trung bình
FMSY F (mức cá chết ) tại MSY
FMCY F tại MCY
FLTAY F tại LTAY
FMEY F tại MEY

F0.1 F mà tại đó độ dốc của đường cong Y / R = 10% độ dốc gần
điểm gốc
F
AY
Tỷ lệ cá chết tại mức năng suất trung bình (Không xác định)
F
MAX
Tỷ lệ cá chết tại mức năng suất tối đa tính trên một đơn vị chọn
lựa
F
low
F tương ứng với một SSB / R = 10% (phần trăm)
F
med
F tương ứng với một SSB / R = 50% (phần trăm) của quan sát
R / SSB
F
high
F tương ứng với một SSB / R = 90% (phần trăm) của quan sát
19
R / SSB
2/3 F
MSY
F tương ứng với 2/3 FMSY
F
30% SPR
F tương ứng với SSB / R = 30% của SSB / R khi F = 0 (cổ phiếu
Virgin)
Fcrash F tại thất bại tuyển dụng (= độ dốc tại điểm tiếp xúc với điểm
gốc của SRR)

F
loss
F tương ứng với SSB / R = 1/ (R/SSB) tại mức sinh sản quan sát
thấp nhất
Zmbp. Tổng số cá chết tương ứng với mức sinh sản tối đa
MBAL Giới hạn sinh học tối thiểu chấp nhận được (SSB dưới đó có thể
làm giảm )
0.3Bv Sinh khối tương ứng với 30% sinh khối cái khi F = 0
BMSY Sinh khối khi sản lượng đánh bắt tại F=F
MSY
BMCY Sinh khối khi sản lượng đánh bắt tại F = FMCY
B
50% R
SSB (sinh sản sinh khối ) mà R ( mức chọn lọc )= 50% Rmax
B
90% R
SSB ở đó R = 90% Rmax
Ghi chú:
SSB / R = nguồn sinh khối có thể sinh sản/ lượng được chọn
R / SSB = lượng được chọn/ nguồn sinh khối có thể sinh sản
SRR = Mối quan hệ giữa lượng được chọn và nguồn sinh khối
3.9 Thể chế/ quản trị
Năng lực quản lý
Năng lực quản lý thủy sản phụ thuộc vào nguồn nhân lực và nguồn tài chính cũng
như sự tham gia của các cổ chức có thẩm quyền. Quản lý thủy sản đòi hỏi phải đầu
tư thời gian và nguồn lực để thu thập thông tin cần thiết, phát triển và thống nhất về
chế độ quản lý, thực thi các quy định, giám sát tình trạng của hệ thống. Một vấn đề
kinh tế trong ngành đánh bắt thủy sản có thể chấp nhận lợi nhuận đầu tư sau khi chi
phí quản lý được hạch toán. Tuy nhiên, trong nhiều lĩnh vực của ngành thủy sản, lợi
nhuận biên như một hệ quả, chi phí quản lý là gánh nặng tăng thêm có thể tạo ra lợi

ích lâu dài nhưng không thể chấp nhận mức giá mang lại lợi nhuận ngắn. Quản lý
thủy sản cũng yêu cầu một cơ sở thể chế đầy đủ, bao gồm một tập hợp các quy tắc
và hệ thống để tạo ra và thực thi chúng. Trong sinh kế ngành thủy sản, các tổ chức
20
quản lý và kế hoạch cần phải dựa nhiều hơn vào cơ cấu quyền lực truyền thống và
văn hóa hơn là những kế hoạch quản lý chính thức. Trong ngành công nghiệp thủy
sản, nơi mà những kế hoạch truyền thống về quản lý được yêu cầu đảm bảo cho sự
phát triển bền vững, khả năng phát triển và bổ sung chúng thường rất hạn chế.
Chế độ tuân thủ
Quản lý đánh bắt thủy sản để dạt được mục tiêu cụ thể và mục tiêu này đọi hỏi sự
phát triển và áp dụng của hàng loạt các chuẩn mức, quy tắc mà chi phối tới hành vi
của ngư dân, cho phép vào khai thác và sử các thiết bị. Quy tắc này cũng chi phối
hành vi của những người không được phép đánh bắt và những người không được
phép vào những khu đánh bắt nhất định. Đối với các quy tắc có hiệu quả để đánh giá
sự tuân thủ, cùng với các phương pháp thích hợp để đưa ra quyết định với sự phản
hồi. Chế độ tuân thủ đánh giá mực độ mà các quy tắc được thiết kế để giữ cho
ngành thủy sản bền vững. Sự tồn tại và hiệu quả của chế độ đánh giá sự tuân thủ
được kiểm tra bằng các kế hoạch quản lý, trong sinh kế, thực hành truyền thống.
Tính minh bạch và sự tham gia
Quản lý thủy sản bằng cách phương pháp tiếp cận loại trừ từ trên xuống (quy định
hoặc pháp chế áp đặt mà không được tham vấn các ngư dân bị ảnh hưởng) đang đối
mặt với nguy vơ cao của sự không bền vững. Điều này thường là do ngư dân cảm
thấy bị loại trừ khỏi quy trình ra quyết định mà nó ảnh hưởng tới sinh kế của họ và
không có quyền làm chủ kết quả quyết định. Thiếu sự tham gia vào việc ra quyết
định đã dẫn tới ngư dân và những người có quan tâm tới thủy sản bỏ qua quy tắc
thiết kế để duy trì bền vững thủy sản. Việc đánh bắt trộm là kết quả của vấn đề thiếu
tính minh bạch và sự tham gia vào quá trình ra quyết định. Tính minh bạch và tham
gia không đảm bảo tính bền vững nhưng thủy sản không thể đạt được sự bền vững
nếu không có 2 nhân tố trên. Mức độ minh bạch và sự tham gia được đánh giá bằng
kế hoặc quản lý, đặc biệt là cấu trúc và chức năng cho phép sự tham gia hiệu quả

của ngư dân trong quá trình ra quyết định.
21
Bảng: Ví dụ về các tiêu chuẩn quản trị và các chỉ số
Tiêu chuẩn Chỉ số
Toàn cầu
Chế độ tuân thủ
Quyền sở hữu
Tính minh bạch và
sự tham gia
Năng lực quản lý
Khuyến khích thực hiện theo các thỏa thuận toàn cầu
Sự tồn tại của những bất đồng nổi bật
Khả năng tương thích với các mục tiêu phát triển bền vững
Chấp thuận của các bên liên quan
Tham gia vào các thỏa thuận toàn cầu
Sự tham gia của các bên liên quan trong việc đưa ra và áp dụng
quy tắc trò chơi
Giao tiếp hiệu quả giữa các bên liên quan
Khả năng suy luận, tiếp nhận và sử dụng thông tin từ các bên
liên quan
Sự tồn tại của chế độ quản lý toàn cầu
Khu vực
Chế độ tuân thủ
Quyền sở hữu
Tính minh bạch và
sự tham gia
Khuyên khích thực hiện theo các thỏa thuận khu vực
Sự tồn tại của chế độ tuân thủ
Hiệu quả của chế độ
Sự tồn tại của những bất đồng nổi bật

Tích hợp các quy tắc toàn cầu
Sự tồn tại của quyền sở hữu được xác định rõ và công nhận
Khả năng tương thích với các mục tiêu phát triển bền vững
Chấp thuận của các bên liên quan
Tham gia vào các thỏa thuận khu vực
Khuyến khích tham gia vào các hiệp định khu vực
Sự tham gia của các bên liên quan trong việc đưa ra và áp dụng
quy tắc trò chơi
Giao tiếp hiệu quả giữa các bên liên quan
22
Năng lực quản lý
Khả năng suy luận, tiếp nhận và sử dụng thông tin từ tất cả các
bên liên quan
Sự tồn tại của một cơ quan có thẩm quyền quản lý
Về thực hiện hiệp định khu vực
Mức độ mà các thỏa thuận khu vực đáp ứng bền vững mục tiêu
phát triển
Sự tồn tại của một quá trình giải quyết tranh chấp hiệu quả
Tài nguyên có sẵn tại tất cả các cấp
Quốc gia
Chế độ tuân thủ
Quyền sở hữu
Tính minh bạch
Năng lực quản lý
Sự tồn tại của một chế độ tuân thủ
Hiệu quả của chế độ
Sự tồn tại của những bất đồng nổi bật
Tích hợp các quy tắc toàn cầu
Khả năng tương thích giữa việc thực thi cấp địa phương và cao
hơn

Sự tồn tại của quyền sở hữu được xác định rõ và công nhận
Khả năng tương thích với các mục tiêu phát triển bền vững
Chấp thuận của các bên liên quan
Ưu đãi đối với hành vi hợp tác
Sự tham gia của các bên liên quan trong việc đưa ra và áp dụng
quy tắc trò chơi
Giao tiếp hiệu quả giữa các bên liên quan
Khả năng suy luận, tiếp nhận và sử dụng thông tin từ tất cả các
bên liên quan
Tài nguyên có sẵn ở tất cả các cấp độ
Khả năng tương thích giữa quản trị chính thức và cấu trúc
không chính thức
Chính quyền cấp cao hơn tạo điều kiện cho cấp dưới quản lý
Quản lý dựa vào cộng đồng
23
Ngành thủy sản
Chế độ tuân thủ
Quyền sở hữu
Tính minh bạch và
sự tham gia
Năng lực quản lý
Sự tồn tại của một chế độ tuân thủ
Hiệu quả của chế độ
Sự tồn tại của những bất đồng nổi bật
Tích hợp các quy tắc toàn cầu
Khả năng tương thích giữa việc thực thi cấp địa phương và cao
hơn
Sự tồn tại của quyền sở hữu được xác định rõ và công nhận
Khả năng tương thích với các mục tiêu phát triển bền vững
Chấp thuận của các bên liên quan

Sự tham gia của các bên liên quan trong việc đưa ra và áp dụng
quy tắc của trò chơi
Giao tiếp hiệu quả giữa các bên liên quan
Khả năng suy luận, tiếp nhận và sử dụng thông tin từ tất cả các
bên liên quan
Tài nguyên có sẵn ở tất cả các cấp độ
Khả năng tương thích giữa quản trị chính thức và cấu trúc
không chính thức
Chính quyền cấp cao hơn tạo điều kiện cho cấp dưới quản lý
Quán lý dựa vào cộng đồng
Địa phương
Chế độ tuân thủ
Quyền sở hữu
Sự tồn tại của một chế độ tuân thủ
Hiệu quả của chế độ
Sự tồn tại của những bất đồng nổi bật
Tích hợp các quy tắc toàn cầu
Khả năng tương thích giữa việc thực thi cấp địa phương và cao
hơn
Sự tồn tại của quyền sở hữu được xác định rõ và công nhận
Khả năng tương thích với các mục tiêu phát triển bền vững
24
Tính minh bạch và
sự tham gia
Năng lực quảnch lý
Chấp thuận của các bên liên quan
Sự tham gia của các bên liên quan trong việc đưa ra và áp dụng
quy tắc của trò chơi
Giao tiếp hiệu quả giữa các bên liên quan
Khả năng suy luận, tiếp nhận và sử dụng thông tin từ tất cả các

bên liên quan
Tài nguyên có sẵn ở tất cả các cấp độ
Khả năng tương thích giữa quản trị chính thức và cấu trúc
không chính thức
Chính quyền cấp cao hơn tạo điều kiện cho cấp dưới quản lý
Quản lý dựa vào cộng đồng
III. ĐÁNH GÍA THEO CÁC TIÊU CHÍ
1. Tiêu chí kinh tế
1.1Giá trị xuất khẩu ngành thủy sản
Nhận xét: Giá trị kim ngạch xuất khẩu ngành thủy sản liên tục tăng từ năm 2006 đến
năm 2012. Năm 2012 đạt gần 5,5 tỷ USD và năm 2013, kim ngạch xuất khẩu thủy
sản đạt 6,7 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng năm 2011 đạt cao nhất lên tới 21, 8% so với
25

×