Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài tập Nghiên cứu các phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế ICJ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.77 KB, 17 trang )

BÀI TẬP/THỰC HÀNH: NGHIÊN CỨU PHÁN QUYẾT CỦA ICJ
-

Cá nhân tự nghiên cứu

-

Thảo luận trên lớp

NỘI DUNG
1. Cơ sở pháp lý xác định thẩm quyền của ICJ trong vụ việc;
2. Giá trị pháp lý + biện pháp bảo đảm thi hành phán quyết;
3. Cơ sở pháp lý cho ICJ trong việc xem xét giải thích phán quyết;
4. Cơ sở pháp lý cho ICJ trong việc xem xét sửa đổi phán quyết;
CÁC VỤ VIỆC:
1. Vụ Nicaragoa kiện Mỹ (1984-1986) nội dung 1,2 (lưu ý biện pháp đảm bảo thi hành
Phán quyết)
2. Vụ kiện giữa Campuchia và Thái Lan về chủ quyền ngôi đền cổ Preah Vihear (nội dung
1,2,3)
3. Vụ tranh chấp đảo Pedra Branca giữa Singapore và Malaysia (2003-2008; 2017) (cả 4
nội dung)
4. Vụ Nhân viên Ngoại giao và Lãnh sự Mỹ tại Tehran 1979 (Mỹ v. Iran) (nd 1,2)
5. Tham khảo thêm: Vụ Palestine kiện Mỹ 2018 (nd 1)
CỤ THỂ:
1. Vụ Nicaragoa kiện Mỹ (1984-1986) nd 1và 2 (lưu ý biện pháp đảm bảo thi hành Phán
quyết):
-

Tịa án cơng lý quốc tế- PGS.TS Nguyễn Hồng Thao (2011) trang 266 đến 283

-



Tham khảo: />
-

và các tài liệu khác.

2. Vụ kiện giữa Campuchia và Thái Lan về chủ quyền ngôi đền cổ Preah Vihear năm
1959-1962 và 2011-2013
-

Trang 239 đến 254 (trong Tòa án công lý quốc tế- PGS.TS Nguyễn Hồng Thao 2011).

-

Yêu cầu Giải thích phán quyết năm 1962 (2011-2013)

-

Có thể tham khảo thêm PQ tại: và các tài liệu khác.
1




Nội dung phán quyết 1962 Tòa trao đền Preah Vihear cho Campuchia, Thái Lan phải
rút hết lực lượng quân đội ra khỏi đền và khu vực xung quanh, bồi hoàn lại tài sản mà
bên Thái Lan đã lấy đi từ ngơi đền kể từ khi chiếm đóng




Kết quả: Hai bên đã thừa nhận phán quyết của Tòa và rút quân khỏi ngơi đền này (có
thực thi phán quyết). Trên thực tế, hai bên có tự nguyện thi hành phán quyết nhưng
trong q trình thực hiện đã có khó khăn nên đã có sự kiện Thái Lan yêu cầu giải quyết
phán quyết



Cơ sở pháp lý (các điều kiện thực hiện thẩm quyền gqtc của IJ)
+ Quốc gia: 2 QG thành viên của Quy chế Tịa (Điều 93, Điều 35 QCTAQT)
+ Có phải tranh chấp pháp lý không? (Điều 36.2. QCTAQT) => Có, tranh chấp về chủ
quyền của QG với 1 lãnh thổ (đây là vấn đề đc LQT điều chỉnh)
+ Các bên có chấp nhận thẩm quyền của Tịa? : Tun bố năm 1950 của Thái Lan (tuy
Thái bác bỏ - vì năm 1929-1949 Thái có tun bố chấp nhận thẩm quyền của Pháp viện
thường trực Công lý quốc tế, tuy nhiên sau đó đã hết hiệu lực, pháp viện đổi thành ICJ.
Dù sau đó năm 1950 đã ra một tuyên bố ra hạn thêm 10 năm thẩm quyền của Tòa cũ
nhưng năm 1946 Thái gia nhập LHQ thì Thái đương nhiên là thành viên của Quy chế
tòa mới. Bên cạnh đó Thái Lan cũng biết rõ sự ra đời và hoạt động của Tịa mới) =>
Như vậy là khơng có nghĩa là tuyên bố mới của Thái Lan chấp nhận thẩm quyền của
Tòa cũ), đc Tòa chỉ ra là Thái Lan đã cơng nhận thẩm quyền của Tịa, Tun bố đơn
năm 1957 của Campuchia đã chấp nhận thẩm quyền của Tịa (và hiện nay vẫn có giá trị,
nghĩa là nếu có 1 nước khác kiện Campuchia ra ICJ thì vẫn được vì Campuchia đã chấp
nhận thẩm quyền của Tịa rồi)



Tháng 4/ 2011, Campuchia u cầu tịa giải thích phán quyết (về vùng phụ cận xung
quanh ngôi đền là vùng nào)
- Cơ sở pháp lý 8: Điều 60 QCTAQT
- Cơ sở thực tiễn: Điều 98 Nội quy của tòa
=> Cơ sở chính là lý do: Do đã có xung đột giữa 2 bên (ở vùng phụ cận xung quanh

ngôi đền), đỉnh điểm là năm 2008 ngôi đền đã đc UNESCO công nhận là di sản văn hóa
trong việc thực thi phán quyết



11/1/2013, Tịa chấp nhận u cầu giải thích của Campuchia:
+ Phạm vi phán quyết: Campuchia có chủ quyền với đền + các phần phụ cận xung
quanh đền (mà Tòa xác định ban đầu vào tháng 10 năm 1959 Thái Lan đã chiếm đóng)
=> Thực chất là Tịa cũng khơng làm rõ diện tích vùng phụ cận, mà 2 bên đang tính là
4,6km2 tranh chấp. Tịa khuyến khích 2 bên tự họp để xác định đường biên giới giữa 2

2


bên và hợp tác cùng khai thác giá trị của ngơi đền. Cho đến nay tình hình căng thẳng
giữa hai bên đã được giải quyết

3. Vụ tranh chấp đảo Pedra Branca giữa Singapore và Malaysia (2003-2008)
+ xem thêm tại và các tài liệu khác (vụ này tài
liệu trên Web rất nhiều).

+ Tóm tắt vụ kiện
Tranh chấp đảo Pedra Branca - theo cách gọi của Xinh-ga-po hoặc Pulau Batu Puteh theo cách gọi của Ma-lai-xi-a cùng các đảo đá Midlle Rocks và bãi nổi South Ledge giữa
Xinh-ga-po và Ma-lai-xi-a diễn ra trong một thời gian dài và chỉ đến sau khi được Tịa án
Cơng lý quốc tế chính thức đưa ra phán quyết về chủ quyền đối với Pedra Branca, Middle
Rocks và South Ledge vào ngày 23/5/2008 thì tranh chấp mới được giải quyết. Trên cơ sở kinh
nghiệm này, bài viết muốn đưa ra một số gợi ý và bài học cho Việt Nam trong tranh chấp hiện
nay ở Biển Đơng.
Bối cảnh và q trình hình thành tranh chấp
Pedra Branca - theo cách gọi của Xinh-ga-po hoặc Pulau Batu Puteh - theo cách gọi của

Ma-lai-xi-a (sau đây gọi chung là “Pedra Branca”)[1] là đảo đá nhỏ, dài 137m, rộng 60m, có
diện tích khoảng 8560m2 khi thủy triều xuống. Về vị trí địa lý, Pedra Branca nằm ở tọa độ
1°19'48" N, 104 ° 24'27" E; khoảng 24 hải lý về phía Đơng của Xinh-ga-po, 7,7 hải lý về phía
Nam của bang Johor của Ma-lai-xi-a, và 7,6 hải lý phía Bắc của Bintan của In-đô-nê-xi-a.
[2] Năm 1844, người Anh bắt đầu quá trình chuẩn bị xây dựng ngọn hải đăng Horsburgh trên
đảo Pedra Branca. Năm 1847, cơng trình được khởi cơng. Đến năm 1851, hải đăng Horsburgh
được hoàn thành và chuyển giao cho Xinh-ga-po, lúc bấy giờ là thuộc địa của Anh theo Hiệp
ước Anglo-Dutch năm 1824.[3]
Middle Rocks bao gồm hai cụm đá nhỏ rộng khoảng 250m, cao từ 0,6 đến 1,2m và nằm
trên mặt nước khi thủy triều lên cao. Middle Rocks nằm 0,6 hải lý về phía nam của Pedra
Branca.[4] South Ledge là một khối đá chỉ có thể nhìn thấy khi thủy triều xuống, nằm 1,7 hải
lý về phía nam Middle Rocks và 2,2 hải lý về phía nam-tây nam của Pedra Branca.[5] Cả ba
cấu trúc địa lý trên đều nằm ở lối vào phía Đơng của Eo biển Xinh-ga-po, gần cửa ngõ vào
Biển Đơng, về phía Đơng của Middle Channel, thuộc khu vực các tuyến đường biển nhộn nhịp
nhất trên thế giới.[6]
Ngày 21/12/1979, Ma-lai-xi-a xuất bản bản đồ “Ranh giới Lãnh hải và Thềm lục địa của
Ma-lai-xi-a”, thể hiện Pedra Branca là một phần lãnh thổ của mình. Lập luận của Ma-lai-xi-a là
khi lãnh chúa Johor (tiền thân Ma-lai-xi-a) trao phần đất (về sau là Xinh-ga-po) cho người Anh
3


theo Hiệp ước năm 1824, đảo Pedra Branca không đi cùng phần lãnh thổ được trao và phần
biển thuộc về người Anh chỉ trong bán kính cách Xinh-ga-po 10 hải lý. Trong khi đó, Pedra
Branca cách Xinh-ga-po đến 25 hải lý và cách Johor chỉ có 7,7 hải lý. Vì vậy trên cơ sở các
chứng cứ lịch sử và pháp lý, Pedra Branca thuộc về Ma-lai-xi-a.
Ngày 14/2/1980, Xinh-ga-po đưa ra thông cáo phản đối bản đồ và lập luận của Ma-lai-xia. Xinh-ga-po khẳng định đã sở hữu và thực thi chủ quyền hịa bình và hữu hiệu đối với hịn
đảo này hơn 150 năm, trong đó có việc quản lý và tiến hành xây dựng nhiều cơng trình quan
trọng trên đảo mà Ma-lai-xi-a khơng có bất kỳ động thái hoặc phản hồi nào. Tranh chấp về
Pedra Branca giữa Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-po diễn ra lúc công khai, lúc ngấm ngầm kéo dài cả
thập kỷ 80, tác động đến quan hệ song phương Xinh-ga-po-Ma-lai-xi-a và là chủ đề được thảo

luận ở nhiều cấp (Thủ tướng, Ngoại trưởng, và chuyên gia) và được cả người dân lẫn báo giới
hai nước quan tâm theo dõi.[7]
Quá trình giải quyết tranh chấp
Ngày 22/1/1992, tại một cuộc họp bên lề Cấp cao ASEAN lần thứ 4, Thủ tướng Xinh-gapo Goh Chok Tong và Thủ tướng Ma-lai-xi-a Mahathir Mohamad quyết định sẽ tổ chức trao
đổi tài liệu pháp lý và đàm phán để giải quyết tranh chấp trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế.[8] Ngày 17/2/1992, Xinh-ga-po trao Công hàm và các tài liệu liên quan cho
Ma-lai-xi-a. Trong Công hàm này Xinh-ga-po đề cập đến khả năng giải quyết tranh chấp thơng
qua Tịa án Công lý quốc tế nếu đàm phán không thành công.[9] Ngày 29/6/1992, Ma-lai-xi-a
trao Công hàm và tài liệu liên quan của mình cho Xinh-ga-po. Trong Cơng hàm này Ma-lai-xia không phản hồi đối với ý kiến của Xinh-ga-po về khả năng giải quyết tranh chấp thơng qua
Tịa án Cơng lý quốc tế.
Trong hai năm 1993 và 1994, hai bên tổ chức hai vòng đàm phán để trao đổi các tài liệu
lịch sử và pháp lý nhằm xác định chủ quyền đối với Pedra Branca. Tại vòng đàm phán thứ
nhất, Xinh-ga-po chính thức đề nghị đưa Middle Rocks và South Ledge vào phạm vi khu vực
tranh chấp. Sau vòng đàm phán thứ hai khơng có kết quả, Ma-lai-xi-a tỏ ý chấp nhận xem xét
khả năng giải quyết tranh chấp bằng biện pháp tài phán quốc tế. Ngày 6/9/1994, sau cuộc hội
đàm song phương, Thủ tướng Xinh-ga-po Goh Chok Tong và Thủ tướng Ma-lai-xi-a Mahathir
Mohamad tuyên bố hai bên đã đồng ý về nguyên tắc đưa tranh chấp chủ quyền đối với đảo
Pedra Branca ra giải quyết bởi một “bên thứ ba” nhưng khơng chính thức xác định là cơ quan
tài phán nào và giao chuyên gia pháp lý hai nước nghiên cứu tìm cơ chế giải quyết tranh chấp
phù hợp. Ngày 17/9/1994, 14 năm sau khi tranh chấp phát sinh, Ma-lai-xi-a chính thức đồng ý
giải quyết tranh chấp thơng qua Tịa án Cơng lý quốc tế.[10]
4


Quá trình đàm phán Thỏa thuận đặc biệt đệ trình tranh chấp lên Tịa án Cơng lý quốc tế
kéo dài suốt bốn năm. Khó khăn trong q trình đàm phán chủ yếu xuất phát từ khác biệt của
hai bên liên quan đến phạm vi điều chỉnh của Thỏa thuận (chỉ điều chỉnh tranh chấp Pedra
Branca hay bao gồm cả tranh chấp Middle Rocks và South Ledge); thứ tự liệt kê tên đảo (đặt
Pedra Branca hay Pulau Batu Puteh trước); và quyền và nghĩa vụ của bên thua kiện (có đề xuất
Tịa xác định quyền và lợi ích của bên khơng có chủ quyền đối với Pedra Branca hay khơng).

Năm 1998 đàm phán kết thúc, theo đó hai bên thống nhất đưa cả tranh chấp liên quan đến
Middle Rocks và South Ledge vào phạm vi điều chỉnh của Thỏa thuận. Ma-lai-xi-a đồng ý đặt
Pedra Branca lên trước Pulau Batu Puteh (Pedra Branca/Pulau Batu Puteh) theo thứ tự chữ cái
với điều kiện rằng thứ tự này sẽ không được xem là một yếu tố liên quan đến chủ quyền mà
Tịa án Cơng lý quốc tế sẽ xem xét và hai bên thống nhất khơng u cầu Tịa xác định quyền
và lợi ích của bên khơng có chủ quyền đối với Pedra Branca.[11]
Năm năm sau, vào ngày 6/2/2003, Thỏa thuận đặc biệt được ký và vào ngày 9/5/2003,
Thỏa thuận được hai bên phê chuẩn. Đáng lưu ý, Ma-lai-xi-a chỉ chấp nhận ký Thỏa thuận với
Xinh-ga-po sau khi Tịa án Cơng lý quốc tế ra phán quyết vào ngày 17/12/2002 liên quan đến
tranh chấp về chủ quyền đối với Pulau Ligitan và Pulau Sipadan giữa Indonesia và Ma-lai-xi-a
và tuyên bố Pulau Ligitan và Pulau Sipadan thuộc về Ma-lai-xi-a.[12] Ngày 24/7/2003, Ngoại
trưởng hai nước ký Thơng báo chung gửi Tịa án Cơng lý quốc tế, chính thức trao cho Tịa án
Cơng lý quốc tế quyền phân định chủ quyền đối với Pedra Branca, Middle Rocks và South
Ledge.[13]
Ngày 23/5/2008, năm năm sau khi Xinh-ga-po và Ma-lai-xi-a đệ trình tranh chấp, Tịa án
Cơng lý quốc tế chính thức đưa ra phán quyết về chủ quyền đối với Pedra Branca, Middle
Rocks và South Ledge.[14] Theo phán quyết này, Pedra Branca thuộc về Xinh-ga-po với tỉ lệ
biểu quyết 12-4. Nhóm đảo đá nhỏ Middle Rocks thuộc về Ma-lai-xi-a với kết quả ủng hộ 151. Cũng với tỉ lệ biểu quyết 15-1, Tòa kết luận bãi cạn lúc nổi lúc chìm, South Ledge, cách đảo
chính 3,8km (chỉ nổi khi nước triều rút), thuộc về quốc gia mà vùng lãnh hải có South Ledge.
[15]
Phán quyết của Tồ án Cơng lý quốc tế
Trong phán quyết của mình, Tịa án Cơng lý quốc xác định ngày 14/2/1980 (ngày Xinhga-po trao Công hàm phản đối bản đồ của Ma-lai-xi-a) là “thời điểm quyết định” của tranh
chấp Pedra Branca, đánh dấu việc tranh chấp Pedra Branca chính thức hình thành. Theo đó,
Tịa chỉ xem xét hành vi của các bên tranh chấp đối với Pedra Branca trước thời điểm này. Nói
cách khác, tất cả các hoạt động, phát ngôn, tuyên bố về chủ quyền của các bên tranh chấp sau
5


ngày 14/2/1980 khơng được Tịa xem xét. Tương tự như vậy, đối với tranh chấp Middle Rocks
và South Ledge, Tòa cho rằng ngày 06/2/1993, ngày đầu tiên của vòng đàm phán trao đổi tài

liệu pháp lý giữa Chính phủ Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-po, là “thời điểm quyết định” và chỉ xem
xét hành vi của các bên tranh chấp liên quan đến Middle Rocks và South Ledge trước ngày
06/2/1993.[16]
Về tình trạng pháp lý của Pedra Branca, Tịa phân tích theo hai giai đoạn: trước và sau
năm 1844 khi người Anh tiến hành chuẩn bị xây dựng hải đăng trên Pedra Branca. Trước năm
1844, Tòa bác lập luận của Xinh-ga-po cho rằng Pedra Brance là lãnh thổ vô chủ (terra nullius)
và đồng ý với Ma-lai-xi-a rằng Pedra Branca thuộc về Vương quốc Hồi giáo Johor (tiền thân
của Ma-lai-xi-a). Tuy nhiên, Tòa cũng ghi nhận, từ những năm 1840 đến năm 1980, chủ quyền
đối với Pedra Branca đã được chuyển cho Xinh-ga-po qua các hoạt động thực hiện chủ
quyền liên tục và hịa bình của Anh (và sau đó là Xinh-ga-po) trong một thời gian dài mà Malai-xi-a khơng có bất kỳ sự phản đối nào. Tồ nhận định, trong một số tình huống cụ thể, Malai-xi-a thậm chí cịn ngầm thừa nhận việc thực hiện chủ quyền của Xinh-ga-po. Thư trao đổi
giữa Thư ký thuộc địa Xinh-ga-po và Cố vấn Johor năm 1953 được Tòa xem như một trong
những bằng chứng cho thấy Ma-lai-xi-a không tuyên bố chủ quyền đối với Pedra Branca (Tòa
bác lập luận của Ma-lai-xi-a về việc Cố vấn Johor khơng có thẩm quyền từ bỏ hoặc phủ nhận
chủ quyền của Johor).[17]
Đối với Middle Rocks, Tòa bác lập luận của Xinh-ga-po cho rằng Middle Rocks là một
phần (dependency) của nhóm đảo Pedra Branca. Tòa nhận định rằng, tương tự như Pedra
Branca, Middle Rocks không phải là lãnh thổ vô chủ (terra nullius) mà thuộc chủ quyền của
Johor trước năm 1844. Các hoạt động xác lập chủ quyền của Anh và Xinh-ga-po sau năm 1844
chỉ được tiến hành đối với Pedra Branca và không áp dụng đối với Middle Rocks. Do đó, Tịa
kết luận chủ quyền đối với Middle Rocks vẫn thuộc về Ma-lai-xi-a.[18]
Đối với South Ledge, Tịa trích dẫn Cơng ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 và
án lệ Ca-ta và Ba-ranh[19] và cho rằng đây là bãi cạn lúc chìm lúc nổi, chỉ lộ ra khi thủy triều
thấp nên không tạo thành “lãnh thổ” theo nghĩa giống như một hịn đảo. Do đó, Tịa khơng đưa
ra câu trả lời cụ thể về chủ quyền đối với South Ledge mà chỉ kết luận chung rằng bãi cạn lúc
chìm lúc nổi này sẽ thuộc về nước mà khu vực lãnh hải bao trùm South Ledge.[20]
Hợp tác biển và phân định biển trên cơ sở phán quyết của Toà án Cơng lý quốc tế
Chính phủ Ma-lai-xi-a và Chính phủ Xinh-ga-po đều không phản đối kết quả phân xử. Bộ
trưởng Ngoại giao Ma-lai-xi-a Rais Yatim mơ tả quyết định của Tịa án công lý quốc tế là giải
pháp cả hai cùng thắng và sẽ tác động tích cực đến quan hệ song phương giữa Ma-lai-xi-a và
6



Xinh-ga-po. Phó Thủ tướng Najib Tun Razak cho rằng phán quyết là một quyết định cân bằng
vì Ma-lai-xi-a cũng đã thành công một phần trong yêu sách lãnh thổ của mình.[21] Phó thủ
tướng Xinh-ga-po S. Jayakumar bày tỏ sự hài lịng của Xinh-ga-po vì Tịa đã trao chủ quyền
của Pedra Branca, đối tượng chính của cuộc tranh cãi, cho Xinh-ga-po. Thủ tướng Lý Hiển
Long nhấn mạnh việc đưa tranh chấp lên Tòa phân xử là một cách tốt để các bên có thể giải
quyết những bất đồng mà vẫn duy trì quan hệ láng giềng tốt đẹp.[22]
Mặc dù cũng có một số phản ứng chính trị nội bộ, đặc biệt là tại Quốc hội Ma-lai-xi-a và
bang Johor của Ma-lai-xi-a, về kết quả phán quyết, cả Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-po đều khẳng
định cam kết tuân thủ và thực hiện đầy đủ phán quyết của Tịa án Cơng lý quốc tế. Chỉ 10 ngày
sau phán quyết của Tịa án Cơng lý quốc tế, ngày 03/6/2008, Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-po đã
thống nhất thành lập Ủy ban Kỹ thuật chung Ma-lai-xi-a-Xinh-ga-po (MSJTC) để triển khai
thực hiện phán quyết.[23] Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-po cũng nhất trí một trong hai bên đều có
thể hỗ trợ tàu gặp nạn tại các vùng biển gần Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge và
ngư dân cả hai nước đều có thể tiếp tục các hoạt động đánh bắt cá truyền thống của họ tại vùng
biển này.
Theo kết quả của cuộc họp ngày 20/8/2008 của Tiểu ban Nghề cá và Quản lý Hàng hải và
Không phận, các hoạt động đánh bắt cá truyền thống của cả hai nước sẽ tiếp tục được duy trì
trong vùng biển cách Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge hơn 0,5 hải lý.
Việc chuẩn bị kỹ thuật phục vụ khảo sát thủy văn làm cơ sở cho đàm phán phân định lãnh
hải giữa hai nước được Ủy ban Kỹ thuật chung giao cho Tiểu ban Nghiên cứu Khảo sát. Đến
tháng 7/2010, Tiểu Ban Nghiên cứu Khảo sát đã hoàn thành soạn thảo Bản ghi nhớ (MOU) về
khảo sát thủy văn tại khu vực Pedra Branca và Middle Rocks. Bản ghi nhớ được ký kết tại
cuộc họp thứ năm của Ủy ban Kỹ thuật chung vào ngày 02/12/2010, tạo cơ sở pháp lý để hai
bên tiếp tục tiến hành việc nghiên cứu xác định đặc tính của South Ledge và phân định biên
giới biển. In-đô-nê-xi-a cũng đã bày tỏ quan tâm muốn tham gia vào quá trình khảo sát, nghiên
cứu và đàm phán vì cho rằng vùng biển mà Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-po đàm phán có thể chồng
lấn với vùng biển của In-đô-nê-xia.[24]
Tuy nhiên, đến năm 2013, MSJTC rơi vào tình trạng bế tắc do hai bên khơng thể nhất

trí về lãnh hải quanh Pedra Branca và South Ledge. Tình trạng bất định kéo dài này đã gây khó
khăn cho nhiệm vụ đảm bảo mối quan hệ hịa bình và hữu nghị giữa hai nước.
Ngày 2/2/2017, Malaysia đã gửi đơn yêu cầu ICJ sửa đổi phán quyết năm 2008 về chủ
quyền đối với Pedra Branca. Malaysia đã viện dẫn 3 tài liệu được Anh giải mật gần đây để hỗ
trợ cho việc nộp đơn yêu cầu xem xét lại phán quyết về Pedra Branca, đó là thư từ trao đổi nội
7


bộ của giới chức Singapore thời thuộc địa năm 1958, báo cáo tai nạn của Hải quân Anh năm
1958 và một bản đồ chú thích về các hoạt động hải quân từ thập niên 1960. Những tài liệu này
đã được tìm thấy trong Cơ quan Lưu trữ quốc gia Anh từ 4/8/2016 đến 30/1/2017. Malaysia
cho rằng đây là những tình tiết quan trọng, mới được phát hiện có thể ảnh hưởng đến quyết
định của Tòa và cả tòa và Malaysia đều không biết tới tại thời điểm phán quyết được đưa ra.
Tháng 6 năm 2017, Malaysia tiếp tục nộp đơn xin giải thích nhằm làm rõ phán quyết
phán quyết năm 2008 của ICJ về Pedra Branca và dải South Ledge với lập luận vùng nước
xung quanh Pedra Branca và dải South Ledge “nằm trong lãnh hải của Malaysia, nên phải
thuộc chủ quyền nước này chứ không phải Singapore”.
Sau khi nhận được thông báo từ Malaysia về việc nộp đơn yêu cầu xem xét lại phán
quyết nói trên, Singapore đã nghiên cứu kỹ đơn và tài liệu của Malaysia, thành lập nhóm
chuyên gia pháp lý (gồm có Bộ trưởng tư pháp Lucien Wong, Giáo sư S. Jayakumar, Giáo sư
Tommy Koh và cựu Chánh án Chan Sat Keong) để xem xét yêu cầu của Malaysia; lựa chọn
Thẩm phán Gilbert Guillaume tham gia vào quá trình giải quyết yêu cầu của Malaysia theo
đúng Quy chế của Tịa. Singapore đã đệ trình Bản Ghi nhớ bằng văn bản về sự chấp nhận đơn
đăng ký của Malaysia với ICJ vào ngày 24/5/2017 theo đúng thời hạn và ln sẵn sàng cho
việc trình bày các lập luận theo đúng tiến độ mà ICJ đã ấn định cho th.tục tố tụng.
Với yêu cầu giải thích phán quyết từ Malaysia, mặc dù có sự phản đối từ đầu (vì cho rằng
Phán quyết của ICJ rõ ràng, yêu cầu của Malaysia là khơng cần thiết và khơng có giá trị)
nhưng Singapore luôn giữ vững cam kết giải quyết tất cả vấn đề theo đúng pháp luật quốc tế.
Ngày 30/10/2017 Singapore nộp Bản Ghi nhớ bằng văn bản tới Tòa bác bỏ tồn diện u cầu
giải thích phán quyết của ICJ 2008 của Malaysia; chỉ định Thẩm phán Guillaume làm thẩm

phán adhoc tham gia vụ việc; đồng thời chuẩn bị đầy đủ cho các phiên điều trần tại ICJ. Trên
cơ sở thông báo của Malaysia ngày 28/5/2018 (về việc sẽ ngừng các thủ tục mà Malaysia đã
khởi xướng trước đó) và thông báo của Singapore ngày 29/5/2018 (đồng ý với yêu cầu của
Malaysia). Ngày 29/5/2018, ICJ ra Lệnh ghi nhận việc ngừng tiến hành tố tụng (được Malaysia
khởi xướng ngày 2/2/2017 và ngày 30/6/2017 chống lại Singapore) theo thỏa thuận của các
bên và chỉ đạo xóa khỏi Danh sách của Tòa án các vụ việc này1.

1 Chi tiết sự việc tại />
8


4. Vụ Nhân viên Ngoại giao và Lãnh sự Mỹ tại Tehran 1979 (Mỹ và Iran)
-

Xem chi tiết tại và các nguồn khác với kw “vụ bắt
cóc con tin Mỹ 1979”

-

(phán quyết)

-

[104] Quyền miễn trừ, ưu đãi ngoại giao và lãnh sự – Luật pháp Quốc tế (iuscogens-vie.org)

-

NOTE:
Đơn kiện + yêu cầu áp dụng các biện pháp tạm thời ngày 29 tháng 11 năm 1979
Lệnh của ICJ ngày 15 tháng 12 năm 1979 về áp dụng các biện pháp tạm thời

Phán quyết ngày 24 tháng 5 năm 1980
TỔNG QUAN VỀ VỤ ÁN (Từ Google dịch - />Vụ việc được Hoa Kỳ đưa ra trước Tòa án sau khi các chiến binh Iran chiếm đóng Đại

sứ quán của họ ở Tehran vào ngày 4 tháng 11 năm 1979, và bắt giữ làm con tin của các nhân
viên ngoại giao và lãnh sự của nước này. Theo yêu cầu của Hoa Kỳ về việc chỉ ra các biện
pháp tạm thời, Tịa án cho rằng khơng có điều kiện tiên quyết cơ bản nào cho quan hệ giữa các
Quốc gia ngoài quyền bất khả xâm phạm của các đặc phái viên ngoại giao và đại sứ quán, và
nó chỉ ra các biện pháp tạm thời để đảm bảo khôi phục ngay lập tức cho Hoa Kỳ. Kỳ trong
khuôn viên Đại sứ quán và việc thả con tin.
Trong quyết định của mình về giá trị của vụ việc, tại thời điểm mà tình hình bị khiếu nại vẫn
cịn kéo dài, Tịa án, trong Phán quyết ngày 24 tháng 5 năm 1980, nhận thấy rằng Iran đã vi
phạm và vẫn đang vi phạm các nghĩa vụ mà nước này có đối với Hoa Kỳ theo các cơng ước có
hiệu lực giữa hai quốc gia và các quy tắc của luật pháp quốc tế chung, rằng việc vi phạm các
nghĩa vụ này có liên quan đến trách nhiệm của mình và Chính phủ Iran bị ràng buộc đảm bảo
việc thả con tin ngay lập tức, để khôi phục lại cơ sở của Đại sứ quán, và thực hiện việc sửa
chữa tổn hại đã gây ra cho Chính phủ Hoa Kỳ. Tịa tái khẳng định tầm quan trọng cơ bản của
các nguyên tắc luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ ngoại giao và lãnh sự. Nó chỉ ra rằng, trong
khi các sự kiện ngày 4 tháng 11 năm 1979, hành động của các chiến binh không thể được quy
trực tiếp cho Nhà nước Iran - vì thiếu thơng tin đầy đủ - nhưng Nhà nước đã khơng làm gì để
ngăn chặn cuộc tấn cơng,ngăn chặn nó trước khi nó hồn thành hoặc u cầu các chiến binh rút
khỏi cơ sở và thả con tin.
9


Tòa án lưu ý rằng, sau ngày 4 tháng 11 năm 1979, một số cơ quan của Nhà nước Iran đã
tán thành các hành vi bị khiếu nại và quyết định tiếp tục các hành vi đó, để những hành vi đó
được chuyển thành hành vi của Nhà nước Iran. Tòa án đã đưa ra phán quyết, bất chấp sự vắng
mặt của Chính phủ Iran và sau khi bác bỏ các lý do mà Iran đưa ra trong hai thông báo gửi tới
Tòa án để ủng hộ khẳng định rằng Tịa án khơng thể và khơng nên giải quyết vụ việc.
Tịa án đã khơng được u cầu đưa ra phán quyết tiếp theo về việc bồi thường tổn thất

gây ra cho Chính phủ Hoa Kỳ vì, theo Lệnh ngày 12 tháng 5 năm 1981, vụ việc đã bị xóa khỏi
Danh sách sau khi ngừng tố tụng.
5. Tham khảo thêm: Vụ Palestine kiện Mỹ 2018 tại Tịa ICJ về Cơng ước Viên về

Quan hệ ngoại giao năm 1961: Sơ bộ về thẩm quyền
/>Nội dung của tranh chấp – Bốn câu hỏi về thẩm quyền của Tòa – Liệu Palestine là một quốc
gia? – Liệu có quan hệ điều ước giữa Palestine và Mỹ? – Liệu tranh chấp có liên quan đến
giải thích hay áp dụng Cơng ước Viên năm 1961? – Liệu Israel có là một bên tranh chấp
khơng thể thiếu? – Kết luận sơ bộ
Ngày 28 tháng 9 năm 2018, Palestine khởi kiện Mỹ ra Tịa án Cơng lý Quốc tế (ICJ) liên quan
đến việc Mỹ di chuyển trụ sở đại sứ quán của nước này tại Israel từ Tel Aviv đến Jerusalem
(xem đơn kiện bằng tiếng Anh tại đây, tóm tắt của Ban thư ký Tịa tại đây). Đại sứ quán Mỹ tại
Jerusalem được chính thức mở cửa vào ngày 14 tháng 5 năm 2018.[1] Đây là vụ kiện đầu tiên
mà Palestine tiến hành trước Tòa ICJ. Palestine yêu cầu Tịa tun bố Mỹ đã vi phạm Cơng
ước Viên về Quan hệ ngoại giao năm 1961 khi di chuyển đại sứ quán đến Jerusalem, buộc Mỹ
rút phái đoàn ngoại giao khỏi Jerusalem và cam kết không tái phạm.[2]
1. Nội dung tranh chấp được đệ trình
Palestine cho rằng Jerusalem có quy chế pháp lý quốc tế đặc biệt theo các nghị quyết của Đại
hội đồng Liên hợp quốc. Nghị quyết 181(II) năm 1947 khẳng định “Thành phố Jerusalem được
xác lập như một thực thể riêng biệt với quy chế quốc tế đặc biệt.” Điều đó có nghĩa là
Jerusalem khơng là một phần lãnh thổ của Israel. Do đó, việc Mỹ di chuyển đại sứ quán của
mình tại Israel đến Jerusalem đã vi phạm các quy định của Công ước Viên năm 1961.
Các quy định của Công ước Viên năm 1961 sử dụng cụm từ “ở quốc gia tiếp nhận” (in the
receiving State) ở nhiều điều khoản, ví dụ như Điều 3(1) về chức năng của phái đoàn ngoại
giao là đại diện cho quốc gia ở quốc gia tiếp nhận. Theo đó, rõ ràng rằng chức năng đại diện
của phái đồn ngoại giao (và hai chức năng khác trong năm chức năng theo Điều 3(1)) phải
được thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia tiếp nhận.[3] Điều 3(1) nêu trên quy định nguyên
văn rằng:
“1. Các chức năng của một phái đoàn ngoại giao bao gồm, inter alia,:






Đại diện quốc gia gửi ở quốc gia tiếp nhận;
Bảo vệ lợi ích của quốc gia gửi và của cơng dân của mình ở quốc gia tiếp nhận trong
khuôn khổ cho phép của luật quốc tế;
Đàm phán với Chính phủ quốc gia tiếp nhận;
Thu thập bằng các biện pháp hịa bình các điều kiện và tình hình phát triển ở quốc gia
tiếp nhận, và báo cáo về cho Chính phủ quốc gia gửi;
10


Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa quốc gia gửi và quốc gia tiếp nhận, và phát triển quan
hệ kinh tế, văn hóa và khoa học giữa hai nước.”
Theo Palestine, cụm từ “ở quốc gia tiếp nhận” còn được sử dụng ở 12 điều khoản khác của
Công ước, và điều này cho thấy phái đoàn ngoại giao của một quốc gia phải được thành lập
trên lãnh thổ của quốc gia tiếp nhận.[4] Hơn nữa, Điều 21(1) cũng quy định quốc gia tiếp nhận
sẽ tạo điều kiện cho phái đoàn ngoại giao mua trụ sở trên lãnh thổ của mình (on its territory).
[5] Tóm lại, Palestine cho rằng Jerusalem khơng phải là lãnh thổ của Israel, mà Công ước Viên
năm 1961 lại yêu cầu phái đoàn ngoại giao của một nước phải được thành lập trên lãnh thổ của
quốc gia tiếp nhận, do đó, việc Mỹ di chuyển đại sứ quán của mình tại Israel đến Jerusalem đã
vi phạm Cơng ước trên.
2. Bốn câu hỏi về thẩm quyền của Tòa ICJ
Theo đơn kiện của Palestine,[6] Tịa ICJ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp mà Palestine đệ
trình theo Điều 1 của Nghị định thư tùy chọn của Công ước Viên về Quan hệ ngoại giao. Công
ước Viên về Quan hệ ngoại giao năm 1961 có hiệu lực năm 1964. Cơng ước được thông qua
kèm với một nghị định thư: Nghị định thư tùy chọn về Giải quyết tranh chấp bắt buộc
(Optional Protocol concerning the Compulsory Settlement of Disputes 1961). Nghị định thư
này cũng có hiệu lực năm 1964. Điều 1 Nghị định thư tùy chọn quy định

“Các tranh chấp phát sinh từ việc giải thích hay áp dụng Cơng ước sẽ thuộc thẩm quyền bắt
buộc của Tịa án Cơng lý Quốc tế và theo đó có thể được đệ trình trước Tòa theo đơn kiện của
bất kỳ bên tranh chấp nào là Thành viên của Nghị định thư này.”
Mỹ là thành viên của Công ước Viên và Nghị định thư nêu trên vào năm 1972. Palestine gia
nhập Công ước Viên ngày 02 tháng 04 năm 2014 và Nghị định thư tùy chọn ngày 22 tháng 03
năm 2018. Ngay sau đó, ngày 01 tháng 5 năm 2018, Mỹ gửi công hàm cho Tổng thư ký Liên
hợp quốc khẳng định Palestine không là một quốc gia có chủ quyền, khơng có quyền gia nhập
Nghị định thư tùy chọn và do đó khơng có quan hệ điều ước với Palestine theo Nghị định thư
tùy chọn.[7] Ngày 12 tháng 10 năm 2018, hai tuần sau khi Palestine khởi kiện Mỹ ra Tòa ICJ
dựa trên Nghị định thư tùy chọn, Tổng thư ký Liên hợp quốc nhận được công hàm của Mỹ
tuyên bố rút khỏi Nghị định thư.[8]
Để xem xét Tịa ICJ có thẩm quyền hay khơng, bốn vấn đề sau đây có thể được xem xét đến:
(1) Palestine có là một Quốc gia hay khơng?, (2) có hay khơng quan hệ điều ước giữa Mỹ và
Palestine liên quan đến Công ước Viên năm 1961? (3) tranh chấp về di chuyển đại sứ quán Mỹ
có phải là tranh chấp về giải thích hay áp dụng Cơng ước Viên hay khơng? Và (4) Israel có
phải là một bên không thể thiếu trong tranh chấp?
Đọc thêm hai bài phân tích trên EJIL Talk!: Palestine Sues the United States in the ICJ re
Jerusalem Embassy của Marko Milanovic, và Palestine’s Application the ICJ, neither
Groundless nor Hopeless. A Reply to Marko Milanovic của Alina Miron.
Câu hỏi 1: Palestine có là một Quốc gia hay không?
Câu hỏi này được đặt ra bởi lẻ câu trả lời sẽ có tính quyết định trong việc xác định liệu Nghị
định thư tùy chọn có được xem là căn cứ xác lập thẩm quyền của Tòa và liệu Palestine có
quyền đệ trình tranh chấp lên Tịa hay không. Nếu Palestine không phải là quốc gia, vậy Tịa
khơng thể có thẩm quyền để xem xét vụ kiện (xem thêm Định nghĩa Quốc gia trong luật quốc
tế).
Chỉ có Quốc gia mới có quyền là thành viên của Cơng ước Viên năm 1961 và Nghị định thư
tùy chọn. Điều 48 và 50 của Công ước Viên năm 1961 quy định chỉ có bốn nhóm quốc gia
(State) có quyền gia nhập Công ước này: Quốc gia thành viên của Liên hợp quốc, Quốc gia
thành viên của các cơ quan chuyên trách, Quốc gia là thành viên của Quy chế Tòa, các Quốc
gia khác được Đại hội đồng mời gia nhập. Điều V và VII của Nghị định thư tùy chọn quy định

các Quốc gia thành viên của Công ước Viên và tất cả các Quốc gia khác có thể trở thành thành


11


viên của Cơng ước đều có quyền gia nhập Nghị định thư. Tóm lại, chỉ có Quốc gia mới có
quyền gia nhập Công ước và Nghị định thư tùy chọn.
Theo Quy chế Tịa ICJ, cũng chỉ có Quốc gia mới có tư cách đệ trình tranh chấp cho Tịa giải
quyết. Điều 35 Quy chế Tòa quy định Tòa chỉ mở cho các Quốc gia thành viên của Quy chế
Tòa và các Quốc gia khác. Các thực thể phi quốc gia, như tổ chức quốc tế, khơng có quyền đệ
trình tranh chấp để giải quyết trước Tịa ICJ. Nói cách khác, Tòa chỉ giải quyết tranh chấp giữa
quốc gia và quốc gia.
Đa số các quốc gia trên thế giới công nhận Palestine là một quốc gia – chủ thể của luật quốc tế.
Tuy nhiên, một số nước lớn vẫn chưa công nhận Quốc gia Palestine như Mỹ và EU. Mỹ không
cho rằng Palestine đủ tiêu chí để là một quốc gia độc lập.[9] Palestine đương nhiên cho rằng
mình là một quốc gia, và đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thay mặt cộng đồng quốc tế
cơng nhận.[10] Palestine trích vẫn Nghị quyết 67/19 (2012) Đại hội đồng công nhận “quy chế
Quốc gia quan sát viên phi thành viên của Liên hợp quốc” (non-member observer State in the
United Nations). Không rõ vì sao Bộ Ngoại giao Việt Nam lại dịch là ‘quy chế Nhà nước quan
sát viên phi thành viên’,[11] và dịch ‘the State of Palestine’ là ‘Nhà nước Palestine’.[12] Từ
góc độ luật quốc tế, cách dịch này mang tính đa nghĩa, dễ gây hiểu lầm không cần thiết.
Quy chế pháp lý của Palestine vẫn là một vấn đề gây tranh cãi, rất nhạy cảm về mặt chính trị.
Do đó, nhiều khả năng Tịa sẽ tìm cách khơng phải đề cập đến vấn đề này.
Câu hỏi 2: Có quan hệ điều ước giữa Mỹ và Palestine theo Nghị định thư tùy chọn?
Câu hỏi này quan trọng ở chỗ hai quốc gia có thể đều là thành viên của một điều ước nhưng lại
khơng có quan hệ điều ước với nhau. Vấn đề này được nêu lên một cách rất thông minh bởi
Sotirios Lekkas trên EJIL Talk![13] Như đã đề cập ở trên, ngay khi Palestine gửi công hàm gia
nhập Nghị định thư tùy chọn, Mỹ đã có cơng hàm khẳng định khơng có quan hệ điều ước với
Palestine theo Nghị định thư này. Tình huống này tương tự như việc Israel và các nước Ả-rập

cùng gia nhập các điều ước đa phương nhưng ln có tun bố khơng cơng nhận nhau đi kèm.
Sotirios Lekkas cho rằng nếu đã khơng có quan hệ điều ước theo Nghị định thư tùy chọn thì
Điều 1 và mọi điều khoản khác của Nghị định thư đều khơng có hiệu lực pháp lý giữa hai
nước, và do đó, Tịa khơng có thẩm quyền xem xét mà khơng cần thiết xem xét đến câu hỏi
liệu Palestine có phải là một quốc gia hay không.
Marko Milanovic không đồng ý với Sotirios Lekkas,[14] ông cho rằng tuyên bố của Mỹ là vơ
hiệu về mặt pháp lý bởi vì một quốc gia khơng có quyền đơn phương vơ hiệu hóa (inoperative)
quan hệ điều ước giữa quốc gia thành viên và quốc gia mới gia nhập. Quyền đó chỉ có thể khi
có bảo lưu hợp pháp.
Vấn đề liệu một quốc gia có quyền từ chối quan hệ điều ước với một quốc gia mới gia nhập
hay không là một vấn đề rất thú vị, cần nghiên cứu thêm. Ở đây một điểm cần lưu ý rằng, toàn
bộ hệ thống pháp lý quốc tế được xây dựng dựa trên nền tảng sự đồng ý của quốc gia. Các
quốc gia có quyền quyết định xác lập hay không xác lập quan hệ điều ước với quốc gia khác
thông qua việc ký kết các điều ước. Mặt khác, khi tham gia vào các điều ước quốc tế đa
phương mở cho nhiều quốc gia khác thì các quốc gia cũng phải dự trù và có thể xem là ngầm
đồng ý với việc phải xác lập quan hệ điều ước với các quốc gia gia nhập sau. Nếu ý kiến thứ
hai này là đúng thì câu hỏi về tư cách quốc gia của Palestine sẽ nhất định cần xem xét đến; còn
nếu ý kiến thứ nhất là đúng thì vụ kiện có thể bị bác mà không cần xem xét đến các căn cứ
khác.
Câu hỏi 3: Tranh chấp mà Palestine đệ trình có liên quan đến giải thích và áp dụng Cơng ước
Viên?
Vấn đề thứ ba mà Tòa cần xem xét là liệu nội dung tranh chấp mà Palestine đệ trình có liên
quan đến giải thích và áp dụng Công ước Viên hay không? Nếu tranh chấp được đệ trình
12


khơng liên quan đến Cơng ước Viên năm 1961 thì Palestine không thể dựa vào Nghị định thư
tùy chọn để khởi kiện, và Tịa ICJ cũng khơng thể có thẩm quyền theo Nghị định thư đó.
Theo các án lệ của Tịa ICJ, để xác định một tranh chấp có liên quan đến giải thích hay áp
dụng một điều ước hay khơng, cần phải có bằng chứng cho thấy tranh chấp đó liên quan đến

nội dung, vấn đề được điều ước đó điều chỉnh (the subject-matter of the treaty), tốt nhất là đề
cập trực tiếp đến điều ước đó trong các trao đổi (ví dụ như tên của điều ước, điều khoản của
điều ước chẳng hạn).[15] Trong đơn kiện của mình, Palestine dẫn hai công hàm gửi đến Mỹ
liên quan đến việc di chuyển đại sứ quán đến Jerusalem có nhắc đến Công ước Viên năm 1961.
[16] Công hàm ngày 14/05/2018 của Palestine gửi Bộ Ngoại giao Mỹ xem hành động của Mỹ
là vi phạm Công ước Viên năm 1961. Công hàm ngày 04/07/2018 thông báo cho Bộ Ngoại
giao Mỹ về việc đang có tranh chấp giữa hai nước theo Điều I và II của Nghị định thư tùy chọn
liên quan đến giải thích và áp dụng Cơng ước Viên.
Như vậy, rõ ràng rằng Palestine đã có thơng báo gửi trực tiếp đến Mỹ đề cập đế tranh chấp liên
quan đến giải thích và áp dụng Cơng ước Viên năm 1961. Đặc biệt là công hàm ngày
04/07/2018 thông báo rõ ràng, không mập mờ về sự tồn tại một tranh chấp như thế. Hơn nữa,
như tóm tắt ở trên, nội dung tranh chấp theo đơn kiện mà Palestine đệ trình liên quan đến nội
hàm của các quy định của Công ước Viên năm 1961 – nội hàm của cụm từ “ở nước tiếp nhận”
sử dụng trong Cơng ước có được hiểu là đại sứ quán của một nước phải ở trong lãnh thổ của
nước tiếp nhận hay khơng. Ngồi ra, với hai cơng hàm này, Palestine cũng có thể lập luận rằng
nước này đã thỏa mãn điều kiện thủ tục (nếu có) theo quy định của Nghị định thư tùy chọn về
việc thông báo sự tồn tại của một tranh chấp.
Câu hỏi 4. Israel có phải là một bên tranh chấp không thể thiếu?
Câu hỏi thứ ba cũng rất quan trọng, và có thể có tính chất quyết định trong việc Tịa có xem
xét vụ kiện hay khơng. Nếu Israel là một bên tranh chấp khơng thể thiếu thì Tịa chỉ có thể
thực thi thẩm quyền xem xét vụ kiện khi Israel chấp nhận thẩm quyền của Tịa hoặc có u cầu
can thiệp (intervene) vào vụ kiện theo Điều 62 Quy chế Tịa ICJ. Israel hiện khơng là thành
viên của Nghị định thư tùy chọn và cũng khơng có tun bố chấp nhận thẩm quyền của Tòa.
Việc Tòa từ chối thực thi thẩm quyền giải quyết một tranh chấp được đệ trình khi khơng có sự
đồng ý của một bên thứ ba không thể thiếu thường được gọi là nguyên tắc Monetary Gold
(Monetary Gold principle) theo tên của vụ việc đầu tiên mà Tòa xem xét nguyên tắc này – Vụ
Tiền vàng được đưa khỏi Rome năm 1943 giữa Ý và Pháp, Anh và Mỹ (Monetary Gold
Removed from Rome in 1943). Trong vụ kiện này, bốn nước là Ý, Pháp, Anh và Mỹ đã ký
thỏa thuận đặc biệt (special agreement) chấp nhận thẩm quyền của Tòa để xem xét vụ kiện
này. Nhưng, trong phán quyết năm 1954, Tịa khơng đồng ý xem xét vụ kiện khi Albania

không đồng ý tham gia bởi vì “các lợi ích pháp lý của Albania sẽ khơng chỉ bị ảnh hưởng nếu
Tịa ra phán quyết mà còn sẽ là nội dung thực chất của một phán quyết như thế.”[17] Trong
phán quyết năm 1995 trong Vụ Đông Timor giữa Bồ Đào Nha và Australia, Tòa đã khẳng định
lại nguyên tắc này như là phái sinh của một trong những nguyên tắc cơ bản trong Quy chế Tòa:
Tòa chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi các quốc gia tranh chấp đồng ý với thẩm
quyền của Tòa.[18] Tòa đã từ chối giải quyết tranh chấp trên với lý do Indonesia khơng đồng ý
tham gia. Tịa cho rằng:
“[…] trong vụ việc này, hiệu lực của phán quyết mà Bồ Đào Nha yêu cầu sẽ tương đương với
việc xác định liệu Indonesia cho quân vào và tiếp tục chiếm đóng Đơng Timor có hợp pháp
hay khơng và theo đó, liệu Indonesia có quyền ký kết điều ước quốc tế trong vấn đề về tài
nguyên thềm lục địa của Đông Timor hay không. Quyền và nghĩa vụ của Indonesia sẽ là một
nội dung thực chất của một phán quyết như thế mà khơng có sự đồng ý của Quốc gia này. Một
phán quyết như vậy sẽ trái ngược trực tiếp với ‘một nguyên tắc rõ ràng của luật quốc tế, như
được ghi nhận trong Quy chế Tòa, cụ thể rằng Tịa chỉ có thể thực thi thẩm quyền với một
Quốc gia khi Quốc gia đó đồng ý.’”[19]
13


Tóm lại, nếu quyền và nghĩa vụ của một quốc gia là nội dung chính của một vụ kiện thì Tòa
chỉ xem xét giải quyết vụ kiện khi quốc gia đó đồng ý.
Trong vụ kiện của Palestine, có vẻ nguyên tắc này sẽ là căn cứ quan trọng nhất để Mỹ đề nghị
Tịa khơng giải quyết vụ kiện. Quyền và nghĩa vụ của Israel sẽ khó có thể khơng bị ảnh hưởng
trực tiếp từ một phán quyết của Tòa ở nhiều khía cạnh. Israel vẫn xem Jerusalem là thủ đơ của
mình và là một phần lãnh thổ của Israel. Nếu Tịa cho rằng Cơng ước Viên u cầu đại sứ quán
của một nước phải ở trên lãnh thổ của nước tiếp nhận thì rõ ràng việc kết luận Mỹ có vi phạm
khi di chuyển đại sứ quán đến Jerusalem sẽ cần Tịa giải quyết vấn đề Jerusalem có thuộc lãnh
thổ của Israel hay khơng. Đương nhiên, nếu Tịa cho rằng Cơng ước Viên khơng nên được giải
thích như trên thì Tịa có thể kết luận Mỹ khơng vi phạm mà không cần thiết xem xét đến quy
chế lãnh thổ của Jerusalem. Lập luận như thế buộc Tòa phải xem xét giải thích Cơng ước Viên
trước khi đi đến quyết định liệu có thực thi thẩm quyền giải quyết tranh chấp mà Palestine đệ

trình hay khơng. Điều này hàm ý rằng có khả năng Tịa khơng thể chia tách thành hai giai đoạn
xét xử: phiên xem xét thẩm quyền và phiên xem xét thực chất.
3. Kết luận sơ bộ
Vụ kiện mà Palestine đệ trình sẽ là một trong những vụ kiện gây “đau đầu” nhất cho các thẩm
phán Tòa ICJ trong thời gian gần đây bởi tính chất nhạy cảm chính trị. Mặc dù Tòa là một cơ
quan tư pháp, xét xử theo luật quốc tế nhưng không thể loại trừ yếu tố chính trị tác động đến
hoạt động của Tịa. Trong Vụ xin ý kiến tư vấn về việc Israel xây dựng bức tường trên lãnh thổ
chiếm đóng của Palestine năm 2004, Tòa đã xác định rõ ràng rằng Israel đã vi phạm luật pháp
quốc tế. Nhưng vụ việc đó là theo thủ tục xin ý kiến tư vấn, khác với vụ kiện của Palestine lần
này. Trong vụ kiện này, nội dung tranh chấp liên quan đến Công ước Viên thực chất không
quan trọng và cũng không thực sự phức tạp về mặt pháp lý. Cái mà Tòa đặc biệt khó khăn phải
đối mặt: Liệu Palestine có phải là một quốc gia hay khơng?
Có hai viễn cảnh. Thứ nhất, Tịa chấp nhận có thẩm quyền và theo đó cơng nhận Palestine là
một quốc gia – chủ thể của luật quốc tế. Kết luận như thế hoàn toàn phù hợp với luật quốc tế
về tư cách quốc gia (xem thêm Định nghĩa Quốc gia trong luật quốc tế), và ý kiến của tuyệt đại
đa số các quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Phán quyết của Tòa sẽ là viên gạch cuối cùng để
kết tinh ý kiến đa số đó, khép lại một trong những vấn đề tranh cãi pháp lý nhưng vô lý và phi
đạo đức. Đương nhiên, một số quốc gia sẽ rất khơng hài lịng. Viễn cảnh này đầy hy vọng
nhưng khá khơng chắc chắn.
Thứ hai, Tịa sẽ từ chối xem xét vụ kiện với lý do: (a) Israel là bên thứ ba không thể thiếu theo
nguyên tắc Monetary Gold, (b) khơng có quan hệ điều ước giữa Mỹ và Palestine, và tệ hại nhất
là (c) Palestine không là một quốc gia. Nhiều khả năng nhất, dù rất khơng mong muốn, là Tịa
sẽ khơng giải quyết vụ kiện này với lý do (a) và (b) ở trên. Trần H. D. Minh

14


4. Vụ Nhân viên Ngoại giao và Lãnh sự Mỹ tại Tehran 1979 (Mỹ và Iran)
-


Xem chi tiết tại và các nguồn khác với kw “vụ bắt cóc con
tin Mỹ 1979”

-

(phán quyết)

-

[104] Quyền miễn trừ, ưu đãi ngoại giao và lãnh sự – Luật pháp Quốc tế (iuscogens-vie.org)

- NOTE:
Đơn kiện + yêu cầu áp dụng các biện pháp tạm thời ngày 29 tháng 11 năm 1979
Lệnh của ICJ ngày 15 tháng 12 năm 1979 về áp dụng các biện pháp tạm thời
Phán quyết ngày 24 tháng 5 năm 1980
TỔNG QUAN VỀ VỤ ÁN
Vụ việc được Hoa Kỳ đưa ra trước Tòa án sau khi các chiến binh Iran chiếm
đóng Đại sứ quán của họ ở Tehran vào ngày 4 tháng 11 năm 1979, và bắt giữ làm con
tin của các nhân viên ngoại giao và lãnh sự của nước này. Theo yêu cầu của Hoa Kỳ về
việc chỉ ra các biện pháp tạm thời, Tòa án cho rằng khơng có điều kiện tiên quyết cơ
bản nào cho quan hệ giữa các Quốc gia ngoài quyền bất khả xâm phạm của các đặc phái
viên ngoại giao và đại sứ quán, và nó chỉ ra các biện pháp tạm thời để đảm bảo khôi
phục ngay lập tức cho Hoa Kỳ. Kỳ trong khuôn viên Đại sứ quán và việc thả con tin.
Trong quyết định của mình về giá trị của vụ việc, tại thời điểm mà tình hình bị khiếu nại
vẫn còn kéo dài, Tòa án, trong Phán quyết ngày 24 tháng 5 năm 1980, nhận thấy rằng
Iran đã vi phạm và vẫn đang vi phạm các nghĩa vụ mà nước này có đối với Hoa Kỳ theo
các cơng ước có hiệu lực giữa hai quốc gia và các quy tắc của luật pháp quốc tế chung,
rằng việc vi phạm các nghĩa vụ này có liên quan đến trách nhiệm của mình và Chính
phủ Iran bị ràng buộc đảm bảo việc thả con tin ngay lập tức, để khôi phục lại cơ sở của
Đại sứ quán, và thực hiện việc sửa chữa tổn hại đã gây ra cho Chính phủ Hoa Kỳ. Tòa

tái khẳng định tầm quan trọng cơ bản của các nguyên tắc luật quốc tế điều chỉnh các
quan hệ ngoại giao và lãnh sự. Nó chỉ ra rằng, trong khi các sự kiện ngày 4 tháng 11
năm 1979, hành động của các chiến binh không thể được quy trực tiếp cho Nhà nước
Iran - vì thiếu thơng tin đầy đủ - nhưng Nhà nước đã khơng làm gì để ngăn chặn cuộc
tấn cơng,ngăn chặn nó trước khi nó hoàn thành hoặc yêu cầu các chiến binh rút khỏi cơ
sở và thả con tin.
15


Tòa án lưu ý rằng, sau ngày 4 tháng 11 năm 1979, một số cơ quan của Nhà nước
Iran đã tán thành các hành vi bị khiếu nại và quyết định tiếp tục các hành vi đó, để
những hành vi đó được chuyển thành hành vi của Nhà nước Iran. Tòa án đã đưa ra phán
quyết, bất chấp sự vắng mặt của Chính phủ Iran và sau khi bác bỏ các lý do mà Iran đưa
ra trong hai thông báo gửi tới Tòa án để ủng hộ khẳng định rằng Tịakhơng thể và khơng
nên giải quyết vụ việc.
Tịa án đã không được yêu cầu đưa ra phán quyết tiếp theo về việc bồi thường tổn
thất gây ra cho Chính phủ Hoa Kỳ vì, theo Lệnh ngày 12 tháng 5 năm 1981, vụ việc đã
bị xóa khỏi Danh sách sau khi ngừng tố tụng.
- Công ước Viên về Quan hệ Ngoại giao năm 1961, và Arti-cle 1 của Nghị định thư
tùy chọn kèm theo liên quan đến Giải quyết tranh chấp bắt buộc.
- Công ước Viên về Quan hệ Lãnh sự năm 1963, và Điều 1 Nghị định thư tùy chọn
kèm theo liên quan đến Giải quyết tranh chấp bắt buộc.
- Điều XXI, khoản 2, Hiệp ước Thân thiện, Quan hệ kinh tế và Quyền lãnh sự năm 1955
giữa Hoa Kỳ và Iran ; và

-

Điều 13, khoản 1, Công ước năm 1973 về ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống
lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế. Convention on the Prevention and
Punishment of Crimes against Internationally Protected Persons, including

Diplomatic Agents
[tranh chấp – không gq được bằng đàm phán => trọng tài – 6 tháng không thống
nhất được tổ chức TT => ICJ]

Khủng hoảng bắt đầu khi khoảng 500 sinh viên ập vào chiếm giữ tòa sứ quán Mỹ ở
Tehran vì tức giận chính quyền Washington cho phép nhà vua bị lật đổ của Iran tới
thành phố New York để điều trị ung thư.
Tháng 9/1980, 4 điều kiện để thả con tin, gồm: Mỹ phải trao trả mọi tài sản thuộc về
vua Pahlavi, giải phóng tài sản bị đóng băng của Iran ở Mỹ, hủy bỏ các yêu cầu bồi
thường mà Washington từng đưa ra và cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ
của Iran.
Nhờ sự trung gian của các nhà ngoại giao Algeria, một hiệp định Mỹ - Iran về giải
phóng con tin được ký kết vào ngày 19/1/1981. 52 con tin được trả tự do vào ngày 20/1,
cùng ngày tổng thống Mỹ Ronald Reagan nhậm chức.
16


 Cơ sở tạo nên thẩm quyền của Tòa trong vụ này
- Quốc gia: 2QG đều là thành viên của quy chế tòa
- Chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa: 2 nước là thành viên của
+ Công ước Viên năm 1961, 1963 về quan hệ ngoại giao và quan hệ lãnh sự
+ Nghị định thư tùy chọn liên quan đến giải quyết tranh chấp (Điều 1 – Dự liệu
về gqtc …) bất kỳ một quốc gia nào là thành viên của Nghị định thư này đều có
thể đưa ra Tịa
- Tranh chấp pháp lý: Tranh chấp vi phạm nghĩa vụ quốc tế từ các ĐƯQT (bảo
đảm bất khả xâm phạm liên quan đến
 Biện pháp đảm bảo thực hiện phán quyết:
- Iran khơng thực thi phán quyết
- Mỹ có áp dụng điều 94 Khoản 2 về việc nhờ HĐBA can thiệp hay khơng? =>
KHƠNG

- Sau đó Iran đã thả 52 con tin của Mỹ có phải do tự nguyện thực thi phán quyết
khơng? KHƠNG mà là kết quả của một quá trình đàm phán giữa Mỹ và Iran (khi
Mỹ đáp ứng đủ 4 điều kiện mà Iran đưa ra)

17



×