Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Phân tích tư tưởng của hồ chí minh về đạo đức liên hệ tới quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường đại học thương mại hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.54 KB, 42 trang )

lOMoARcPSD|17917457

lOMoARcPSD|17917457

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
🖎🖎✍

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ TƯƠNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài chính: Phân tích Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức? Liên hệ tới quá
trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường Đại học Thương mại hiện nay?
Nhóm thực hiện

:

Nhóm 09

Lớp học phần

:

2277HCMI0111

Giáo viên hướng dẫn

: ThS. Ngơ Thị Huyền Trang

Hà Nội, năm 2022



Mục lục
Đề tài chính: Phân tích Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức? Liên hệ tới q trình tu dưỡng đạo
đức của sinh viên trường Đại học Thương mại hiện nay?...........................................................................4
Mở đầu........................................................................................................................................................4
Phần 1: Cơ sở hình thành Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức..............................................................5
1.1.

Văn hóa truyền thống của người Việt Nam.......................................................................................5

1.2.

Tinh hoa văn hóa nhân loại................................................................................................................5

1.3.

Chủ nghĩa Mác- Lênin........................................................................................................................7

Phần 2: Nội dung cơ bản của Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức.........................................................8
2.1. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng................................................8
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng................................................9
2.2.1. Trung với nước, hiếu với dân.....................................................................................................9
2.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.....................................................................................11
2.2.3. Thương u con người, sống có tình có nghĩa.........................................................................14
2.2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng...................................................................................................14
2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng...............................16
2.3.1. Nói đi đơi với làm, nêu gương về đạo đức...............................................................................16
2.3.2. Xây đi đôi với chống.................................................................................................................18
2.3.3. Tu dưỡng đạo đức suốt đời.....................................................................................................19
Phần 3: Liên hệ tới quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường Đại học Thương mại hiện nay20
3.1. Thực trạng đạo đức trong lối sống sinh viên Đại học Thương mại hiện nay.........................................20

3.1.1. Về mặt tích cực........................................................................................................................21
3.1.2. Về mặt tiêu cực........................................................................................................................22
3.2. Giải pháp nâng cao quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên Đại học Thương mại...........................23
3.2.1. Bản thân sinh viên...................................................................................................................23
3.2.2. Về phía nhà trường và gia đình................................................................................................26
Phần kết....................................................................................................................................................29
Đề tài phụ: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Vận dụng vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.................................................30
2
Mở đầu......................................................................................................................................................30


Phần 1: Cơ sở hình thành Tư tưởng của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội................................................31
1.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.........................................................................31
1.2. Cơ sở hình thành Tư tưởng của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.....................................31
Phần 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.................32
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội...........................................................................................32
2.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.....................................................................32
2.1.2. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan...............................................................32
2.1.3. Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa..............................................................33
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam........................................................34
2.2.1. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.....................................................................................34
2.2.2. Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam..............................................................................35
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam..........................................35
Phần 3: Liên hệ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay...............................................36
3.1. Thực trạng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay................................................................................36
3.2. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay..................................................................................37
Phần kết....................................................................................................................................................39

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021): Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – dành cho hệ
khơng chun lý luận chính trị, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021): Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – dành cho hệ
chuyên lý luận chính trị, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh (2011): Tồn tập (15 tập), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Võ Nguyên Giáp (2015): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt nam,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

3


5. Mạch Quang Thắng (2009): Hồ Chí Minh, nhà cách mạng sáng tạo, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.

4


Đề tài chính: Phân tích Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức? Liên hệ tới quá trình
tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường Đại học Thương mại hiện nay?
Mở đầu
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách mạng đã bàn nhiều
nhất đến vấn đề đạo đức. Người không để lại những tác phẩm đạo đức lớn nhưng những tư
tưởng lớn của Người về đạo đức đã nằm trong những bài viết, bài nói ngắn gọn, được diễn
đạt rất cơ đọng, hàm súc theo phong cách phương Đông, rất quen thuộc với con người Việt
Nam. Bản thân Người lại thực hiện trước nhất những tư tưởng ấy, nhiều hơn cả những điều
Người đã nói, đã viết về đạo đức. Hồ Chí Minh vừa là một nhà đạo đức học lớn, lại vừa là
tấm gương đạo đức trong sáng nhất, tiêu biểu nhất đã được thế giới thừa nhận.
Vì vậy tìm hiểu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh khơng phải chỉ thơng qua những tác
phẩm của Người về đạo đức, mà quan trọng hơn phải thơng qua chính hành vi được thể hiện
trong tồn bộ hoạt động thực tiễn của Người, thơng qua mẫu mực đạo đức trong sáng mà

Người đã để lại cho Đảng, cho dân tộc, cho nhân loại. Sự thống nhất giữa tư tưởng và hành
vi, động cơ và hiệu quả, giữa lý luận và thực tiễn đã trở thành một đặc trưng nổi bật của Hồ
Chí Minh, đặc trưng này đã làm cho Hồ Chí Minh phân biệt với rất nhiều nhà tư tưởng,
nhiều lãnh tụ cách mạng khác từ trước đến nay.
Để hiểu rõ hơn nhóm chúng em xin lựa chọn đề tài “Phân tích Tư tưởng của Hồ Chí
Minh về đạo đức? Liên hệ tới quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường Đại học
Thương mại hiện nay?” để tìm hiểu những giá trị đạo đức của Hồ Chí Minh từ đó rút ra
những bài học cho bản thân.

5


Phần 1: Cơ sở hình thành Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1.

Văn hóa truyền thống của người Việt Nam
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được bắt nguồn từ truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân

tộc Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để tồn tại, phát triển, ông
cha ta đã kiên cường, bất khuất trong đấu chống giặc ngoại xâm và chống lại sự khắc nghiệt
của thiên nhiên. Từ trong các cuộc đấu tranh gian khổ đó, nhân dân ta đã sớm có ý thức đồn
kết cộng đồng, tương thân tương ái, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, chung lưng đấu cật, đồng
cam cộng khổ, sống trọng nghĩa, trọng tình, thuỷ chung, độ lượng... Những đức tính tốt đẹp
đó được các thế hệ người Việt Nam kế thừa và bồi đắp từ đời này qua đời khác, trở thành
những giá trị đạo đức cao đẹp, bền vững của dân tộc ta. Trong đó, chủ nghĩa yêu nước là nét
đặc sắc, nổi bật nhất của thang giá trị đạo đức truyền thống dân tộc.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình có nếp sống, phong cách sinh hoạt
gần gũi với người lao động, trọng tình người, sống có nghĩa khí và trên q hương giàu
truyền thống u nước. Người cịn được trực tiếp nhìn thấy những cảnh đau lịng, bất cơng,
bạo ngược của bọn thực dân, phong kiến đối với nhân dân lao động. Lòng yêu nước, thương

dân đã tiếp thêm nghị lực, sức mạnh cho Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh nhằm thực hiện
một mục đích cao cả, “Nước ta được hồn tồn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Những giá trị đạo đức truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, quê hương, gia đình đã được Hồ Chí Minh kế thừa, phát huy, phát
triển lên một tầm cao mới, của thời đại mới và được thể hiện một cách sâu sắc trong tư
tưởng của Người về đạo đức cách mạng.
1.2.

Tinh hoa văn hóa nhân loại
Trước khi đến với chủ nghĩa nhân đạo cao cả của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh

đã tìm thấy và nhận thức được những giá trị nhân bản, hạt nhân hợp lý trong đạo đức
phương Đông, phương Tây. Song sự tiếp thu, kế thừa của Hồ Chí Minh bao giờ cũng trên cơ
sở có chọn lọc và phê phán.

6


Đối với đạo đức phương Đơng, Hồ Chí Minh coi trọng và đánh giá cao những giá trị tích
cực, tiến bộ trong tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo. Hồ Chí Minh đã khai thác nho giáo, lựa
chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Đó là triết lý
hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời, lý tưởng về một xã hội bình trị, triết lý
nhân sinh, tu thân dưỡng tính góp phần đề cao văn hóa, lễ giáo, đề cao tinh thần hiếu học.
Đặc biệt trong học thuyết của Khổng Tử, Người cho rằng: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và
tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều khơng đúng song những điều hay trong đó
thì chúng ta nên học”. Đó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân, nghiêm khắc với bản thân.
Phật giáo là một trong những tôn giáo du nhập vào Việt Nam khá sớm. Những mặt tích
cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tư duy, hành động, cách ứng xử của
con người Việt Nam, tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể
thương thân; xây dựng nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện; đề

cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp. Phật
giáo Thiền tông coi trọng lao động, chống lười biếng. Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ
nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ đã hình thành nên Thiền phái trúc lâm Việt Nam, chủ
trương không xa đời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng,
vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc. Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời
sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động, để lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Chủ nghĩa “tam dân” (dân tộc, dân quyền, dân sinh) của Tôn Trung Sơn là một học
thuyết nằm trong phạm trù cách mạng tư sản khi phong trào Duy Tân nổi lên ở Nhật Bản,
Trung Quốc và Việt Nam. Cách lãnh đạo cách mạng của Tôn Trung Sơn được Người quan
tâm và học tập đặc biệt là vận dụng đạo đức Nho giáo để tuyên truyền và giáo dục tinh thần
cách mạng cho quần chúng. Coi những người lãnh đạo, nhân viên phải trung với nước, là
đầy tớ của quần chúng nhân dân. Chính tư tưởng trên đã được Hồ Chí Minh vận dụng thành
những lời nhắc nhở, giáo dục cho cán bộ, đảng viên chúng ta: “cán bộ là đầy tớ của nhân
dân”, cán bộ phải “trung với nước, hiếu với dân”, phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vô
tư”, “phải khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” …
7


Đối với đạo đức phương Tây, Hồ Chí Minh rất coi trọng những “ưu điểm” trong tư
tưởng của Thiên chúa giáo, đó là lịng nhân ái cao cả của Chúa Giêsu. Hồ Chí Minh viết
“Chúa Jesu dạy: Đạo đức là bác ái”, khuyên con người sống trong sạch, thuỷ chung, thương
yêu, giúp đỡ lẫn nhau, biết hoà đồng và làm bạn với mọi người, kể cả làm bạn với bạn của
kẻ hại mình. Mặt khác, Người cũng chỉ ra những hạn chế lớn của Thiên chúa giáo. Nghiên
cứu về nền văn hoá phương Tây, Người đánh giá cao tinh thần nhân đạo, dân chủ và nhân
quyền được thể hiện trong các trào lưu triết học, văn học nghệ thuật, nổi bật là tư tưởng “tự
do, bình đẳng, bác ái”. Người cho rằng, đó là một tư tưởng tiến bộ có sức hấp dẫn đối với
quần chúng nhân dân lao động, nhưng đã bị giai cấp tư sản lợi dụng để mỵ dân, xúi dục quần
chúng đánh đổ giai cấp phong kiến để đoạt lấy quyền cai trị vào tay mình, rồi quay trở lại
đàn áp nhân dân.

Như vậy, Hồ Chí Minh đã kế thừa, tiếp thu được những giá trị đạo đức tốt đẹp của cả
phương Đông và phương Tây để mở rộng sự hiểu biết, làm phong phú, làm giàu thêm trí tuệ
của mình. Đó cũng là điều kiện khách quan, cần thiết để Người đến với chủ nghĩa nhân đạo
cao cả của chủ nghĩa Mác - Lênin, giúp cho Người có được phương pháp tư duy biện chứng
khoa học để khơng ngừng bổ sung, hồn thiện các giá trị về đạo đức bằng những quan niệm
mới, cách mạng và tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của nhân loại.
1.3.

Chủ nghĩa Mác- Lênin
Từ rất sớm, trong đời sống xã hội loài người đã xuất hiện và tồn tại các quan niệm khác

nhau về đạo đức, nhưng đó là những quan niệm đạo đức cũ. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đánh
dấu bước ngoặt về một nền đạo đức mới, đạo đức cộng sản, gạt bỏ tất cả những quan niệm
duy tâm, phi lịch sử về đạo đức. Mác cho rằng, “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo
đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế, của xã hội lúc bấy giờ”.
Đồng thời, Mác còn chỉ rõ, trong xã hội có sự đối lập về giai cấp, thì “đạo đức cũng là đạo
đức của giai cấp, hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị, hoặc là
khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống lại sự thống trị
nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người bị áp bức”. Đạo đức tiêu biểu cho
lợi ích tương lai của những người bị áp bức chính là đạo đức mới, đạo đức cách mạng mang
8


bản chất giai cấp cơng nhân, nó khác hẳn với bản chất đạo đức cũ của giai cấp thống trị bóc
lột. Bàn về vai trị to lớn của đạo đức mới, Lênin đã khẳng định: “Đạo đức đó là những gì
góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đồn kết tất cả những người lao
động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra một xã hội mới của những người cộng
sản”.
Chủ nghĩa Mác - Lênin rất quan tâm đến vấn đề đạo đức và xây dựng đạo đức cách
mạng cho giai cấp vô sản. Hơn nữa, sức thuyết phục của tư tưởng đạo đức trong học thuyết

đó, khơng chỉ ở tính cách mạng và khoa học của nó, mà cịn ở tấm gương đạo đức mẫu mực,
trong sáng, cao cả của các nhà kinh điển. Chính vì vậy, tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác
- Lênin đã tác động ảnh hưởng một cách sâu sắc đến cả nhận thức, tư duy, tình cảm và hành
động của Hồ Chí Minh. Đặc biệt khi nói về tấm gương đạo đức của Lênin, Hồ Chí Minh
viết: “Khơng phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần
yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của
người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ
hướng về Người, khơng gì ngăn cản nổi.
Phần 2: Nội dung cơ bản của Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức.
2.1. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng.
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng lớn. Tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh rất sâu sắc, phong phú cả về lý luận và thực tiễn. Khi đánh giá vai trò
của đạo đức trong đời sống, Người đã khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển
con người, như gốc của cây, ngọn nguồn của suối, người cách mạng phải có đạo đức. Nếu
khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Với Người, đạo
đức là gốc, là nền tảng là sức mạnh của người cách mạng. Đó là sức mạnh của ý chí, nghị
lực để người cách mạng hồn thành tốt vai trị và nhiệm vụ được giao. Người nói rõ cán bộ,
đảng viên cần lấy đạo đức là gốc, là tiêu chuẩn hàng đầu. Phải có đạo đức cách mạng mới có
thể lãnh đạo được nhân nhân, tạo được niềm tin trong dân, được dân yêu quý, kính trọng và
tin phục.

9


Đạo đức cách mạng là sức mạnh. Có đạo đức cách mạng chính là đã có được một sức
mạnh hết sức to lớn. Theo Hồ Chí Minh, có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ,
thất bại, cũng khơng sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Khi cần, thì sẵn sàng hi sinh cả tính mạng của
mình cũng khơng tiếc. Có đạo đức cách mạng thì gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững
tinh thần gian khổ, chất phác khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hồn thành
nhiệm vụ cho tốt chứ khơng kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu,

khơng kiêu ngạo, khơng hủ hóa.
Trên cơ sở xác định vai trò to lớn của đạo đức cách mạng, Người yêu cầu mỗi cán bộ
đảng viên phải không ngừng tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức. Người đặc biệt nhấn
mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân...
Hồ Chí Minh đã nói: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo
đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất quan trọng. Nếu khơng có đạo đức cách mạng thì có tài
cũng vơ dụng”. Người nói vậy khơng có nghĩa là người đang tơn sùng hay tuyệt đối hóa đạo
đức mà hạ thấp mặt tài của con người. Đây là hai mặt quan trọng thống nhất cùng tồn tại bên
trong một con người, đặc biệt là người làm cách mạng, tài năng phải gắn chặt và nó được đặt
trên nền tảng vững chắc đó là đạo đức.
Có thể nói, đạo đức cách mạng có vai trị vơ cùng quan trọng, vì thế trong cơng tác giáo
dục đạo đức cách mạng, Đảng ta đã phát động cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh". Một trong những vấn đề có ý nghĩa định hướng nhận thức và
chỉ đạo thực tiễn của cuộc vận động là luận điểm: "Đạo đức là gốc của người cách mạng"
mà Người đã nêu ra. Đây chính là định hướng và tiêu chí hàng đầu trong học tập, tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ và đảng viên.
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng.
2.2.1. Trung với nước, hiếu với dân
“Trung với nước, hiếu với dân” là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh. Trung và hiếu là những khái niệm đạo đức đã có từ lâu đời trong tư
10


tưởng đạo đức truyền thống phương Đơng nói chung và đạo đức truyền thống Việt Nam nói
riêng, nó phản ánh mối quan hệ lớn nhất và cũng là phẩm chất bao trùm nhất: “Trung với
vua, hiếu với cha mẹ”. Theo quan niệm “trung với vua” thể hiện quan điểm trung “trung
quân ái quốc”, vua chính là lớn nhất là nước, là người quyết định tất cả, cịn dân chỉ có

nhiệm vụ làm bề tơi trung thành, cịn “hiếu với cha mẹ” ý chỉ con cái phải hết lòng phụng
dưỡng, nghe lời cha mẹ, như câu “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, làm con cái tuyệt đối
không được cãi lại với cha mẹ. Tuy nhiên những quan niệm này còn rất cổ hủ và gượng ép
con người vào những chuẩn mực đạo đức xưa cũ, nên Hồ Chí Minh đã từ đó và phát triển
thành nội dung mới: “Trung với nước, hiếu với dân”. Điều này đã tạo nên một cuộc cách
mạng sâu sắc trong lĩnh vực đạo đức.
Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “trung với nước” là trung thành với lợi ích
của quốc gia, dân tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Ðảng, với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, còn “hiếu với dân” khơng phải chỉ
hiếu với cha mẹ như người xưa nói, mà hiếu với nhân dân, với toàn dân tộc, phải tồn tâm,
tồn ý vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc bởi “dân là gốc”. Có thể thấy mối quan hệ giữa
nước với dân và dân với nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc,
hòa quyện với nhau trong một thể thống nhất về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của
công dân với cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Tư tưởng “Trung với nước, hiếu với dân” của Hồ
Chí Minh khơng những kế thừa giá trị yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua
những hạn chế của truyền thống đó.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác luôn là tấm gương sáng về
phẩm chất “trung với Đảng, hiếu với dân”. Cả một đời Người bôn ba khắp bốn biển năm
châu để tìm cho nhân dân ta con đường thốt khỏi cảnh nơ dịch, tù đầy dẫu cho trăm ngàn
vất vả, khó khăn thử thách, phải đối diện với sự sống và cái chết nhưng Người vẫn một lịng
vì dân vì nước; cả một đời Người phấn đấu cho một ham muốn đó là làm sao cho nước nhà
được hoàn toàn độc lập, nhân dân ai cũng có cơm no áo ấm, ai cũng được học hành. Sau này
ngay cả khi tuổi cao bệnh trọng, Người vẫn dành những hơi thở cuối cùng của đời mình cho
sự nghiệp của Đảng, của dân. Tất cả đều đó chính là minh chứng cụ thể cho một con người
suốt đời cống hiến vì dân vì nước, “trung với Đảng, hiếu với dân”.
11


Hồ Chí Minh mong muốn mỗi người Việt Nam phải trung với nước, hiếu với dân còn
đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng ''điều chủ chốt nhất'' của đạo đức cách

mạng là ''tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân'', là ''trung với nước, hiếu với dân'',
hơn nữa phải là ''tận trung, tận hiếu'' thì mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ
thật trung thành của nhân dân. Tư tưởng hiếu với dân khơng cịn dừng lại ở chỗ thương dân
mà cịn phải phục vụ hết lịng vì dân. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học
tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc.
2.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Theo Bác, Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách
mạng, đó là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người. Cần, kiệm,
liêm, chính là những khái niệm đã có từ lâu đời bắt nguồn từ quan niệm đạo đức Nho giáo.
Trong tác phẩm “Đời sống mới” (3/1947), Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải thực hành “Cần,
Kiệm, Liêm, Chính” nhưng đến tác phẩm “Cần kiệm liêm chính”, Người đã coi “tứ đức” là
nền tảng của Đời sống mới, là bốn đức tính cơ bản của con người, giống như trời có bốn
mùa, đất có bốn phương. Theo đó, Cần, kiệm, liêm, chính được hiểu như sau:
“Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”. “Muốn cho chữ Cần có nhiều kết
quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc”. Cần tức là lao động cần cù, siêng năng;
lao động một cách thông minh, sáng tạo, lao động có kế hoạch, có năng suất cao, lao động
với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng. Phải thấy rõ, “Lao động là nghĩa vụ thiêng
liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
“Kiệm là tiết kiệm, khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi”. Kiệm tức là tiết kiệm
sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình,
khơng phơ trương hình thức, khơng liên hoan chè chén lu bù. “Tiết kiệm không phải là bủn
xỉn. Khi khơng nên tiêu xài thì một đồng cũng khơng nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc
ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu cơng, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng.
Như thế mới đúng là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, chứ không phải là
kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ”. “Cần với kiệm phải đi đôi với nhau, như hai
chân của con người”. Hồ Chí Minh yêu cầu “Phải cần kiệm xây dựng nước nhà”.

12



Liêm là “trong sạch, không tham lam”; là liêm kiết, “ln ln tơn trọng giữ gìn của
cơng, của dân”, “Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng.
Khơng ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, khơng bao giờ hủ hóa.
Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”. “Chữ Liêm phải đi đôi với chữ
Kiệm. Cũng như chữ Kiệm phải đi đơi với chữ Cần. Có Kiệm mới Liêm được”.
“Chính nghĩa là khơng tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì khơng đứng đắn, thẳng
thắn, tức là tà”. Chính được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ: “Đối với mình – Chớ tự kiêu,
tự đại”. “Đối với người: Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dước. Thái độ chân
thành, khiêm tốn. Phải thực hành chữ Bác – Ái”. “Đối với việc: Phải để công việc nước lên
trên, trước việc tư, việc nhà”; “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì nhỏ mấy
cũng tránh”.
Chí cơng vơ tư là hồn tồn vì lợi ích chung, khơng vì tư lợi; là hết sức công bằng,
không chút thiên tư, thiên vị, công tâm, ln đạt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của dân tộc
lên trên hết, trước hết; chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chí
cơng vơ tư là chống chủ nghĩa cá nhân. Người nói: “Đem lịng chí cơng vơ tư mà đối với
người, với việc”; “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
nên đi sau”.
So với quan niệm về Cần, kiệm, liêm, chính trong Nho giáo, Hồ Chí Minh đã có sự kế
thừa, phát triển với những tư tưởng và tầm nhìn tiến bộ.
Cần: Nếu người xưa chỉ chú trọng Cần trong lao động sản xuất, học tập thì Hồ Chí
Minh cho rằng cịn phải cần cù, kiên trì, làm việc thơng minh và có hiệu quả trong mọi lĩnh
vực. Nhất là trong chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc Người từng nói “kháng chiến có thể kéo dài
5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa” thì đó chính là sắc thái mới của chữ Cần trong
thời đại chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.
Kiệm: Nết trong văn hóa truyền thống có thể cho rằng Kiệm là hà tiện, căn cơ để làm
giàu “Buôn thuyền bán bè không bằng ăn dè, hà tiện” thì với Hồ Chí Mình, Kiệm khơng
phải là bủn xỉn, hà tiện mà là chi tiêu thật hợp lý để làm lợi cho dân. Đặc biệt hơn nữa, Hồ
Chí Minh đã mở rộng tối đa nội dung của Kiệm. Đó khơng chỉ là tiết kiệm của cải, vật
chất mà còn là kiệm thời gian, kiệm sức dân, kiệm nhân tài, chất xám. Kiệm là chi tiêu hợp
13



lý để làm lợi cho dân. Việc gì đáng để chi tiêu thì chi tiêu như xây cầu, đắp đê… cịn khơng
thì phải biết tiết kiệm để những lúc khó khăn thiếu thốn có cái mà dùng như lúc thiên tai,
mất mùa đem của cải lương thực chia cho nhân dân.
Liêm: Trong Ngũ thường Nho giáo trước đây gồm nhân, nghĩa, lễ, trí, tín khơng có đức
liêm thì trong quan điểm của Hồ Chí Minh, liêm là phẩm chất khơng thể thiếu của người
cách mạng cũng như tất cả mọi người. Liêm là liêm khiết, không tham lam, vơ vét của công
và của dân. Từ lúc Đảng chưa ra đời, trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã
yêu cầu người cách mạng phải “ít lịng ham muốn về vật chất”. Khi Đảng trở thành đảng
cầm quyền thì chữ Liêm càng quan trọng vì nếu thiếu nó thì cán bộ “biến thành sâu mọt của
dân”. Chẳng vậy mà sau cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Chính phủ sau
đây phải là một chính phủ liêm khiết”.
Chính: Tư tưởng Nho giáo luôn đề cao sự thành thật, ngay thẳng, rèn luyện bản thân
làm điều thiện. Ở tư tưởng Hồ Chí Minh mở rộng ra khơng chỉ bản thân tu dưỡng lương
thiện mà còn là dám đứng lên đấu tranh với cái ác, loại trừ cái xấu, dũng cảm, mạnh dạn
trong công việc, không rụt rè nhút nhát, dám chống lại những vinh hoa phú q khơng chính
đáng. Người có đức Chính là người ln đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu “vì dân chứ
khơng vì mình”.
Hồ Chính Minh là tấm gương sáng ngời về Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư của
tồn Đảng, tồn dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, dù là người phụ
bếp, đốt lị, rửa bát hay trên cương vị là đại biểu Quốc tế cộng sản, Chủ tịch nước, Người
luôn nêu cao lối sống cần, kiệm, giản dị, không màng danh vọng, không ham của cải, coi
khinh sự xa hoa, không chuộng những nghi thức sang trọng. Bác luôn dành sự quan tâm đặc
biệt tới đời sống của nhân dân. Bác nói: “Người ta ai cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp nhưng
phải cho đúng thời điểm, đúng hồn cảnh. Trong lúc nhân dân cịn thiếu thốn mà người nào
đó muốn riêng mình hưởng ăn ngon, mặc đẹp là không đạo đức”. Ngay trong sinh hoạt hàng
ngày Bác cũng thể hiện lối sống tiết kiệm, giản dị và thanh liêm, ngôi nhà Bác sinh sống
không phải lầu son, nhà cao tầng như các vị chủ tịch nước khác, Bác sống trong ngơi nhà
sàn bình dị chan hịa với thiên nhiên, thưởng thức những món ăn dân gian như dưa cà, mắm

tép, cá kho.
14


Ở cương vị cao nhất của Đảng và Nhà nước nhưng khơng bao giờ Bác cũng địi hỏi
mình phải được hưởng đặc quyền, đặc lợi hơn người. Đặc biệt ở Bác ta thấy được đức Chính
trong việc đấu tranh khơng mệt mỏi chống lại cái ác, các xấu trong xã hội, trong mỗi con
người, chống lại những biểu hiện tiêu cực, nhất là căn bệnh tham ơ, lãng phí, quan liêu trong
bộ máy tổ chức của Đảng, Nhà nước để các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước thật sự trong
sạch, đại diện cho nhân dân, Hồ Chí Minh có thái độ rõ ràng, công minh trước công và tội
của từng cá nhân.
2.2.3. Thương u con người, sống có tình có nghĩa
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống
nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực
tiễn, Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu
thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội.
Tình yêu thương con người là tình cảm nhân ái sâu sắc, rộng lớn, trước hết dành cho
những người nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị áp bức, bị bóc lột
khơng phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng, nếu khơng có tình u thương như vậy thì
khơng thể nói đến cách mạng, càng khơng thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản.
Tình yêu thương con người, yêu đồng loại, yêu đồng bào, yêu đất nước là tư tưởng lớn,
là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh, Người viết: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn
tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Tình yêu thương con người trong Bác cịn là
tình u, sự sẻ chia nỗi đau với mỗi người. Người đau nỗi đau của một người từng trải và
chứng kiến nhiều đau thương mất mát, bao cảnh bất cơng, ngang trái mà đồng bào mình, đất
nước mình và dân tộc đồng cảnh ngộ phải gánh chịu.
Tình yêu thương con người theo Hồ Chí Minh phải xây dựng trên lập trường của giai

cấp công nhân, thể hiện trong các mối quan hệ bạn bè, đồng chí, anh em, phải thể hiện ở
hành động cụ thể thiết thực. Nó đòi hỏi mỗi người phải chặt chẽ và nghiêm khắc với mình;
rộng rãi, độ lượng và giàu lịng vị tha đối với người khác; phải có thái độ tơn trọng quyền
15


của con người, tạo điều kiện cho con người phát huy tài năng; nâng con người lên, kể cả
những người nhất thời lầm lạc, chứ không phải thái độ “dĩ hịa vi q”, khơng phải hạ thấp,
càng khơng phải vùi dập con người.
2.2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước trên thế giới, các
nước tư bản cũng như thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, đồng thời cũng thấy rõ cảnh sống xa hoa của bọn tư sản. Thực tế sinh
động đã giúp Người đồng cảm và nhận thức rõ: Nơi đâu cũng có người nghèo như ở xứ
mình, dù ở các nước thuộc địa hay chính quốc, họ đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ
nghĩa thực dân tàn ác. Người đi tới kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có
hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình
hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vơ sản” (Bài Đoàn kết giai cấp của Nguyễn Ái Quốc đăng
trên báo Le Paria số 25, tháng 5/1924).
Tinh thần quốc tế trong sáng trong tư tưởng Hồ Chí Minh được bắt nguồn từ bản chất
của giai cấp công nhân, nhằm vào mối quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi giới hạn quốc gia, dân
tộc. Hồ Chí Minh coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế
giới.
Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự
tơn trọng, hiểu biết, thương u và đồn kết với giai cấp vơ sản tồn thế giới, với các dân tộc
bị áp bức, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên toàn
cầu, chống lại mọi chia rẽ, thù hằn, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc; chống lại chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Nếu như tinh thần yêu
nước không chân chính sẽ dẫn đến những khuynh hướng lệch lạc, điều này tạo ra những ảnh
hưởng tiêu cực có thể phá vỡ cả một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc,

phá vỡ tình đồn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng
đối đầu đối địch.
Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, nhưng luôn luôn
kêu gọi phải tăng cường đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời phải ra sức ủng hộ và giúp
16


đỡ đối với các cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày cơng xây đắp tình đồn
kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc
tế mới: đối thoại thay cho đối đầu nhằm kiến tạo một nền văn hóa hịa bình cho nhân loại.
Trong Tun ngơn Độc lập (2/9/1945), Hồ Chí Minh đã viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra
có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…suy rộng
ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Người cũng nhấn mạnh, thắng lợi
cuối cùng nhất định sẽ thuộc về chúng ta, sẽ thuộc về chủ nghĩa xã hội nếu như tất cả các
nước anh em và các đảng anh em đoàn kết chặt chẽ với nhau.
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan
hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc. Không phải đối với bất cứ ai, vào bất cứ
lúc nào cũng thấy được tinh thần quốc tế có hay không, trong sáng hay không trong sáng,
nhưng việc giáo dục của Đảng và việc rèn luyện của cá nhân mỗi người về tinh thần quốc tế
lại không thể coi nhẹ.
2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng.
2.3.1. Nói đi đơi với làm, nêu gương về đạo đức
Nói đi đơi với làm là nguyên tắc đầu tiên trong ba nguyên tắc đạo đức cách mạng theo
quan niệm của Hồ Chí Minh: Nói thì phải làm, xây đi cùng với chống và tu dưỡng đạo đức
suốt đời. “Nói thì phải làm” là thể hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tư tưởng và
hành động, nhận thức và việc làm. Nói đi đôi với làm thể hiện bằng kết quả công việc. Kết

quả công việc là thước đo sự cống hiến của mỗi người. Nói đi đơi với làm cịn là biểu hiện
của sự gương mẫu, trung thực, trong sáng của cán bộ, đảng viên, công chức, nêu gương
trước nhân dân “một tấm gương sống cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên
truyền”. Theo Hồ Chí Minh, về bản chất, “nói đi đơi với làm” khơng chỉ là nguyên tắc đạo
đức, lẽ sống, phương châm hoạt động mà còn là biểu hiện sinh động cụ thể của việc quán
triệt sâu

17


sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa suy nghĩ và hành động, giữa tư
tưởng đạo đức và hành vi đạo đức của mỗi người.
Hồ Chí Minh quan niệm rằng không được hứa mà không làm. Lời hứa chỉ có giá trị khi
đi liền với việc làm cụ thể. "Làm" ở đây chính là hành động, là hoạt động thực tiễn, là tổ
chức thực hiện, đưa chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
vào cuộc sống, từ việc nhỏ đến việc lớn, mang ý nghĩa thiết thực. Ðối với Ðảng ta, Người
yêu cầu “Ðảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi
hành thế nào. Nếu khơng vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói sng mà
cịn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Ðảng”. Ðối với cán bộ, đảng viên “cần phải óc
nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ khơng phải chỉ nói sng, chỉ
ngồi viết mệnh lệnh… phải thật thà nhúng tay vào việc”.
Nói đi đơi với làm để hướng dẫn nhân dân làm theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn
dặn: “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Nói đi
đơi với làm phải gắn với nêu cao tinh thần trách nhiệm và chống chủ nghĩa cá nhân. Chỉ trên
cơ sở này, cán bộ, đảng viên mới thu phục được quần chúng, mới cảm hóa, lơi kéo họ tạo
thành phong trào thực tiễn rộng lớn để xây dựng, phát triển đất nước, thực hiện nghị quyết
của Ðảng.
Nói đi đơi với làm, khơng được “nói một đằng làm một nẻo”. Theo Hồ Chí Minh, lời nói
cần đi đơi với việc làm, nói được làm được, sẽ mang lại những hiệu quả lớn, được nhiều
người hưởng ứng và làm theo. Không được nói nhiều làm ít hoặc nói mà khơng làm. Nếu

chính mình tham ơ mà bảo người khác liêm khiết thì khơng được. Nếu nói rằng phải cần,
kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư, mà bản thân mình lại lười biếng, khơng hồn thành những
cơng việc được giao, ln tìm cách tham ô tiền của Nhà nước và nhân dân, khơng tiết kiệm,
sống hoang phí, xa hoa trong khi cuộc sống của đại đa số nhân dân còn nhiều thiếu thốn, thì
những lời nói đó sẽ khơng có tác dụng giáo dục.
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đơng.
Những tấm gương về đạo đức phải được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, có tấm
gương chung và riêng, lớn nhỏ, xa gần. Một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên một
nền rộng lớn, vững chắc, những phẩm chất chuẩn mực đạo đức đã trở thành hành vi đạo đức
18


hàng ngày phổ biến trong toàn xã hội mà những tấm gương đạo đức của những người tiêu
biểu, những người tốt việc tốt có ý nghĩa thúc đẩy cho quá trình đó.
Người xác định, nội dung nêu gương của cán bộ, đảng viên phải được thể hiện trên cả ba
mối quan hệ: Đối với mình, đối với người và đối với việc.
Đối với mình là khơng được tự cao, tự đại, tự mãn. Bởi tự cao, tự đại, tự mãn là căn
bệnh rất nguy hiểm. Nếu cán bộ, đảng viên mắc phải căn bệnh này thì dễ mù quáng, thiển
cận, ln đề cao cá nhân mình, coi thường quần chúng, nhất định sẽ thoái bộ, dừng lại.
Người nhấn mạnh: “Tự mãn, tự túc là co mình lại, khơng cho mình tiến bộ thêm”.
Đối với người phải yêu thương, khoan dung, độ lượng; phải ln có thái độ chân thành,
khiêm tốn, đoàn kết. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thực hiện tốt điều “Nhân”:
“Thật thà yêu thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại
những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân”.
Đối với việc phải tận tâm, tận lực, có trách nhiệm, gương mẫu phấn đấu hồn thành tốt
mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, cán bộ, đảng viên phải luôn giữ vững bản thân, đặt việc
công lên trên, lên trước việc tư. Người luôn giáo dục, nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải “chí
cơng vơ tư”, nghĩa là phải biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích của Tổ quốc, nhân dân và
của Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, muốn tiến hành tốt các nội dung nêu gương, thì cán bộ, đảng viên

phải ln thực hiện “nói đi đôi với làm” và phải biết lấy người tốt, việc tốt để tuyên truyền
cho sự nêu gương. Đây là vấn đề cực kì quan trọng, là nguyên tắc trước hết của sự nêu
gương. Bởi vì, chỉ có nhất qn giữa nói và làm thì người cán bộ, đảng viên mới giành được
lòng tin của quần chúng. Nếu người cán bộ, đảng viên nói nhiều làm ít, nói mà khơng làm,
hoặc “nói một đằng làm một nẻo”, thì nhất định sẽ mất uy tín trước đơn vị, trước cộng đồng,
và vai trị của sự nêu gương sẽ khơng thể phát huy được. Sự thống nhất giữa lời nói và việc
làm cịn là một yêu cầu khách quan của phẩm chất người cán bộ, đảng viên, nhất là trong
tình hình hiện nay.
Khơng chỉ nhắc nhở mà bản thân Người đã suốt đời khơng ngừng tự tu dưỡng, tự rèn
luyện mình về đạo đức để trở thành "tấm gương tuyệt vời về con người mới", thành hình ảnh
19


mẫu mực về "người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân", chẳng những
có sức lơi cuốn, cảm hóa mãnh liệt đối với tồn thể dân tộc mà cịn có ảnh hưởng sâu rộng
trên tồn thế giới. Nhiều lãnh tụ chính trị, học giả, nhà văn, nhà báo có tiếng đã viết về sức
cổ vũ kỳ diệu của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đối với nhân dân nước mình và chứng
minh rằng: do ngưỡng mộ một nhân cách vĩ đại như vậy, có biết bao lớp người trẻ tuổi đã
đứng vào hàng ngũ cộng sản, tình nguyện hiến dâng đời mình cho cuộc đấu tranh vì tự do
độc lập, vì tiến bộ xã hội và hạnh phúc của nhân dân.
2.3.2. Xây đi đôi với chống
Hồ Chí Minh cho rằng, ngun tắc xây đi đơi với chống là đòi hỏi của nền đạo đức mới,
thể hiện tính nhân đạo chiến đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng; xây tức là xây dựng
các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới; chống là chống các biểu hiện, các hành vi vơ đạo
đức, suy thối đạo đức.
Xây dựng đạo đức cách mạng, trước hết là tuyên truyền giáo dục các phẩm chất chuẩn
mực đạo đức cho mỗi người, trong từng gia đình, từng tập thể, cộng đồng. Xây dựng đạo
đức bằng việc khơi dậy ý thức tự nguyện vươn lên của con người tới chân, thiện, mỹ, từ đó
tạo ra năng lực tự trau dồi đạo đức trong mỗi con người, loại bỏ cái ác, xấu, vơ đạo đức.
Cùng với xây, nhiệm vụ chống có vị trí đặc biệt quan trọng để tạo mơi trường cho cái đẹp

nảy nở và phát triển.
Xây phải gắn liền với chống, trong xây có chống và ngược lại. Theo đó việc giáo dục,
rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở các cơ quan, đơn vị phải được
tiến hành thường xuyên, liên tục. Kết hợp chặt chẽ các biện pháp tuyên truyền, giáo dục với
biện pháp hành chính, xử lý kỷ luật nghiêm minh, tăng cường đấu tranh chống lại những
biểu hiện suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Giữa xây và chống khơng được tuyệt đối hóa mặt nào hoặc xem nhẹ mặt nào, trong khi
kết hợp chặt chẽ giữa hai yếu tố đó cần coi trọng, tăng cường cơng tác giáo dục, động viên,
thuyết phục. Xây đi đôi với chống yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần phải thường xuyên tự
soi mình, tự sửa, đánh giá đúng những ưu điểm, khuyết điểm của bản thân và tìm biện pháp
khắc phục, sửa chữa. Coi đó là cơng việc như “rửa mặt hàng ngày” để gột rửa, làm sạch
20



×