Viện Đại học Mở Hà Nội
Khoa Du Lịch
BÀI TẬP NGHIÊN CỨU
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Mạnh Tùng
Thực hiện: Lớp A3K18
Năm 2010
ĐỀ TÀI : HỒ QUÝ LY............133
Người thực hiện: Trần Đình Hưng
............................133
Lớp: A3K18.....................................................................................................................................133
I.TIỂU SỬ ......................................................................................................................................133
Người thực hiện: Nguyễn Xuân Huy............................................................................................143
Lớp: A3K18.....................................................................................................................................143
I. TIỂU SỬ .........................................................................................................143
II. CUỘC ĐỜI .............................................................................................................................143
1.Gặp gỡ Nguyễn Trãi...................................................................................................................143
2.Vụ án Lệ Chi Viên.......................................................................................................................144
* Quan điểm của các sử gia.........................................................................................................144
* Trong văn học nghệ thuật.........................................................................................................146
3.Được lập miếu thờ....................................................................................................................146
4.Truyền thuyết rắn báo oán........................................................................................................147
1.Bùi Thị Xuân : Nữ tướng tài ba................................................................................................168
2.Tính Cách Của Một Nữ Tướng.................................................................................................169
a) Có tấm lòng thương dân......................................................................................................169
b)Không vì tình riêng...............................................................................................................169
c)Bại trận vẫn hiên ngang........................................................................................................169
Ngoài thái độ hiên ngang khi bị hành hình, người ta còn truyền rằng khi nghe Bùi Thị Xuân
bị bắt, chúa Nguyễn Ánh bèn sai người áp giải đến trước mặt rồi hỏi với giọng đắc chí: Ta và
Nguyễn Huệ ai hơn?................................................................................................................169
ĐỀ TÀI: TRẦN KHÁT CHÂN.....................................................................................................178
Người thực hiện: Nguyễn Văn Mạnh...........................................................................................178
I. TIỂU SỬ ..................................................................................................................................179
3. Vinh danh.................................................................................................................................181
III. HUYỀN TRÂN VỚI THI CA NGHỆ THUẬT.....................................................................185
.....................................................................................................................................................185
iii. TƯỞNG NHỚ........................................................................................................................185
Đền thờ Huyền Trân công chúa...................................................................................................185
Địa chỉ: thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế........................................................................185
1.Hoàng hậu Nhà Lý....................................................................................................................187
2.Góp phần xây dựng nhà Trần ..................................................................................................187
3.Mối quan hệ với Trần Thủ Độ..................................................................................................188
ĐỀ TÀI: LÊ PHỤNG HIỂU..........................................................................................................189
Người thực hiện: Đỗ Quang Minh................................................................................................189
I.TIỂU SỬ....................................................................................................................................189
Lê Phụng Hiểu (? - ?) là một đại tướng nhà Lý, phụng sự ba triều vua đầu tiên của nhà Lý đó là
vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông và Lý Thánh Tông. Ông là người có công rất lớn trong việc phò
vua Lý Thái Tông tức Lý Phật Mã lên ngôi................................................................................189
II. SỰ NGHIỆP............................................................................................................................190
1. Phò tá nhà Lý...........................................................................................................................190
a. Dẹp loạn Tam Vương..........................................................................................................190
b. Nhậm chức Đô thống Thượng tướng quân.........................................................................190
2. Giai thoại..................................................................................................................................190
a) Một mình địch lại cả một làng............................................................................................190
b) Lê Phụng Hiểu và sự tích thác đao điền.................................................................................191
ĐỀ TÀI: NGUYỄN CẢNH CHÂN...............................................................................................192
Người thực hiện: Trịnh Thị Ngân.................................................................................................192
ĐỀ TÀI: QUANG TRUNG NGUYỄN HUỆ...............................................................................197
Người thực hiện: Nguyễn Quỳnh Như.........................................................................................197
1.Công hộ giá...................................................................................................................................202
2.Anh dũng hy sinh........................................................................................................................202
2
ĐỀ TÀI: MẠC ĐĂNG DUNG.......................................................................................................208
Người thực hiện: Vũ Thị Nhuần...................................................................................................208
2. Làm vua....................................................................................................................................214
3. Quan hệ với nhà Minh.............................................................................................................215
................................................................................................................................................216
a. Năm 1528.............................................................................................................................216
b. Đầu hàng năm 1540.............................................................................................................216
II. CUỘC ĐỜI..........................................................................................................................224
1.Người học trò xuất sắc của Chu Văn An .........................................................................224
Ông là một trong những học trò xuất sắc của Chu Văn An, đỗ Thái học sinh (Tiến sỹ) và ra
làm quan vào năm 1323, dưới thời vua Trần Minh Tông. Năm 1345, ông được cử làm Chánh
sứ sang thương thảo với nhà Nguyên; sau khi trở về, ông được giao giữ chức Chưởng bạ thư
khiêm khu mật tham chính, và 12 năm sau ông được thăng đến chức Nhập nội hành khiển tri
khu mật viện sự, rồi thăng lên chức Nhập nội nạp ngôn. Vào những năm 60 của thế kỉ 14, ông
được cử trông coi việc phòng thủ biên cương.........................................................................224
Phạm Sư Mạnh là bạn thân của Lê Quát, cả hai đều nổi tiếng về văn học cũng như đạo đức
cuối đời Trần. Đã nhiều lần ông cũng Lê Quát muốn sửa đổi một số chế độ nhà Trần, song
không được nghe theo. Phạm Sư Mạnh là một trí thức Nho giáo, sống có hoài bão, mang
nặng ưu tư trước bao biến thiên của thời cuộc. Ông có nhiều trăn trở trước sự suy thoái của
đạo Thánh hiền ở cuối đời Trần. Người ta thường nói đến thái độ bài Phật của Lê Quát, và
đôi khi còn gán ghép cho ông, nhưng đọc lại bài văn bia của Lê Quát viết về chùa Thiệu Phúc
(Bắc Giang), và bài văn bia do ông viết ở chùa Sùng Hưng (núi Văn Lỗi), chúng ta chẳng tìm
thấy có điểm nào được gọi là “bài Phật”, mà nói như Gs Nguyễn Huệ Chi, bài văn bia của Lê
Quát “thực chất chỉ là một lời tự thú về cái bất lực của một tín đồ nhà Nho trước cảnh hiu
quạnh của môn phái mình” mà thôi.........................................................................................224
Tuy là một nhà Nho nặng lòng trắc ẩn với đạo Thánh hiền, nhưng Phạm Sư Mạnh lại là
người có những chiêm nghiệm rất thâm trầm về triết lý nhà Phật. Qua những tác phẩm thơ
văn ông để lại, đặc biệt là bài thơ đề vịnh chùa Báo Thiên và bài văn bia chùa Sùng Hưng,
chúng ta thấy rằng, Phạm Sư Mạnh là người có ý thức rất rõ trong việc giữ gìn các giá trị
truyền thống và nguồn mạch tâm linh của dân tộc. Theo ông, ngôi chùa không chỉ là nơi quy
hướng tâm linh của người dân mà còn là điểm hội tụ của hồn thiêng sông núi, là giềng mối
muôn đời hộ trì cho sự an nguy của nước nhà. Nếu không có được một tâm thức như vậy thì
trong bài bi minh chùa Sùng Hưng, núi Vân Lỗi, ông cũng không thể viết được rằng: Kề non
Vân Lỗi, Am cỏ bên sông, Người đứng xây dựng, Giới tuệ viên thông, Kẻ sống người chết,
Nghìn năm phúc chung, Chúng sinh cứu vớt, Từ bi rủ lòng, Bến mê dẫn đặt, Muôn loài qua
sông, Mọi người hớn hở, Khắp chốn ngóng trông, Đạo huyền sâu lắng, Bờ bến khôn
cùng…”....................................................................................................................................224
2. Nhà thơ yêu nước.......................................................................................................................224
Ngoài việc là một vị quan tài giỏi, ông còn là nhà thơ yêu nước có tập "Hiệp Thạch tập". Tại
núi Kính Chủ ở quê hương ông, trên vách đá có khắc bài thơ và bút tích của ông................224
Trước tác của Phạm Sư Mạnh còn lại không nhiều, ngoài bài văn bia chùa Sùng Hưng nói
trên, hiện chỉ còn 33 bài thơ được chép rải rác trong Việt âm thi tập, Trích tuyển chư gia luật
thi, Trích diễm thi tập và Toàn Việt thi lục. Trong đó, có khá nhiều bài thơ vịnh cảnh những
ngôi chùa nổi tiếng ở Thăng Long và những vùng lân cận,như Đề Cam Lộ tự (Đề vịnh chùa
Cam Lộ), Đông Sơn tự hồ thượng lâu (Lầu trên hồ chùa đông Sơn), Du Phật Tích Sơn ngẫu
đề (Thăm chùa núi Phật Tích ngẫu hứng đề thơ)…................................................................225
Đặc biệt, bài thơ Đề Báo Thiên tháp mà ông để lại, đối với hậu thế hôm nay, đó là một lời
hoài vọng ngậm ngùi, và cũng là một tư liệu lịch sử quý giá, là “của tin còn lại” về một danh
lam bậc nhất của đất Thăng Long xưa, từng được tôn vinh An Nam tứ đại khí trong suốt hơn
800 năm, trước khi bị Giám mục Puginier cấu kết với gian thần Nguyễn Hữu độ cho triệt phá
để xây dựng nhà thờ Lớn, Hà Nội vào năm 1883:..................................................................225
Trấn áp đông tây củng đế kỳ
Khuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy
Sơn hà bất động kình thiên trụ
3
Kim cổ nan ma lập địa chùy
Phong bãi chung linh thời ứng đáp
Tinh di đăng chúc dạ quang huy
Ngã lai dục thử đề danh bút
Quản lĩnh xuân giang tác nghiễn trì..................................................................................225
Trấn áp đông tây giữ đế đô......................................................................................................225
Hiên ngang ngọn tháp đứng trơ trơ.........................................................................................225
Non sông vững chãi tay trời chống..........................................................................................225
Kim cổ khôn mòn đỉnh tháp nhô............................................................................................225
Thỉnh thoảng gió lay chuông ứng đáp.....................................................................................225
Đêm đêm sao xế đuốc khôn mờ..............................................................................................225
Tới đây những muốn dầm ngòi bút.........................................................................................225
Chiếm cả dòng sông mài mực thơ..........................................................................................225
(Đào Thái Tôn dịch )...............................................................................................................225
Bài thơ này có thể được Phạm Sư Mạnh trước tác trước năm 1368, trong thời gian ông còn
làm quan ở kinh thành Thăng Long. Sau năm 1368, ông được cử đi xét duyệt quân binh ở các
lộ rồi lui về ở ẩn, và không biết ông đã mất vào năm nào. ....................................................225
III. TƯỞNG NHỚ....................................................................................................................226
Hiện nay các văn bia của Phạm Sư Mạnh được tìm thấy ở động Kính Chủ hay còn gọi là
Động Dương Cốc từng được phong là “Nam Thiên đệ lục động”. Đây là một trong 22 hang
động trên núi Dương Nham (xã Phạm Mệnh) , huyện Kinh Môn, Hải Dương......................226
Ngoài ra bài vị của ông cũng được thờ ở văn miếu Mao Điền ở làng Mậu Tài, xã Cẩm Điền
(Cầm Giàng, Hải Dương) với lịch sử hơn 500 năm, cùng với bài vị của Khổng Tử, ông tổ của
đạo Nho , các bài vị của danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi, thầy giáo Chu Văn An,
Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nhà toán học Vũ
Hữu, Danh y Tuệ Tĩnh, nữ tiến sĩ đầu tiên Nguyễn Thị Duệ.................................................226
Tên của Phạm Sư Mạnh cũng được dùng để đặt tên một con phố nhỏ ở HN. Phố Phạm Sư
Mạnh là đất cũ trong Cục Bảo Toàn. Phố này vốn ngày xưa là nơi đúc tiền thời Nguyễn (còn
gọi là Tràng Tiền), do đó thời Pháp thuộc gọi là phố "Xưởng đúc tiền" (Rue de la
Sapèquerie). Sau năm 1945, phố được mang tên Phạm Sư Mạnh..........................................226
Hậu thế hôm nay, mỗi khi hoài niệm về chùa Báo Thiên, gợi nhắc lại An Nam tứ đại khí, vẫn
mãi biết ơn ông về bài thơ này. Khắp các tỉnh thành cả nước, hiện đều có những con đường
được mang tên ông...................................................................................................................226
I.TIỂU SỬ.......................................................................................................................................227
II. CUỘC ĐỜI................................................................................................................................227
1. Nã đại bác vào tòa khâm sứ đồn Mang Cá.............................................................................227
ĐỀ TÀI: CÁC CHÚA NGUYỄN..................................................................................................257
Người thực hiện: Đặng Thị Thu Thảo.........................................................................................257
Lớp: A3K18.................................................................................................................................257
I. CHÍN CHÚA............................................................................................................................257
1. Xuất thân..................................................................................................................................261
2. Thời gian tại kinh thành Huế..................................................................................................261
3. Phong trào Cần Vương............................................................................................................261
II. CUỘC ĐỜI LƯU VONG......................................................................................................262
1. Lưu vong.................................................................................................................................262
IV. KẾT LUẬN............................................................................................................................263
Cuộc đời và những câu chuyện kể về vua Hàm Nghi - vị vua tài năng và có số phận kỳ lạ không
chỉ được ghi lại trong lịch sử của nước Việt Nam, mà còn đi vào văn học, tiểu thuyết nước
ngoài như một câu chuyện cổ tích thần kỳ..................................................................................263
ĐỀ TÀI: TỐNG DUY TÂN...........................................................................................................274
Người thực hiện: Vũ Thị Thu.......................................................................................................274
Lục long thiên ngoại cách yên phân.............................................................................................281
Ngoài trời xe ngựa khói mây mờ.................................................................................................281
1. Bối cảnh lịch sử........................................................................................................................319
4
2. Diễn biến..................................................................................................................................320
ĐỀ TÀI: LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ
Người thực hiện: Lê Thị Ngọc Ánh
Lớp: A3K18
Đất nước Việt Nam, con người Việt Nam luôn tự hào có một nền văn hiến lâu đời với hơn
4000 nghìn năm lịch sử hào hùng. Có được những trang sử hào hùng ấy là nhờ công lao của biết
bao thế hệ cha ông, tổ tiên và các bậc tiền nhân hào kiệt đã nối tiếp nhau thêu dệt nên. Đặc biệt
phải kể đến những trang sử vẻ vang của buổi đầu dựng nước khi khai thiên lập địa,đánh dấu sự
khởi đầu của đất nước ta, làm nên bước ngoặt cho lịch sử dân tộc Việt. Đó là trang sử về Lạc
Long Quân và Âu Cơ – về tổ tiên con dân nước Việt, về nguồn cội dòng giống dân tộc Việt và sự
hình thành nhà nước đầu tiên của chúng ta.
Tác phẩm nghiên cứu lịch sử mang tên “Lạc long Quân và Âu Cơ” hứa hẹn sẽ mang lại cho
các bạn nguồn cảm hứng, cái nhìn toàn diện, những khám phá mới mẻ, hoài niệm thú vị về đề tài
Lạc long Quân và Âu Cơ .
Tác phẩm gồm 5 phần xuyên suốt và thống nhất theo một chủ đề.
• Phần I: Lạc Long Quân và Âu Cơ.
• Phần II: Ý nghĩa và giá trị.
• Phần III: Chuyện bên lề.
• Phần IV: Con Rồng Cháu Tiên.
• Phần V: Khám phá hình ảnh.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã khởi đầu bằng một huyền thoại cao đẹp, huyền thoại "Con Rồng
Cháu Tiên".
Cách đây lâu đời lắm, ở Lĩnh Nam có một thủ lĩnh tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương
Vương, sức khoẻ tuyệt trần, lại có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Một hôm, Kinh Dương
Vương đi chơi hồ Ðộng Ðình, gặp Long Nữ là con gái Long Vương, hai người kết duyên thành vợ
chồng và ít lâu sau sinh được một người con trai, đặt tên là Sùng Lâm. Lớn lên Sùng Lâm rất
5
khoẻ, một tay có thể nhấc bổng lên cao tảng đá hai người ôm. Cũng như cha, Sùng Lâm có tài đi
lại dưới nước như đi trên cạn. Khi nối nghiệp cha, chàng lấy hiệu là Lạc Long Quân.
Lúc bấy giờ ở đất Lĩnh Nam còn hoang vu, không một nơi nào yên ổn, Lạc Long Quân quyết
chí đi du ngoạn khắp nơi.
Chàng đã giúp dân trừ được rất nhiều tai ương, hoạn nạn như diệt Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh.
Không những thế chàng còn chỉ cho nhân dân biết cách trồng lúa, đánh cá, làm nhà mà làm ăn
sinh sống. Chàng được nhân dân khắp mọi nơi yêu quý, khâm phục.
Lạc Long Quân đi tuần thú gặp Âu Cơ (con gái Đế Lai-người từ phương Bắc) ở động Lăng
Xương (nay là huyện Thanh Thủy, Phú Thọ) kết duyên thành vợ chồng, đưa về núi Nghĩa Lĩnh.
Tục truyền rằng, Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở thành trăm con trai. Khi các con lớn lên,
Lạc Long Quân đã nói với Âu Cơ rằng: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hỏa khắc
nhau, chung hợp thật khó...” Vì thế, hai vị đã chia 50 người con theo mẹ lên núi, 50 người con
theo cha xuống biển để lưu truyền được lâu dài.
Vương thứ nhất, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, chia nước làm 15 bộ. Nơi
vua ở là bộ Văn Lang, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, tướng văn gọi
là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng, các quan gọi là Bồ chính, đời đời cha truyền con nối gọi là
Phụ đạo.Tương truyền đã truyền cho nhau 18 đời vua đều lấy hiệu là Hùng Vương, trị vì đất nước
trong 2621 năm (từ năm Nhâm Tuất 2879 TCN đến năm 258 TCN), trở thành tổ tiên của các tộc
người, dòng họ Việt Nam ngày nay.
Lạc Long Quân là người mở mang cõi Lĩnh Nam, đem lại sự yên ổn cho dân. Vua Hùng là
người dựng nước, truyền nối được mười tám đời. Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, nên dân
tộc Việt Nam vẫn kể mình là dòng giống Tiên Rồng.
Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên lần đầu tiên được chép trong cuốn Lĩnh Nam Chích Quái
của Trần Thế Pháp với tựa đề Hồng Bàng Thị.
Không đơn thuần chỉ phản ánh một nguồn cội con người, một giống nòi dân tộc, truyền thuyết
về Lạc Long Quân và Âu Cơ còn chứa đựng biết bao ý nghĩa sâu xa toát lên ở nhiều khía cạnh về
đất nước và con người Việt Nam: về lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội, tâm linh…
Câu chuyện thần thoại mà thấm đẫm ý nghĩa, giá trị lịch sử và nhân văn cao cả; ăn sâu vào nếp
nghĩ và tâm hồn người Việt.
Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ đánh dấu sự ra đời nhà nước đầu tiên của dân tộc ta,
quốc hiệu là Văn Lang, kinh đô đóng ở Phong Châu (Phú Thọ), chia nước làm 15 bộ (bao gồm
:Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phú Lộc, Việt Thường, Cửu Đức, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục
Hải,Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, nơi vua ở là bộ Văn Lang ) đều là đất
thần thuộc của Hùng Vương. Nhà nước Văn Lang từ khi thành lập đã là một nhà nước độc lập, tự
6
chủ, có bờ cõi, lãnh thổ riêng, có tổ chức chính trị riêng, được phân công quản lí rõ ràng , đứng
đầu là vua Hùng.
Qua câu chuyện, chúng ta có thể thấy sự hình thành nhiều tập tục trong đời sống sinh hoạt, sản
xuất và văn hóa có giá trị sâu sắc còn lưu truyền đến ngày nay như: Làm nhà sàn, trồng lúa nếp,
thổi cơm lam, tục vẽ mình, vẽ mắt thuyền khi ra khơi đánh bắt…Nhân dân biết giúp đỡ nhau , dựa
vào nhau cùng chung sống.
Với sức mạnh phi thường của Lạc Long Quân, chàng đã cứu giúp nhân dân khỏi 3 hoạn lớn.
Những địa danh nổi tiếng như: núi Cẩu Đầu Sơn, Cẩu Đầu Thủy, đảo Bạch Long Vĩ đã được hình
thành từ việc giết Ngư Tinh. Và đầm Xác Cáo, nay là Tây Hồ có tên nhờ việc diệt Hồ Tinh. Vùng
Quỷ Xương Cuồng cũng nhờ dự đánh đuổi Mộc Tinh của chàng.
Cộng đồng người Việt đã góp mặt vào cộng đồng nhân loại từ rất lâu đời cách đây hơn 4000
năm, sinh sống và phát triển thành một xã hội to lớn. Con người Việt Nam từ buổi sơ khai hình
thành đã có những phẩm chất tốt đẹp đáng quý không thua kém gì con người trên khắp thế giới.
Người Việt có tiếng nói riêng và có ý thức dân tộc sâu sắc; cùng nhau thêu dệt nên bản sắc dân tộc
Việt.
Người Việt Nam tin rằng mình vốn thuộc dòng giống Tiên Rồng ,bởi thế đối với người Việt
Nam nói riêng, con rồng thực sự là một con vật hết sức thiêng liêng và cao quý. Rồng là tổ tiên
của con người Việt Nam. Nó tượng trưng cho sức mạnh, quyền lực của dân tộc Việt Nam và được
nhân dân khắp nơi quý trọng, tôn thờ. Con rồng trong Phật giáo là linh vật Hộ Pháp, tức là bảo vệ
cho giáo lí Phật giáo và những ai theo đuổi giáo lí đó. Con rồng được xem là một trong tứ quý:
Long, Lân, Quy, Phụng. Nhiều nơi người ta lập đền thờ để thờ con rồng.
Tiên được quan niệm là người sống trên núi, hiền từ thanh thoát, sống mãi không chết. Còn
rồng thì được coi là chúa tể của biển cả, làm mưa làm gió, thiên biến vạn hóa.
Qua biểu tượng rồng tiên trên đây ông bà tổ tiên muốn dạy chúng ta rằng: con người là một
kết hợp vừa biến hóa vừa trường cửu, vừa vật chất, vừa siêu phàm, vừa linh ẩn, vừa thường hằng,
vừa xinh đẹp dịu hiền, vừa hùng dũng cương quyết, vừa tình vừa lý, vừa chan chứa yêu thương,
vừa uy lực vô song.
Và để tưởng nhớ các bậc thủy tố, các bậc tiền nhân đã có công dựng nước và giữ nước ,nhân
dân Việt Nam nhiều nơi đã xây các công trình đền thờ, khu di tích lịch sử, bảo tàng văn hóa lịch
sử về Lạc Long Quân, Âu Cơ và các vị vua Hùng nhằm thể hiện truyền thống “uống nước nhớ
nguồn”,tấm lòng hiếu đạo của những người con đất Việt. Hàng năm nhân dân đều tổ chức các lễ
hội, lễ hành hương, các chương trình văn hóa nghệ thuật để bày tỏ tình cảm của mình với tổ tiên.
Như đền Mẫu Âu Cơ ở Hạ Hòa – Phú Thọ, đền Báo Ân ở Hưng Yên; đền Lạc Long Quân ở Việt
Trì – Phú Thọ, đền Kim Liên ở Hà Nội, đền Tổ đình Quốc tổ Lạc Hồng ở phường 3 – Gò Vấp- tp
Hồ Chí Minh .
7
Thời Hùng Vương đã trở thành huyền sử; có sót lại chăng chỉ còn là những tục ngữ ca dao và
cổ tích lưu truyền trong dân gian. Nhưng ngày giỗ Tổ Hùng Vương vẫn ăn sâu vào tâm linh người
Lạc Việt. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc dưới ách đô hộ phong kiến Bắc phương; tiếp theo là
1000 năm hưng quốc với bao thăng trầm của lịch sử; tâm linh của người Lạc Việt vẫn luôn nhớ về
cội nguồn. Ngày giỗ Tổ 10 – 3 là một trong những ngày lễ hội thiêng liêng nhất của người Lạc
Việt. Dù đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ tổ hang ba mùng mười
Huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ mãi mãi trường tồn với non nước, con người Việt
Nam. Nó không những trở thành một ý niệm thiêng liêng, lòng tự hào , tự tôn dân tộc của nhân
dân Việt Nam, mà còn là một biểu tượng cao đẹp của dân tộc Việt Nam mà bạn bè khắp năm
châu luôn ngưỡng mộ.
Câu chuyện thuở xưa còn gìn giữ đến ngày nay đã phản ánh rất sinh động linh hồn người
Việt, xứng đáng mang một tầm vóc lịch sử quốc gia của một dân tộc anh hùng.
8
ĐỀ TÀI: SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG BÁNH DÀY
Người thực hiện: Đặng Tuấn Anh
Lớp: A3K18
Trong văn hóa ẩm thực của người Việt Nam, bánh chưng là món ăn truyền thồng nhằm thể
hiện lòng biết ơn của con cháu với cha ông và trời đất, xứ sở. Nó có nguồn gốc từ thời vua Hùng
thứ VI. Bánh chưng song hành cùng lịch sử dân tộc và trở thành biểu tượng của ngày Tết cổ
truyền Việt Nam.
Bánh chưng được gói từ lá dong với thịt lợn, đỗ xanh, gạo nếp. Bánh được làm vào các dịp Tết
Nguyên Đán và ngày giỗ Tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 Âm lịch). Dịp Tết ngày nay ít thấy
cảnh các bà các chị tất bật chuẩn bị làm bánh chưng, nào rửa lá dong, nào ngâm gạo hay đãi đỗ,
cảnh trẻ con háo hức xem bố mẹ gói bánh, cảnh già trẻ lớn bé ngồi quây quần bên bếp lửa nấu
bánh chưng, mặc cho ngoài trời sương lạnh giá. Với nhiều thế hệ, chiếc bánh chưng là niềm hân
hoan của ngày Tết sum vầy, đoàn tụ. Những chiếc bánh đẹp, đầy đặn, vuông vức được dành riêng
để cúng Tổ tiên. Bánh chưng vẫn nhắc nhở con cháu ngàn đời về truyền thống dân tộc. Ngày nay,
nguyên liệu làm bánh chưng vẫn vậy, vẫn gạo nếp, lá dong, thịt mỡ, đỗ xanh. Bánh muốn ngon thì
phải chuẩn bị nguyên liệu thật kĩ: gạo ngâm đãi thật kĩ,đậu xanh đồ vừa chín tới, thịt phải có cả
mỡ, nạc, bì, ướp đủ gia vị, gói xong phải luộc ngay bánh mới xanh. Để chiếc bánh vuông đẹp,
chín rền thì lúc gói phải “ đỗ trong gạo, gạo trong lá”, gói chặt tay, không cần ép mà bánh vẫn để
được lâu, miếng bánh sau khi cắt nhân đỗ, thịt nạc luôn cân đối ở tất cả các phần.
Lại nói về cách cắt bánh, ngày nay, mọi người cắt bánh thành 4 hoặc 8 phần. Lạt được tước
nhỏ, đặt theo hình chữ thập chính giữa bánh, rồi lại đặt 2 chiếc lạt theo 4 góc thành một hình chữ
thập nữa. Kế đó, lật ngược chiếc bánh lên, thắt lạt lại theo thứ tự để cắt bánh. Với cách cắt này,
các miếng bánh thật đều nhau, đều có cả thịt và nhân đỗ. Thế nhưng, rất ít người biết đến cách
bánh của người xưa. Người xưa cắt bánh thành 9-16 miếng vuông vức. Những miếng bánh ở giữa
được dành cho người lớn tuổi. Nhưng miếng bánh xung quanh được dành cho cha mẹ,tiếp theo
nữa là dành cho con cháu. Điều dó thể hiện truyền thống tôn trọng người cao tuổi,"kính già, già để
tuổi cho" của dân tộc.
Song hành với bánh chưng là bánh dày. Bánh có hình tròn, thường được làm bằng gạo nếp.
Bánh được làm chủ yếu trong dịp giỗ tổ Hùng Vương. Cách làm bành tuy đơn giản nhưng lại rất
kì công. Người ta chọn loại gạo nếp ngon, đồ kỹ (có thể đồ hai lượt), rồi giã trong cối tới khi có
được một khối bột nếp chín dẻo quánh. Đây là công việc đòi hỏi sức vóc, thường chỉ nam thanh
niên làm vì bột nếp chín đặc biệt dính và quánh, việc nhấc chày lên cũng không đơn giản. Nếu giã
không nhuyễn hẳn ăn còn hạt gạo sẽ mất ngon, dễ bị "lại" bánh. Thường thường người ta có thể
dùng chút mỡ lau vào đầu chày giã cho đỡ bị bết dính, nhưng óc lợn hấp chín được sử dụng cho
9
mục đích này nhiều hơn. Bánh dày loại phổ biến nhất là loại bánh dày trắng không nhân, nhỏ bằng
lòng bàn tay, nặn hình tròn dày chừng 1 đến 2 cm. Cứ 2 cái bánh thì thành một cặp. Người mua có
thể chọn mua một cái hay cả cặp và thường kẹp ăn chung với giò lụa, ruốc…
Có một địa danh gắn liền với bánh dày, đó là bánh dày Quán Gánh (trên đường từ Hà Nội đi
Hải Dương. Khi đi qua địa danh giáp Hà Nội này, người ta thường gặp nhiều sạp bán bánh dày
Quán Gánh. Loại bánh này thường bán thành một cọc gồm 5 bánh, nhân mặn hoặc nhân ngọt, gói
trong lá chuối tươi.
Các loại bánh của nông thôn miền bắc Việt Nam kể trên thường để không được lâu, có lẽ chỉ
một ngày là se mặt hoặc lại gạo hoặc ôi thiu.
Với loại bánh dày của người vùng cao thì khác. Bánh được chế biến cùng cách kể trên mỗi dịp
Tết, song được nặn to như cái bánh đa. Bánh được trữ trên gác bếp, để khô cả năm trời và là món
ăn quý. Mỗi khi dùng, người ta xắt bánh ra thành miếng nhỏ, rồi nướng phồng trên bếp than như
bánh tổ
Dáng vuông của bánh chưng, dáng tròn của bánh dày đã thể hiện vũ trụ quan của người Việt
cổ. Hình tròn tượng trưng cho bầu trời,hình vuông tượng trưng cho mặt đất.Người xưa đã khéo léo
lựa chọn hai sản vật thật đặc biệt dâng lên trời đất, dâng lên tổ tiên. Hai thứ bánh này cũng thể
hiện sụ tương giao hòa hợp của hai hình thể "rỗng" và "đặc", "vuông" và "tròn"- tuy tương khắc
nhau như "trời" và "đất", "đàn ông" và "đàn bà" nhưng phải kết giao với nhau, tạo nên vạn vật.
"Lễ vuông tròn" của bánh chưng - bánh dày thể hiện tình cảm gắn bó thủy chung của vợ chồng,
giống như câu thơ của Nguyễn Du:
"Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông."
Bánh chưng - bánh dày đã trở thành món ăn truyền thống của dân tộc Việt Nam. Qua hàng
ngàn năm,bánh chưng-bánh dày vẫn trường tồn,vẫn cách làm ấy,vẫn nguyên liệu ấy, vẫn hương vị
ấy... Bánh chưng-bánh dày thể hiện truyền thống quý báu của nhân dân ta. Đặc biệt,chiếc bánh
chưng là tín hiệu của ngày Tết,là biểu tượng của sum họp,đoàn tụ,là món ăn không thể thiếu trong
mâm cỗ ngày Tết:
"Thịt mỡ,dưa hành,câu đối đỏ,
Cây nêu,tràng pháo,bánh chưng xanh."
10
ĐỀ TÀI: NỮ TƯỚNG LÊ CHÂN
Người thực hiện: Nguyễn Thị Mai Anh
Lớp A3K18
Nữ tướng Lê Chân không chỉ là niềm tự hào của người dân Hải Phòng nói riêng mà còn là
niềm tự hào của dân tộc ta đặc biệt là đối với người phụ nữ Việt Nam.
I. TIỂU SỬ
Về nữ tướng Lê Chân hiện nay không rõ cụ thể
năm sinh năm mất, chỉ biết bà xuất thân trong một gia
đình có truyền thống dạy học và chữa bệnh. Cha bà là
Lê Đạo nổi tiếng là ngươi nhân đức luôn sẵn lòng giúp
đỡ những người dân nghèo khổ. Mẹ bà là Trần Thị
Châu – một người phụ nữ đảm đang hiền thục. Hai
người lấy nhau đã lâu sau một lần đến vùng đất Yên
Tử linh thiêng thành tâm cầu khấn mới sinh hạ được
Lê Chân. Nàng không chỉ xinh đẹp tài năng mà còn
đặc biệt có chí hơn người. Chính sắc đẹp của nàng là
nguyên nhân gây ra thảm họa cho cả gia đình.
II. CUỘC ĐỜI
Vào mùa xuân năm Kiến Vũ thứ 16 tức tháng ba năm 40 TCN, thời gian đó, quân Hán đang
xâm lược nước ta trong một lần đi kinh lý qua vùng Đông Triều, tên Thái thú nhà Hán là Tô Định
nghe kẻ nịnh thần tâu về sắc đẹp như tiên nữ giáng trần của Lê Chân. Hắn ngỏ ý muốn lấy nàng
làm thiếp nhưng Lê Chân và cha mẹ nhất mực khước từ. Tức giận vì việc cầu hôn không thành,
theo truyền thuyết Tô Định đã sát hại cha mẹ Lê Chân. Căm hận quân cướp nước tham tàn bỉ ổi,
nuôi mối thù nhà Lê Chân tìm thầy ôn luyện binh thư võ nghệ quyết chí trả thù. Sau khi võ nghệ
đã tinh thông nàng tìm về khu vực An Dương là cửa sông Cấm Hải Phòng ngày nay để sinh cơ lập
nghiệp. Lúc bấy giờ đây mới chỉ là một vùng đất hoang toàn bồi bãi, nhưng với ý chí và lòng
quyết tâm từ lâu luôn nung nấu, chỉ sau khoảng 10 năm Lê Chân đã biến vùng biển nay trở thành
một nơi trù phú.
Trong thời gian sinh sống tại đây, Lê Chân không ngừng tích trữ lương thực và huấn luyện
binh sĩ. Khi lương thảo binh lực đã có sẵn trong tay mùa xuân năm 40 Lê Chân phất cờ khởi nghĩa
ở Mê Linh đánh quân Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa của bà được nhân dân khắp nơi ủng hộ và
hưởng ứng. Cho đến giờ cuộc khởi nghĩa vẫn luôn là niềm tự hào của dân tộc ta. Lê Chân đã tìm
lên xứ Đoài gặp Trưng Trắc Trưng Nhị và xin nhập vào đội quân của hai bà. Từ căn cứ An Biên
11
Lê Chân đưa quân lên hợp lực bàn mưu tính kế với hai bà Trưng. Chảng bao lâu khởi nghĩa đã lan
rộng ra khắp các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố. Trong một thời gian ngắn quân
ta đã tiêu diệt được sáu mươi lăm thành trì trên cả nước khiến bọn tàn quân Tô Định phải cuống
cuồng bỏ chạy. Đây là một chiến công vang dội.
Trong các trận đánh, Lê Chân luôn luôn là thủ lĩnh của đội quân tiên phong lập được nhiều
công lớn. Khi kháng chiến thành công Hai bà Trưng đã xưng vương Lê Chân được phong chức
“Chưởng quản binh quyền” kiêm trấn thủ Hải Tần. Phụng mệnh, nàng trở về vùng Đông Triều
Quảng Ninh và Hải Phòng ngày nay tiếp tục trấn giữ vùng trọng yếu phía đông Tổ quốc. Nàng đã
động viên khuyến khích nhân dân trong vùng chịu khó chăm lo sản xuất, tiếp tục khai khẩn đất
hoang biến nơi đây thành một vùng đất thực sự giàu có, trù phú, ấm no. Bà đặt tên cho nơi đây là
An Biên trang để tưởng nhớ về quê cũ. Học theo công đức người cha, Lê Chân thường xuyên giúp
đỡ chữa bệnh cứu ngươi. Có truyền thuyết cho rằng Lê Chân được phong là “Thánh Chân công
chúa” chuyên lo việc tiếp quản binh quyền, huấn luyện binh sĩ .
Có thể coi thời đại Hai Bà Trưng là chính quyền phong kiến đầu tiên của nước ta dù còn sơ
khai. Chính quyền này kéo dài đến năm 40 TCN, vua Hán đã sai tướng giỏi của hắn là Mã Viện
cầm quân sang đàn áp Hai Bà Trưng. Một lần nữa hai bà lại chiến đấu vô cùng quả cảm, nhưng
cảm thấy sự chênh lệch lớn về lực lượng, biết không thể thắng nổi quân giặc, Hai Bà đã trầm mình
tự vẫn ở dòng sông Hát, tuy nhiên đây mới chỉ là một trong số những giả thuyết về cái chết của
hai bà. Về phía Lê Chân bà cũng mất vào cùng năm đó nhưng xoay quanh cái chết của bà còn tồn
tại nhiều truyền thuyết:
• Có thế bà đã trầm mình tự vẫn cùng các Trưng Vương.
• Hoặc bà đã chiến đấu vô cùng anh dũng tại sông Bạch Đằng nhưng sau đó buộc phải rút về
Mai Động Hà Nội ngày nay và hy sinh tại đó.
• Giả thuyết thứ 3 là bà đã trầm mình tự vẫn hoăc hy sinh anh dũng tại vùng núi Kim Bảng.
III. TƯỞNG NHỚ
Tưởng nhớ đến công lao của bà, người dân Hải Phòng đã lập đền thờ bà. Hiên nay Đền Nghè
là ngôi đền tiêu biểu nhất thờ nữ tướng Lê Chân. Lúc đầu, đền thờ chỉ là một gian miếu nhỏ, mái
lợp gianh. Từ sau năm 1919, đền Nghè mới được xây dựng khang trang như hiện nay. Năm 1919
tòa Hậu Cung của đền được xây dựng. Năm 1925 tòa Hậu cung được trùng tu đến năm 1926 tòa
Tiền Bái được xây dựng. Hiện nay Đền có 2 nhà chính - Tiền tế và Hậu cung. Giữa Tiền tế và
Hậu cung là nhà Thiên Hương 2 tầng, mái tâm đầu đao. Trong toà hậu cung đặt tượng bà Lê
Chân, hai bên là tượng song thân của bà .
Đến thăm Đền Nghè, quí khách thường chú ý đến 2 vật tích độc đáo– đó là Khánh đá và Sập
đá. Khánh làm bằng một tấm đá nguyên dày 5cm được tách ra thành hình chiếc khánh (có chiều
cao 1m, rộng 1,6m). Mặt trước khánh khắc nổi 2 con rồng chầu mặt nguyệt và hình mây bay xung
12
quanh. Mặt sau khánh khắc hình mây bay và sóng nước cả hai mặt có 2 núm tròn, lồi cao là chỗ
để gõ. Tiếng khánh đá trong ngân vang êm dịu, lan tỏa, hướng ta tới cõi tâm linh huyền ảo mà
thiêng liêng.
Đền Nghè mở hội lễ chính vào ngày mùng 8, 9, 10 tháng 2 âm lịch, tương truyền là ngày sinh
của Lê Chân. Tại đềncòn dâng lễ vào ngày đại thắng 15 tháng 8, và ngày 25 tháng Chạp âm lịch.
Mở đầu hội là lễ rước ngai, mũ ,ấn từ đền Nghè vào đình làng, khi rước phải xin phép Thành
Hoàng cho dân được hành lễ. Đi đầu cuộc rước là người cầm cờ, rước phướn đủ màu sắc; theo sau
là các hiệu chiêng hiệu trống, phường bát âm, theo sau là các bô lão. Lễ rước về đến đình thì dừng
lại, các đồ thờ lưu lại trong đính suốt 3 ngày, mỗi ngày các quan tế tiến lễ hai lần, gồm hương,
hoa, xôi, quả, khi có lợn thì phải làm sạch ,bỏ ruột và gan, tế lễ xong đem chia đều cho dân
làng ,không phân biệt nam hay nữ. Trong 3 ngày hội dân làng diễn nhiều trò vui như : cờ người,
đấu vật, thi tài, ban đêm thì hát xướng. Sáng ngày mồng 10, cuộc rước từ đình về đền được cử
hành long trọng. Khi về đến đền Nghè cử hành lễ tế. Đặc biệt những người chủ trì và tham dự lễ
đều là phụ nữ, các vai nữ quan cũng thành thục theo nghi lễ truyền thống.
Tương truyền bà Lê Chân sống khôn chết thiêng, khi mất xác bà hóa đá trôi từ phía sông Kinh
Thầy đến vùng bến Bính Hải Phòng ngày nay. Nhân dân nhìn thấy biết là bà linh ứng nên đã
khiêng tượng đá về lập đền thờ .
Đền Nghè là một ngôi đền xinh xắn với quy mô không lớn nhưng nổi tiếng rất linh thiêng và
vẻ đẹp kiến trúc mang đậm màu sắc của kiến trúc các triều đại trước, hết sức khéo léo và tinh
tế .Nhân dân Hải Phòng và các tỉnh lân cận như Hải Dương, Thái Bình, Quảng Ninh… Hàng
năm đến ngày lễ Tết đều về đây thắp hương, cúng bái cầu mong những điều thuận lợi và may
mắn. Về sau nữ tướng Lê Chân được phong làm Thượng đẳng Phúc thần công chúa. Tưởng nhớ
công ơn bà, một nữ tướng tài ba, nhân dân Hải Phòng đã tạc tượng bà bằng đồng với dáng đứng
uy nghi nhưng đầy chất nữ tính, biểu tượng cho người con gái Việt Nam. Tượng đài nữ tướng Lê
Chân được nhân dân thành phố Hải Phòng khánh thành vào tháng 1 năm 2001.
Hiện nay Đền Nghè tọa lạc trên phố Mê Linh cách Nhà Hát Lớn thành phố khoảng 600m.
Tuy nhiên đây không phải là nơi duy nhất thờ nữ Tướng Lê Chân. Tại vùng núi Lạt Sơn cũng
có Đền thờ Bà Lê Chân với quang cảnh núi rừng bao quanh rất đẹp như Voi phục. Diện tích khu
vực này lên đến 20ha nhưng rất tiếc vẫn chưa được công nhận là di tích lịch sử.
Tại làng Mai Động cũng lập đền thờ bà và tôn bà là Thành Hoàng làng. Hàng năm làng mở hội
vào các ngày 4, 5, 6 tháng 1 Âm lịch. Vào ngày hội, dân làng chuẩn bị lễ vật cúng thần và sau
những lễ nghi truyền thống, là các cuộc đấu vật diễn ra ở Đồng Vật. Tục truyền đây là nơi nữ
tướng Lê Chân từng luyện võ vật cho trai gái làng thuở đó. Hội vật làng Mai Động đến nay vẫn
được duy trì và tổ chức trong ngày hội làng .
Gần 96 Mê Linh Hải Phòng còn có một ngôi Đền nhỏ thờ nữ tướng Lê Chân của con cháu
dòng họ Lê nhưng được rất ít người biết đến.
13
Có thể nói nũ tướng Lê Chân là một niềm tự hào không chỉ của riêng người dân Hải Phòng.
Hy vọng rằng, trong một tương lai không xa những ngôi đền thờ vị nữ tướng miền biển này sẽ trở
thành một trong những điểm đến du lịch hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế
14
ĐỀ TÀI: THÁNH GIÓNG
Người thực hiện: Vũ Hồng Anh
Lớp: A3K18
Thánh Gióng hay gọi là Phù Đổng Thiên Vương hay Xung Thiên Thần Vương, là một trong
bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam (Tứ bất tử). Người có công dẹp giặc Ân
đem lại thái bình cho đất nước.
I. TRUYỀN THUYẾT
Truyền thuyết kể rằng: Ông sinh ra tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, thời vua
Hùng thứ 6. Thánh Gióng là người "trời" đầu thai làm đứa trẻ tuy lên ba mà không biết nói cười,
đi đứng. Nhưng khi có bộ tộc khác (truyền thuyết ghi là giặc Ân) tràn xuống thì cất tiếng gọi mẹ
nhờ ra gọi sứ giả của nhà vua, rồi bỗng chốc vươn vai thành một thanh niên cường tráng đi đánh
giặc. Sau khi đánh tan giặc Ân, ông bay về trời. Nơi ông hóa chính là núi Sóc thuộc huyện Sóc
Sơn, Hà Nội.
Trong trận chiến với nhà Ân Thánh Gióng cùng chiến đấu với Thánh Hùng Linh Công, cả hai
cùng hợp binh lại đánh một trận quyết định ở chân núi An Vũ Ninh Sơn. Hùng Linh Công là cháu
ruột Vua Hùng, một danh tướng thuộc đời Hùng Vương thứ sáu (1718 - 1631 TCN), ông được vua
trao cho kim đao và 3 vạn binh mã đi tiên phong cùng với Thánh Gióng đánh tan giặc Ân. Ông
được vua Hùng giao cho cai quản xứ Kinh Bắc, ông cũng có công trừ hổ để giữ cuộc sống an bình
cho dân. Ông sinh ra và mất trên đất Hiệp Hòa, Bắc Giang và được thờ ở Đền IA khoảng 3700
năm nay. Thánh Gióng thể hiện tinh thần và sức mạnh của người Việt trong đấu tranh chống ngoại
xâm, giữ nước.
II. TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG GỬI GẮM NHỮNG GIÁ TRỊ LỚN LAO
Truyền thống yêu nước và đánh giặc bảo vệ đất nước xuất phát ngay từ những buổi đầu dựng
nước. Sự đồng tâm nhất trí, đoàn kết một lòng, tạo nên sức mạnh tinh thần dân tộc to lớn của
người Việt
Xuất hiện những đồ vật bằng sắt cho thấy người Việt đã biết sử dụng những đồ vật bằng sắt
thành thạo, có khả năng chế tác thành những công cụ đó một cách thành thục.Điều này thể hiện
trình độ văn hóa rất phát triển của chúng ta lúc bấy giờ. Hình ảnh cây tre đánh giặc chứa đựng
những giá trị tinh thần, sức mạnh của dân tộc Việt Nam, là hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ.
Hành động ngoái nhìn lại quê hương, vái lạy mẹ cùng những người dân trong làng và để lại áo
giáp sắt, mũ sắt của Thánh Gióng cũng là bài học về tấm lòng hiếu nghĩa, uống nước nhớ nguồn,
không màng vinh hoa phú quí, danh lợi.
15
III. TƯỞNG NHỚ
Về di tích đền Phù Đổng, đây là một công trình kiến trúc mang đậm bản sắc văn hóa dân gian.
Đền Phù Đổng thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Từ trung tâm Hà Nội
qua cầu Chương Dương theo quốc lộ 1 tới cầu Đuống, vượt sang bên kia sông rồi rẽ phải đi thêm
5 km là xã Phù Đổng. Đền được vua Lý Thái Tổ cho lập từ khi dời đô ra Thăng Long (1010) và
được trùng tu, sửa chữa nhiều lần. Ngôi đền hiện nay gồm: bái đường, hậu cung, nhà thủy đình
múa rối nước ở ao trước đền. Trong đền, tượng Thánh Gióng khá lớn ngồi giữa, hai bên là tượng
các quan hầu. Gía trị lớn nhất là đôi rồng đá cách điệu đặt ở bậc thềm, đôi sư tử đá tạc vào thế kỉ
XIX, cỗ ngai trạm trổ rất đẹp, tấm bia đá khắc năm 1660 và đôi chén sứ. Phù Đổng còn có các di
tích đền Hạ thờ mẹ Thánh Gióng và miếu Ban, Cố Viên gắn với truyền thuyết Thánh Gióng chào
đời, mẹ Gióng đến hái rau rồi ướm chân mình vào chân người khổng lồ; Giá Ngự và mộ Trần Đô
Thống- vị tướng tiên phong trong đoàn quân phá giặc Ân; chùa Kiến Sơ, nơi Lý Công Uẩn được
Thánh Gióng chúc mừng bằng bài thơ hiện lên thân cây, khi người đến thăm chùa.
Hàng năm, tại đền Gióng, cứ vào ngày 9 tháng 4 âm lịch, dân làng Phù Đổng mở hội diễn lại
sự tích Thánh Gióng đánh giặc Ân. Bên cạnh đó ở rất nhiều nơi trên đất nước cũng tổ chức lễ hội
tưởng niệm người anh hùng dân tộc này như: Chi Nam, Xuân Đỉnh, Bộ Đầu…
Thánh Gióng- một trong “Tứ bất tử” theo quan niệm dân gian xưa luôn là đề tài nghiên cứu
của các nhà khoa học. Gần đây Tiến sỹ Hán học Cung Khắc Lược và Tiến sĩ Lương Văn Kế đã
công bố những phát hiện mới về nguồn gốc Thánh Gióng. Những công bố này được căn cứ vào
một bản thần phả của đền Bộ Đầu (xã Thống Nhất, Thường Tín, Hà Nội). Theo thần phả thì
Thánh Gióng có họ Đổng, xuất thân rõ ràng, có cha, có mẹ. Đặc biệt, dòng họ Đổng nổi tiếng với
những chiến công trị thủy, giúp nước cứu dân. Những phát hiện này đã mở rộng thêm tư liệu cho
vị thánh, mang đến những phát hiện thú vị, chân thực hơn.
Nếu ai đã từng đến với hội Gióng hẳn không thể nào bỏ qua được những điệu hát, những tích
truyện và những giá trị văn hóa lưu truyền đến ngày nay. Hội Gióng chứa đựng những giá trị văn
hóa dân tộc. Do đó Hội Gióng xứng đáng được bình chọn là Di sản Văn hóa Phi vật thể của toàn
nhân loại.
Việc Hội Gióng đựợc công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể của nhân loại có ý nghĩa rất
lớn đối với người dân Thủ đô nói riêng và Việt Nam nói chung.
Để bày tỏ tấm lòng thành kính với vị thánh bất tử này, vào ngày 21-9, tại Hà Nội, Trung ương
Giáo hội Phật giáo Việt Nam (TƯGHPGVN) đã tổ chức họp báo công bố tiến độ xây dựng tượng
đài Thánh Gióng, chương trình Lễ khai quang yên vị - hô thần nhập tượng và cầu nguyện quốc
thái dân an. Vào lúc 21h 30 ngày 26/9, tại đỉnh núi Đá Chồng thuộc khu di tích đền Sóc, xã Phù
Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội Giáo Hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức lễ Khai quang yên vị - Hô
thần nhập tượng Đức Thánh Gióng – Phù Đổng Thiên Vương. Đây là công trình trọng điểm kỷ
niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Thánh Gióng là vị Thánh lớn nhất trong hàng “Tứ
16
bất tử” biểu tượng tinh thần quật khởi ý chí vươn lên triệu người như một, biểu tượng tinh thần
“Từ bi bác ái”, “Công thành thần thoái” của dân tộc Việt Nam. Có thể nói Thánh Gióng là một
trong những vị thần tồn tại mãi mãi, trường cửu trong đời sống tâm linh và tín ngưỡng của dân tộc
Việt Nam ngàn đời.
ĐỀ TÀI: SỰ TÍCH QUẢ DƯA HẤU
17
Người thực hiện: Bùi Thị Kim Anh
Lớp: A3K18
Mỗi khi thưởng thức trái dưa hấu ngon ngọt, thơm mát, chắc hẳn ai cũng đã một lần được
nghe kể về “Sự tích dưa hấu” và chàng Mai An Tiêm – người đã có công phát hiện, gieo trồng trái
dưa quý, góp phần làm phong phú thêm vườn cây trái của đất Việt ta.
I. SỰ TÍCH QUẢ DƯA HẤU
Câu chuyện bắt đầu từ việc Mai An Tiêm may mắn được Vua Hùng nhận làm con nuôi.
Do thông minh, tài trí hơn người, lại chăm chỉ tháo vát nên Vua Hùng rất yêu mến chàng và
thường ban cho những sản vật quý. Tuy nhiên trước một xã hội phong kiến còn mang nhiều những
phong tục và luật lệ hà khắc, lại không thể tránh khỏi nhiều kẻ quan lại tham lam ganh ghét, đố kỵ.
Đó cũng là lẽ thường bởi xã hội nào cũng có kẻ tốt người xấu. Những tên tham quan thường hay
xu nịnh vua luôn tìm cách “bới lông tìm vết” để hại Mai An Tiêm. Nhưng An Tiêm cũng không vì
thế mà lo sợ, chàng vẫn luôn thẳng thắn nói với vợ con: “Của biếu là của lo, của cho là của nợ”.
Lũ nịnh thần đã nhân cơ hội đó đặt điều nói xấu chàng với Vua Hùng. Và chàng đã không tránh
khỏi cơn thịnh nộ của nhà vua. Là một vị vua, người đứng đầu đất nước, nắm trong tay toàn bộ
quyền cai trị, vua bảo “chết” thì phải tuân lệnh. Thế là trong lúc tức giận, nhà vua đã ra lệnh đày
gia đình An Tiêm ra một hòn đảo hoang trên biển Đông mà chỉ cho mang theo một chút lương
thực. Cuộc sống trên đảo của gia đình An Tiêm vô cùng vất vả nhưng chàng không bao giờ mất đi
hy vọng, luôn tin vào một tương lai tươi đẹp phía trước. Và quả thật ông Trời đã không phụ lòng
người, một hôm chàng thấy một con chim đang ăn một thứ quả màu đỏ. Với ý nghĩ rằng chim ăn
được thì chắc người cũng ăn được nên An Tiêm đã nhặt hạt về đem gieo ở một khoảnh đất. Ngày
ngày, hai vợ chồng An Tiêm chăm sóc giống cây đó rất chu đáo và hồi hộp chờ đợi cây ra hoa rồi
kết quả, nhưng trái lạ đó cứ lớn mãi, không biết lúc nào có thể thu hoạch. Thế rồi một hôm có một
đàn quạ ở đâu bay đến mổ trái dưa lạ, An Tiêm thấy thế bèn cắt vào ăn thử và thấy vị thanh ngọt,
khoan khoái trong người. Từ đó, gia đình chàng cùng nhau chăm sóc và trồng thêm thứ quả lạ, vì
không biết dưa ấy tên là gì, mới nhân chim tha từ phương tây đem đến nên đặt tên là “Tây qua”
hay còn gọi là dưa tây. Cứ mỗi lần thu hoạch dưa, chàng lại dành ra mấy quả rồi lấy dao vạch lên
đó, đem thả ra biển với ước mong có con thuyền nào đó bắt gặp trái dưa này và biết chàng ở đây.
Quả nhiên, có một thuyền buôn đã đến hòn đảo và An Tiêm đã lấy dưa để đổi lấy vật dụng trong
nhà, cuộc sống dần dần khá lên.Về phần Vua Hùng, sau khi đày An Tiêm ra đảo hoang, vua cứ
nghĩ là An Tiêm đã chết. Cho đến một ngày kia, thị thần dâng thứ quả lạ, vua ăn ngon miệng bèn
hỏi thăm tung tích, mới biết là do An Tiêm trồng ngoài đảo. Vua ngẫm nghĩ thấy mình sai, cho
thuyền ra đón gia đình An Tiêm trở về. An Tiêm và nàng Ba mừng rỡ, thu hoạch hết những quả
dưa chín và đem hạt giống đem về phân phát cho bà con hàng xóm và dạy cho họ cách trồng dưa.
18
Kể từ đó, nước Văn Lang có thêm loại dưa hấu đỏ, đó là nguồn gốc giống dưa hấu mà chúng ta ăn
ngày nay.
Ngoài ra vẫn còn nhiều dị bản về Mai An Tiêm, trong đó tôi xin đưa ra một dị bản mà bạn đọc
có thể tham khảo: Chuyện “dưa hấu” trong “Lĩnh Nam chích quái”.
II. Ý NGHĨA
Cũng như nhiều truyền thuyết khác kể về thời dựng nước của các vua Hùng, truyện "Sự tích
dưa hấu" giải thích thêm nguồn gốc một sản vật quý của đất nước cũng xuất hiện ở thời Hùng
Vương. Câu chuyện còn minh họa cho tục ngữ của người Việt đúc kết kinh nghiệm sống. Câu
chuyện có thể là một chứng tích mở đầu cuộc phiêu lưu trên biển đầu tiên của người Việt cổ, với
những chi tiết phong phú, sống động. Câu chuyện còn mang ý nghĩa ca ngợi ý chí vươn lên của
con người trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào (gia đình An Tiêm trên đảo hoang), tinh thần đoàn
kết, giúp đỡ lẫn nhau của cư dân đất Việt (bà con hàng xóm giúp đỡ gia đình An Tiêm). Đồng
thời, đề cao tình cảm gia đình khăng khít bền chặt, càng thêm cảm phục người phụ nữ Việt Nam
qua hình ảnh nàng Ba - người phụ nữ : có tấm lòng thuỷ chung son sắt, hiền hậu, đảm đang, chăm
chỉ, tháo vát, yêu thương chồng con…
Bên cạnh cái mẫu chung: Mai An Tiêm và sự tích Quả dưa hấu cũng chỉ là truyền thuyết, là
truyện dân gian như ngàn vạn câu chuyện dân gian và sự tích khác, thì ở đây nó còn có một đặc
trưng rất riêng, đó là vì nó gắn với mảnh đất, ngọn núi Mai An Tiêm, tên người và một dòng họ
Mai có thực. Mảnh đất Nga Sơn được biểu tượng như thánh địa của dòng họ này. Trong tất cả các
dòng họ đang hiện hữu ở Việt Nam thì có lẽ dòng họ Mai có một niềm tự hào lớn nhất, vì theo
truyền thuyết thì đây là dòng họ có nguồn gốc từ Vua Hùng. Mai An Tiêm là con trai vua Hùng.
Các dòng họ lớn như Ngô, Đinh, Lí, Trần, Lê, Nguyễn... đồ sộ hoành tráng gắn với lịch sử dựng
nước oai hùng của dân tộc, với những tài năng trác tuyệt là vậy mà cũng chưa có được minh
chứng là trực hệ của vua Hùng, dù chỉ là truyền thuyết. Nó vừa là truyền thuyết, vừa là dã sử, lại
cũng vừa là hình bóng của lịch sử. Từ chính truyền thuyết, người xưa đã cung cấp cho chúng ta
những cứ liệu tham chiếu về một thời đại rất đáng quan tâm: Thời đại Hồng Bàng - Nhà nước
Văn Lang của các Vua Hùng.
Truyền thuyết là của dân gian tạo ra, truyền đời này qua đời khác, ai muốn cảm nhận nó theo
góc độ nào tuỳ ý. Mọi người Việt Nam đều có chung quyền lợi thụ hưởng tinh hoa và cùng nhau
chia sẻ những trắc uẩn từ đó mà ra. Thiết nghĩ, truyền thuyết Mai An Tiêm gắn với quả dưa hấu
Nga Sơn cũng chỉ đủ căn cứ cho sự suy luận đến mức độ đó.
Đáng tiếc, trong những năm gần đây, trước yêu cầu tôn tạo, trùng tu, bảo quản và phát triển di
sản văn hoá, cả vật thể và phi vật thể, nhiều nơi nhiều người đã đi hơi quá bước. Họ đã viết lại
truyện dân gian, bịa ra truyền thuyết với bố cục chặt chẽ, hợp lí, chấm phá các chi tiết li kì, quái
đản nhằm tạo lực hút cho những người mê tín và khách du lịch hiếu kì phương xa. Đó là một lỗi
19
lầm của truyền thuyết và văn hoá. May mắn thay, truyền thuyết Mai An Tiêm và Quả dưa đỏ
không chịu chung cảnh ngộ. Những gì hiện diện trong truyền thuyết này đã mang giá trị phản ánh
một hiện thực hoặc chí ít cũng biểu đạt một quan niệm của cha ông ta từ ngàn năm trước về thời
đại các vua Hùng vẫn được giữ gìn nguyên bản. Hậu thế có quyền tự hào; có quyền phán xét.
Cũng từ đây, truyền thuyết đã cho chúng ta những ý niệm về xã hội Việt Nam thời Hồng Bàng; đó
là một quốc gia, một dân tộc có văn hoá và chính trị độc lập, vào loại sớm nhất thế giới.
III. TƯỞNG NHỚ
Mai An Tiêm được coi là ông tổ của nghề trồng dưa hấu ở Việt Nam. Để tưởng nhớ công ơn
của Mai An Tiêm, người dân Nga Sơn đã lập đền thờ ông và suy tôn ông là “Bố cái dưa Tây” và
tổ chức lễ hội vào ngày 12 - 15/3 âm lịch hàng năm. Ngôi đền Mai AN Tiêm thuộc xã Nga Phú
huyện Nga Sơn. Cách huyện lỵ Nga Sơn 5km về phía Đông Bắc.
Ngoài ra, nhân dân ta còn tổ chức lễ hội Mai An Tiêm – một lễ hội văn hoá, lịch sử giàu
truyền thống, tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền bối đã có công gây dựng, gìn giữ và bảo vệ non
sông đất nước. Lễ hội cũng là dịp để các thế hệ con cháu tri ân, đồng thời tiếp nối truyên thống
lịch sử vẻ vang của cha ông, tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết toàn dân
tộc, khai thác mạnh mẽ tiềm năng, thế mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Dưa hấu là một loại quả có vai trò rất quan trọng đối với đời sống.Vào những ngày Tết, trên
bàn thờ ông bà, thường có bộ lư hương bằng đồng được lau chùi sáng bóng, hai bên có chân đèn
cắm nến đỏ, một cặp dưa hấu đẹp nhất đặt trang trọng trên bàn thờ. Ngày đầu xuân, trái dưa bổ
đôi , màu đỏ ngọt ngào như lời chúc một năm mới đầy may mắn và hạnh phúc.Màu đỏ của trái
dưa hấu tượng trưng cho tài lộc, may mắn. Bổ trái dưa mang màu sắc đỏ thắm ai ai cũng mừng
vui, kỳ vọng cho công việc làm ăn cả năm được hưng thịnh.
Là một loại quả có hình dáng khá đẹp, đối với những người phụ nữ khéo tay thì dưa hấu rất
thích hợp dùng để trang trí. Tuy nhiên để trang trí được một quả dưa đẹp còn phụ thuộc nhiều vào
sự khéo léo, tỉ mỉ và cả tấm lòng người khắc. Ngoài ra, dưa hấu còn được dùng tươi tráng miệng
sau bữa ăn và giải khát chống nhiệt. Đặc biệt, vào những ngày nắng nóng, đối với những người
làm việc mệt nhọc hoặc đi đường xa khát nước, một vài miếng dưa hấu cũng đủ làm bớt mệt, đỡ
khát, sảng khoái, dễ chịu. Không chỉ là một loại quả may mắn bày trên mâm ngũ quả ngày Tết,
món quả giải khát tuyệt vời ấy còn là một vị thuốc thanh nhiệt, tiêu khát, giải độc rất hiệu quả.
Thật là một sản vật quý hiếm của tạo hoá.
ĐỀ TÀI: SỰ TÍCH TRẦU CAU
20
Người thực hiện: Nguyễn Thị Lan Anh
Lớp: A3K18
Ngày nay, qua nhiều sách vở và các tài liệu khảo cổ, người ta được biết trầu cau là hai loại cây
đã xuất hiện rất lâu đời ở vùng Trung Ấn, Đông Nam Á và ở một số quần đảo trên Thái Bình
Dương. Có lẽ người xưa, do kinh nghiệm mà có, đã biết sử dụng vôi, trầu, cau, cũng như các loại
lá, rễ, quả của nhiều thứ cây khác tìm được để bảo vệ sức khỏe, phòng ngừa hay trị bệnh. Quả
thực, ăn trầu đã giúp cho cơ thể được ấm nóng chống lạnh, chống sơn lam thủy khí; ăn trầu lại
sạch miệng, răng lợi và xương cốt được bồi dưỡng, vững mạnh.
Trong sự tích Trầu Cau, ta thấy tác giả muốn giải thích cho mọi người hiểu rằng, dân tộc ta đã
có một đời sống văn hoá khá cao ngay từ thuở xa xưa, từ thời Hùng Vương kia.
Ngay từ thuở đó, xã hội Việt Nam đã có truyền thống lấy gia đình làm gốc, anh em biết
thương quí nhau, trên kính dưới nhường; vợ chồng lấy nhau vì tình nghĩa, và người đàn bà đã biết
trọn niềm chung thuỷ, son sắt với chồng…. Không phải đợi đến khi người Trung Hoa sang đô hộ
nước ta, dân ta mới biết thế nào là hiếu đễ, thế nào là tiết nghĩa. Và cũng vì Sự tích Trầu Cau có ý
nghĩa sâu sắc như thế nên tục ăn trầu của dân ta đã được thăng hoa, trở thành một mỹ tục mang
tính chất đặc thù của một nền văn minh cổ Đông Nam Á.
I. TRẦU CAU NƠI QUÊ HƯƠNG
Với chúng ta, hình ảnh những hang cau thẳng tắp, cao vút cùng hình ảnh những giàn trầu
không xanh rờn với những chiếc lá to bằng bàn tay, có hình trái tim duyên dáng nơi góc vườn,…
đều là những hình ảnh thân quen đãin sâu vào kí ức của nhiều người. Ngày nay chúng đã trở thành
những hình ảnh biểu tượng cho quê hương trong nỗi nhớ, niềm thương của những người con xa
xứ.
II. CÔNG DỤNG CỦA TRẦU CAU
Trầu cau rất đa dụng, nhất là cau. Thân cau được dung làm cột nhà, làm cầu, người ta bắc
thành cầu khỉ hay đóng thành bè thay cầu ván. Mo cau để lợp nhà, làm quạt, làm gầu tát nước, đôi
khi còn để đựng đồ như gói tiền, gói vàng hay bọc thức ăn. Tàu cau thì làm chổi quét sân...
• Trong Đông y, ngành thuốc Nam, trầu cau được dung làm thuốc chữa bệnh.
• Còn cau thì vỏ cau chữa bệnh bụng đầy trướng, bí tiểu, ốm nghén, nôn mửa.
• Hạt cau khô giúp sự tiêu hoá, viêm ruột, sốt rét, sán lãi và bệnh chốc đầu ở trẻ em.
Tất nhiên, công dụng chính của trầu cau là để ăn.
III. TỤC MỜI TRẦU
21
Tục mời trầu ở xứ ta cho thấy, trầu cau là phương tiện không thể thiếu trước nhất trong những
nghi thức giao tế hang ngày ngoài xã hội.
“Miếng trầu là đầu câu chuyện”, là “đầu trò tiếp khách”, nên chỉ vừa gặp nhau, sau mấy tiếng
chào hỏi, người ta liền mở trầu mời ẳnồi mới nói gì thì nói, bàn gì thì bàn.
Trong phạm vi tình yêu và hôn nhân, tục mời trầu đã được người bình dân khai thác triệt để.
Vì trầu cau còn là lễ vật cưới xin nên những hình ảnh, màu sắc, hương vị của trầu, cau, vôi,... luôn
luôn gợi ý cho thanh niên nam nữ liên tưởng tới những chuyện tình yêu, chuyện duyên phận lứa
đôi.
IV. TRẦU CAU TRONG NGHI LỄ CƯỚI HỎI
Người bình dân Việt Nam xưa nhờ vào hoàn cảnh sống gần gũi với thiên nhiên , nhờ điều kiện
sinh hoạt tập thể về nông nghiệp, hội hè, hát xướng, lại nhờ vào tục mời trầu của xã hội... đã giúp
cho tình yêu của họ dễ dàng nảy nở, cởi mở, hồn nhiên. Dù thế nào chăng nữa, tình yêu của họ
cũng không cuồng nhiệt, tự do quá trớn đến vượt ra khỏi vòng lễ giáo gia đình và phong tục xã
hội. Bắt chước theo Trung Hoa, tẩt cả phải trải qua sáu lễ:
• Lễ Nạp thái còn gọi là sơ vấn, nhà trai đưa lễ vật để tỏ ý đã kén chọn. Lễ này nôm na gọi
là lễ chạm ngõ hay giạm vợ.
• Lễ Vấn danh: hỏi tên tuổi và họ người con gái
• Lễ Nạp cát: báo cho nhà gái biết đã bói được điềm tốt
• Lễ Thỉnh kì: xin định ngày cưới
• Lễ Nạp tệ: tệ là lụa, nghĩa là đem lụa hay phẩm vật quí đến nhà gái, nói chung là đem đồ
sính lễ đến nhà gái trong ngày cưới.
• Lễ Thân nghênh: lễ đón dâu.
Sáu lễ kể trên về sau ta giảm xuống còn ba là lễ Sơ vấn ( chạm ngõ) , lễ Vấn danh (ăn hỏi) và
lễ Thân nghênh (đón dâu). Nghi thức cũng đã được thây đổi phần nào cho hợp với phong cách
Việt Nam. Theo phong tục của nước ta thì cả ba lễ này, trầu cau đều là lễ vật căn bản.
V. PHONG TỤC ĂN TRẦU
Tự bao giờ, trầu cau đã gắn liền với đời sống của người Việt. Trầu cau dùng để tiếp khách
hàng ngày như bát nước chè xanh, như điếu thuốc lào, trầu có mặt trong mỗi cuộc vui, buồn của
làng quê, trầu trong các buổi lễ tế thần, tế gia tiên, lễ tang, lễ thọ, lễ mừng.... Trầu cau còn là quà
tặng, là sính lễ trong đám hỏi, trầu thay thiệp báo, thiệp mời trước ngày hôn lễ. Miếng trầu tuy đơn
giản nhưng mang bao ý nghĩa sâu đậm trong đời sống văn hóa của người Việt Nam…
Với người Việt Nam, trầu cau là biểu hiện nét văn hóa độc đáo của dân tộc. Miếng trầu chứa
đựng nhiều tình cảm, nhiều ý nghĩa thiêng liêng, gắn bó thân thiết trong tâm hồn mỗi người.
Trong mấy ngàn năm lịch sử cho đến ngày nay và có lẽ là mãi mãi, trầu cau luôn hiện diện trong
22
đời sống các dân tộc Việt Nam và các dân tộc châu Á. Dù giàu nghèo ai cũng có thể có, miếng
trầu thắm têm vôi nồng cùng cau bổ tám, bổ tư quyện vào rễ vỏ chay đỏ luôn là sự bắt đầu, sự
khơi mở tình cảm. Dân gian có câu "Miếng trầu là đầu câu chuyện", miếng trầu đi đôi với lời
chào, lời thăm hỏi hay làm quen.
Đối với các nam nữ thanh niên nam nữ xưa kia thì miếng trầu là nguyên cớ để bắt đầu một
tình yêu, một cuộc hôn nhân - "Miếng trầu nên dâu nhà người". Trong việc cưới, hỏi nhận lễ vật
trầu cau là đồng nghĩa với việc nhận lời cầu hôn, là giao ước giữa hai họ. Đó là một nghi thức độc
đáo của người Việt.
Trong hôn nhân, trầu cau có một vai trò quan trọng. Tuy chỉ "Ba đồng một mớ trầu cay"
nhưng "Miếng trầu nên dâu nhà người". Trong lễ cưới, hỏi và mâm cỗ cúng tơ hồng - vị thần của
hôn nhân, bao giờ cũng phải có buồng cau và tệp lá trầu. Người ta xem buồng cau có đẹp không,
cuống lá trầu có tươi không mà ước đoán được rằng đôi lứa ấy có đẹp duyên không.
Miếng trầu nồng thắm luôn có mặt trong hôn lễ là sự khơi gợi, nhắc nhở mọi người hướng về
một tình yêu son sắt, một cuộc sống vợ chồng gắn bó, thủy chung và luôn lấy nghĩa tình làm trọng
Trầu cau còn đi vào giấc ngủ của con người từ ngày này qua năm khác và hiển nhiên đi vào
cuộc sống sinh hoạt của người Việt bằng những câu ví, câu đố, ca dao, ngạn ngữ, tục ngữ dân
gian, những câu hát trao duyên, câu hát mời trầu của trai gái. Bên cạnh những "vôi nồng", "miếng
trầu cánh phượng", "cau bổ bốn bổ ba", là những "trầu giải yếm giải khăn", "trầu loan, trầu
phượng, trầu tôi trầu mình" là những "trầu tính trầu tình", "trầu nhân, trầu ngãi"... để rồi thành
"trầu mình lấy ta", "trầu nên vợ nên chồng"…
VI. TRIẾT LÝ TRẦU CAU
Miếng trầu, đơn giản thế thôi: Trầu, cau, vôi, nếu có thể thêm tí vỏ, viên thuốc lào (với người
ăn "trầu thuốc"). ấy thế mà miếng trầu mang đậm "cá tính con người". Người ta têm trầu là để mời
trầu, mời người khác ăn trầu. Điếu thuốc lá công nghiệp ngày nay là phi cá tính. Còn miếng trầu
thủ công nghiệp ngày xưa đã được cá tính hóa.
Vậy phép biện chứng của miếng trầu là nó vừa mang nặng bản sắc xã hội (phương tiện giao
tiếp), vừa mang nặng bản sắc cá nhân. Miếng trầu Việt Nam mang nặng tình người và chở nặng
tính người nhất: con người, về bản chất, vừa là một sinh vật xã hội, vừa là một cá nhân. ứng xử
hài hòa hai mặt đối lập mà hòa hợp đó là ứng xử cao nhất của xã hội loài người.
VII. TRẦU CAU TRONG LỊCH SỬ
23
Trầu cau có thể nói là hai loại cây song sinh rất phổ thông ở nước ta, đặc biệt càng về phía
nam, nghĩa là càng nóng và mưa nhiều, thì trầu cau càng ngon và càng phong phú, nên nhiều
người thường buôn trầu cau từ miền nam ra miền bắc.
Cây trầu và cây cau là hai loại cây địa phương Việt Nam, được người bản địa sử dụng lâu đời,
và việc ăn trầu trở thành một phong tục chủ chốt trong mọi sinh hoạt truyền thống của người Việt
và đặc biệt luôn luôn có mặt trong lễ cưới hỏi của người Việt . Khi về già, người Việt còn dùng
một cái cối nhỏ để xoáy cau trầu cho mềm mà ăn.
VIII. TRẦU TÊM CÁNH PHƯỢNG – NÉT ĐẸP VĂN HÓA ĐẤT KINH BẮC
Trầu têm cánh phượng là hình ảnh đẹp, gợi về truyện cổ tích Tấm Cám và tục ăn trầu đã trở
thành tập quán, truyền thống của dân tộc Việt. Từ xa xưa, miếng trầu đã đi vào thơ ca, huyền
thoại, cổ tích... phản ánh nhiều nét đẹp văn hóa, thăng hoa tình cảm, tình yêu thương con người,
hình thành văn hóa vùng rõ rệt.
Trầu là món ăn không giải quyết việc đói, no. Người ta ăn trầu là để thưởng thức vị cay thơm
của lá trầu không, vị chát của vỏ, vị ngọt bùi của cau, vị nồng nàn của vôi... tất cả hòa quyện với
nhau trong một màu đỏ sẫm. Nhiều người ăn trầu đã thành thói quen, rồi thành nghiện-nghiện
trầu. Nhưng điều kì diệu của thói nghiện trầu phải chăng là ở chỗ, người ăn thấy nó gắn bó với số
phận con người, bởi tách riêng, thì cay đắng, éo le, nhưng khi đã hòa chung thì tình cảm của họ lại
thắm tươi, đẹp đẽ.
Nói đến trầu têm cánh phượng là nói đến miếng trầu vùng Kinh Bắc. Cũng vẫn nguyên liệu ấy,
nhưng cách têm đẹp, kiểu cách, đã thể hiện sự khéo léo của những liền chị-người gái quê Kinh
Bắc. Vì thế, miếng trầu có sức hấp dẫn đặc biệt và để lại ấn tượng sâu sắc cho bất cứ ai, dù chỉ
một lần được mời.
Ngày nay không còn nhiều người Việt ăn trầu nữa nhưng nó đã trở thành một nét văn hóa, một
tập tục không thể thiếu được trong các nghi lễ thường thức của nhân dân. Miếng trầu vẫn là hình
ảnh đầu tiên của một tiệc cưởi hỏi. Người ta trao nhau miếng trầu để dễ bắt nhịp vào câu chuyện,
để mong một khởi đầu thành ý, thuận lợi.
24
ĐỀ TÀI: SỰ TÍCH MỊ CHÂU - TRỌNG THỦY
Người thực hiện: Đàm Thị Lan Anh
Lớp: A3K18
I. SỰ TÍCH
An Dương Vương xây thành Cổ Loa, xây mãi vẫn đổ, nhờ có Rùa Vàng giúp mới xây xong.
Rùa cho nhà vua lẫy nỏ, nhờ đó mà đánh bại quân xâm lược Triệu Đà. Triệu Đà cầu hoà, cho con
trai Trọng Thuỷ sang kết thân với Mị Châu, con gái An Dương Vương và ở rể trong thành Cổ Loa.
Trọng Thuỷ ăn cắp lẫy nỏ, Triệu Đà liền cử quân sang tái xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương
thua trận, đem theo Mị Châu chạy trốn. Đến bờ biển, Rùa Vàng hiện lên kết tội Mị Châu, vua
chém đầu con gái rồi đi xuống biển. Trọng Thuỷ tiếc Mị Châu, tự vẫn ở giếng trong thành. Mị
Châu chết, máu thành ngọc trai, xác thành ngọc thạch, ngọc đem rửa nước giếng trong thành thì
sáng hơn.
II. Ý NGHĨA
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng thuỷ là một trong những truyền thuyết tiêu
biểu hấp dẫn và có ý nghĩa nhất trong chuỗi truyền thuyết về Âu Lạc và An Dương Vương trong
kho tàng văn học dân gian phong phú của dân tộc ta. Trong tác phẩm, bằng chí tưởng tượng phong
phú, kết hợp giữa những yếu tố hư cấu với các yếu tố lịch sử, ông cha ta đã đưa ra cách lí giải của
riêng mình về nguyên nhân mất nước Âu Lạc; bày tỏ tình cảm, thái độ và cách đánh giá về An
Dương Vương, Trọng Thuỷ, Mị Châu, những nhân vật của một thời kì lịch sử. Đồng thời, thông
qua tác phẩm, ông cha ta cũng để lại những bài học lịch sử cho con cháu muôn đời trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Về phía An Dương Vương, nhà vua là người xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, là người có
công lao to lớn trong sự nghiệp dựng đất nước nhưng cũng mắc sai lầm nghiêm trọng, là một
trong những nguyên nhân chính đẩy Âu Lạc rơi vào thảm kịch ngàn năm Bắc thuộc, lịch sử không
thể tha thứ.
Mị Châu là con gái của An Dương Vương Thục Phán, là một cô công chúa lá ngọc, cành vàng,
có tâm hồn ngây thơ trong trắng, nhẹ dạ, cả tin và không có một chú gì về ý thức công dân. Xuất
hiện ở phần sau của tác phẩm, Mị Châu cũng là người phải chịu trách nhiệm lớn trước bi kịch
“nước mất nhà tan”.
Còn Trọng Thủy là chồng Mị Châu nhưng cũng là kẻ thù của nhân dân Âu Lạc, là một kẻ rất
đáng bị vạch mặt, lên án, tội lỗi đời đời.Tuy nhiên, xét ở một góc độ khác, Trọng Thuỷ cũng chỉ là
nạn nhân của một cuộc chiến tranh xâm lược. Trong tay của Triệu Đà, Trọng Thuỷ không hơn
không kém cũng chỉ là một con bài chính trị mà thôi.
25