Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG CHỦ ĐỘNG TÍCH CỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.41 KB, 42 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC


PHÂN TÍCH TƢ TƢỞNG
CHỦ ĐỘNG TÍCH CỰC HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM


Nhóm 09: Đỗ Huy Phú
Lê Thị Bắc
Nguyễn Phƣơng Thảo

Giáo viên hƣớng dẫn: PGS. TS Kim Ngọc






Hà Nội, tháng 12 năm 2013



MỤC LỤC


BẢNG CHÚ GIẢI CHỮ VIẾT TẮT i
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết 1
2. Tình hình nghiên cứu 1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 4
6. Đóng góp của đề tài 4
7. Kết cấu chuyên đề 4
CHƢƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 5
1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế 5
1.2. Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế 5
1.3. Tính tất yếu khách quan hội nhập kinh tế quốc tế 7
CHƢƠNG 2: TƢ TƢỞNG CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA
VIỆT NAM 11
2.1 . Quá trình hình thành, phát triển chủ trƣơng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. 11
2.2. Những quan điểm cơ bản của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế 23
2.3 Thành tựu và hạn chế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 25
2.3.1. Thành tựu 25
2.3.2. Hạn chế và thách thức 30
CHƢƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC
TẾ 31
3.1 Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế-một yêu cầu khách quan. 31
3.2 Các giải pháp thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. 32
3.2.1 Nhóm giải pháp về điều chỉnh, kiện toàn chính sách và các biện pháp thực hiện chính
sách thƣơng mại 32
3.2.2 Nhóm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh 34
3.2.3 Nhóm giải pháp về đào tạo, nâng cao kiến thức hội nhập. 35
KẾT LUẬN 38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 39



i

BẢNG CHÚ GIẢI CHỮ VIẾT TẮT

STT
Chữ viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
1
AFTA
ASEAN Free Trade Area
Khu vực Mậu dịch Tự do
ASEAN
2
EEC
European Economic
Community
Cộng đồng Kinh tế châu Âu
3
EU
European Union
Liên minh châu Âu
4
EFTA
European Free Trade
Association
Hiệp hội Mậu dịch tự do châu
Âu

5
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
6
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm Quốc nội
7
IMF
International Monetary
Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
8
NAFTA
North American Free Trade
Agreement
Hiệp định Thƣơng mại tự do
Bắc Hoa Kỳ
9
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới


1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết

Toàn cầu hoá là sự hội nhập toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, là xu thế phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy luật của xã hội loài ngƣời. Sự
hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế
chính trị của các nƣớc nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vƣợt
bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trƣởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có
nhiều sự thay đổi. Đối với Việt Nam, việc “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế” trong bối cảnh toàn cầu hóa là điều cần thiết, đảm bảo cho việc nắm bắt và
tận dụng những cơ hội mới. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà
là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng nhƣ
sau này. Vì thế, nhóm em xin chọn đề tài “Phân tích tƣ tƣởng chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”. Đây là đề tài rất sâu rộng, mang tính thời sự cao,
kính mong thầy và các bạn giúp đỡ nhóm em hoàn thành bài viết tốt hơn.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan tới đề tài ở trong nƣớc và ngoài nƣớc đã có nhiều công trình nghiên
cứu. Tiêu biểu một số công trình sau:
 Thomas L. Friedman (2005), Thế giới phẳng, Nxb Trẻ, Hà Nội
Thomas L. Friedman đã phân tích một cách độc đáo, với lập luận trung tâm về
quá trình “trở nên phẳng” của thế giới. Friedman đã mô tả quá trình giác ngộ của bản
thân khi ông chạm trán với Thế Giới Phẳng, tác giả cố gắng kiến giải sự vận động
phức tạp của chính trị-kinh tế thế giới đƣơng đại một cách dễ hiểu và có tính thuyết
phục. Friedman một mặt nêu bật những tác động của Thế Giới Phẳng đối với các quốc
gia, các công ty, những cộng đồng dân cƣ và đặc biệt là đối với những cá nhân; mặt
khác, ông cũng chỉ rõ các nhà nƣớc, xã hội và cả thế giới có thể và cần phải thích nghi
với “chủ nghĩa phẳng” nhƣ thế nào để tồn tại và phát triển. Theo tác giả, điều quan
trọng là cần tự suy ngẫm để biết đƣợc vị trí của mình ở đâu trong tƣơng quan với các
chủ thể khác trên thế giới hiện nay. Các nƣớc đều phải tiến hành đổi mới và hội nhập
để khai thác hết thuận lợi và hạn chế tối đa khó khăn do Thế Giới Phẳng gây ra, nếu
không muốn bị đẩy ra khỏi “đƣờng ray của con tàu phát triển”.
 TS. Phƣơng Kỳ Sơn (2005), “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong
xu thế toàn cầu hóa hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 12, tr 11-16

2

Tác giả đã phân tích khẳng định toàn cầu hóa, trƣớc hết là toàn cầu hóa kinh tế,
là một xu thế khách quan mà mọi quốc gia, dân tộc đều không thể chống lại hay quay
lƣng lại với nó. Phân tích những cơ hội, thách thức mà toàn cầu hóa mang lại. Trên cơ
sở đó, tác giả đã chỉ ra những phƣơng hƣớng cho việc “chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế” của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
 TS. Nguyễn Thanh (2007), “Vấn đề chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 8,
tr 20-25
Tác giả đã phân tích và khẳng định tính đúng đắn trong quan điểm của Đảng ta
về chủ trƣơng chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu
hóa kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan và nhất là khi Việt Nam đã trở thành
thành viên chính thức của Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO). Trên cơ sở đó, tác giả
đã khẳng định; để thực hiện thắng lợi chủ trƣơng này, một mặt chúng ta cần phải chủ
động tích cực hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu
vực và song phƣơng; đồng thời thực hiện hội nhập có trọng điểm, theo lộ trình phù
hợp với chiến lƣợc phát triển đất nƣớc.
 Steve Parker (2005), Vietnam’s road to international economic integration,
Development Alternatives, Inc.
Bài viết đã đánh giá những nỗ lực của Việt Nam, Việt Nam coi hội nhập kinh tế
thế giới là một yếu tố quan trọng của chiến lƣợc phát triển kinh tế rộng lớn hơn và quá
trình chuyển đổi sang nền kinh tế định hƣớng thị trƣờng của Việt Nam. Bài viết cũng
so sánh những kinh nghiệm mà Việt Nam đã trải qua trong lĩnh vực này so với quá
trình chuyển đổi khác, các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa khác và nền kinh tế của những
„con hổ châu Á‟. Trên cơ sở đó, tác giả nhận thấy Việt Nam đang tăng tốc trên con
đƣờng hội nhập kinh tế quốc tế. Hiệp định thƣơng mại đã chứng minh là một xúc tác
quan trọng cho sự phát triển của các tổ chức, luật pháp và các chính sách hỗ trợ kinh tế
thị trƣờng ngày càng hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đƣờng lối của Việt nam có
nhiều điểm tƣơng đồng với phƣơng pháp tiếp cận thực hiện bởi các nƣớc láng giềng

Đông Á từ 10 đến 20 năm trƣớc đó, nhƣng cũng có một số khác biệt quan trọng. Chính
phủ Việt Nam dƣới sự lãnh đạo của Đảng nên tiếp tục thực hiện những cải cách nhằm
định hƣớng nền kinh tế thị trƣờng, giúp đất nƣớc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới.
 Uwe Schimidt(2004), Vietnam’s integration into the global economy. Achievements
and challenges, Asia Europe Journal, pp 63-83
3

Tác giả đã đƣa ra những thách thức chính trị, kinh tế và thể chế mà Việt Nam
phải đối mặt khi hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Các vấn đề đƣợc đƣa ra không chỉ
về cắt giảm thuế quan, bãi bỏ hạn ngạch, chế độ đầu tƣ mà còn cả sự từ bỏ dần của các
công ty nƣớc ngoài độc quyền thƣơng mại. Việt Nam đã đạt đƣợc nhiều thành tựu
nhƣng những khó khăn vẫn đặt ra trƣớc mắt. Tác giả nhận định Việt Nam cần phải
phát triển một chiến lƣợc đa chiều cho việc mở rộng thƣơng mại đề phù hợp với môi
trƣờng kinh tế vĩ mô hiện nay, cải cách thể chế và cải tiến hệ thống pháp luật rất quan
trọng. Việt Nam cần xây dựng năng lực con ngƣời, cơ sở hạ tầng phù hợp với thu hút
FDI và mở rộng xuất khẩu.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đây đã đề cập tới chủ đề “chủ động, tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế” ở những góc độ nhất định. Tuy nhiên đến nay ở Việt
Nam đặc biệt trong giai đoạn hội nhập sâu rộng quốc tế hiện nay chƣa có một công
trình nào nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn về tƣ tƣởng chủ
động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tể của Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục đích nghiên cứu
Chuyên đề đƣợc tiến hành nghiên cứu nhằm mục đích phân tích tƣ tƣởng chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, từ đó mở ra các giải pháp chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế cho Việt Nam.
 Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt đƣợc những mục tiêu đề ra, chuyên đề cần phải
làm rõ ba vấn đề:
- Khái quát lý thuyết chung về hội nhập kinh tế quốc tế

- Tìm hiểu tƣ tƣởng chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
- Từ đó, rút ra các giải pháp chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế cho Việt
Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối với chuyên đề này, đối tƣợng nghiên cứu là tƣ tƣởng chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam.
 Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Tƣ tƣởng chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là
một chủ đề rộng lớn, chuyên đề phân tích chủ yếu tƣ tƣởng chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam qua các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI.
4

Thời gian: Chuyên đề phân tích tƣ tƣởng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từ
năm 1986 đến nay (cần nói rõ tại sao chọn mốc thời gian này)
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chuyên đề đƣợc sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu gồm: phƣơng pháp duy
vật biện chứng, phƣơng pháp duy vật lịch sử, phƣơng pháp phân tích tổng hợp để phân
tích làm rõ tƣ tƣởng chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế. Thông
qua nghiên cứu tƣ tƣởng chủ động tích cực hôi nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 trở
lại đây và phân tích làm rõ thực trạng của việc thực hiện tƣ tƣởng đối với các vấn đề
kinh tế, xã hội và chính trị của các quốc gia. Từ đó, đƣa ra các giải pháp chủ động, tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế cho Việt Nam.
7. Kết cấu chuyên đề
Ngoài lời mở đầu, kết luận, chuyên đề đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những lý luận cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế.
Chƣơng 2: Tƣ tƣởng chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Chƣơng 3: Những giải pháp chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế


5

CHƢƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới, là
việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh tế đã diễn
ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mô toàn cầu đã diễn ra từ cách
đây hai nghìn năm khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới và mở mang mạng lƣới giao
thông, thúc đẩy lƣu thông hàng hóa trong toàn bộ lãnh địa chiếm đóng rộng lớn của họ
và áp đặt đồng tiền của họ cho toàn bộ các nơi.
Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính
thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Khái niệm này đƣợc Béla Balassa đề xuất từ
thập niên 1960 và đƣợc chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và lập chính sách. Nói
rõ hơn, hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một mặt,
gắn nền kinh tế và thị trƣờng từng nƣớc với thị trƣờng khu vực và thế giới thông qua
các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác,
gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu. Ở Việt Nam,
thuật ngữ „hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu đƣợc sử dụng từ khoảng giữa thập niên
1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác.
Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta cần xác định một cách tiếp cận phù
hợp đối với khái niệm “hội nhập kinh tế quốc tế” để làm nền tảng xây dựng chiến lƣợc
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Tóm lại, hội nhập kinh tế
quốc tế là sự tham gia vào phân công lao động quốc tế, là sự gắn kết nền kinh tế quốc
gia với nền kinh tế thế giới, với các định chế tài chính quốc tế, trong đó các nước cùng
nhau thực hiện dưới các quy định chung trong quá trình hợp tác giữa các nước với
nhau.
Thực chất của hội nhập kinh tế quốc tế nhằm xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa
các quốc gia với nhau trong quan hệ kinh tế quốc tế, xóa bỏ các rào cản trong thƣơng

mại quốc tế bao gồm rào cản thuế quan và phi thuế quan.
Hội nhập kinh tế quốc tế đƣợc chia làm ba cấp độ:
- Hội nhập đơn phƣơng: là việc các quốc gia thực hiện cải cách kinh tế, chính trị
ở trong nƣớc cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Hội nhập song phƣơng: là việc ký kết các hiệp định giữa hai nƣớc với nhau.
- Hội nhập đa phƣơng: là việc hội nhập với khu vực và hội nhập toàn cầu.
1.2. Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế
6

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nƣớc với
kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo
những hình thức khác nhau, từ đơn phƣơng đến song phƣơng, tiểu khu vực/vùng, khu
vực, liên khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ.
Theo một số nhà kinh tế, tiến trình hội nhập kinh tế đƣợc chia thành năm mô hình cơ
bản từ thấp đến cao nhƣ sau:
(i) Khu vực mậu dịch tự do (FTA): Các nƣớc cùng nhau thỏa thuận giảm hoặc
xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với một hoặc một số nhóm mặt hàng
nào đó khi buôn bán với nhau, để từ đó tiến tới hình thành một thị trƣờng thống nhất
về hàng hóa đó. Các nƣớc thuộc khu vực mậu dịch tự do vẫn có quyền độc lập tự chủ
trong việc thi hành chính sách thƣơng mại với các nƣớc khác ngoài khu vực này. Ví
dụ: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu (EFTA), Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
(NAFTA), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Những năm gần đây, phần lớn
các hiệp định FTA mới có phạm vi lĩnh vực điều tiết rộng hơn nhiều. Ngoài lĩnh vực
hàng hóa, các hiệp định này còn có những quy định tự do hóa đối với nhiều lĩnh vực
khác nhƣ dịch vụ, đầu tƣ, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ… Ví dụ: Hiệp định FTA
giữa ASEAN với Úc-Niudilân (2009), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình dƣơng
(TPP- đang đàm phán).
(ii) Liên minh thuế quan (CU): Các nƣớc thành viên không chỉ giảm hàng rào
thuế quan và phi thuế quan mà còn cùng nhau thiết lập một biểu thuế quan chung áp
dụng cho tất cả các nƣớc thành viên khi buôn bán với các nƣớc ngoài khối. Đồng thời,

các nƣớc cũng thỏa thuận hoạch định chính sách ngoại thƣơng thống nhất khi quan hệ
mậu dịch với các nƣớc ngoài khối. Nhƣ vậy, các nƣớc trong liên minh thuế quan sẽ
không có quyền độc lập tự chủ trong quan hệ mậu dịch với các nƣớc ngoài khối. Ví
dụ: Liên minh thuế quan Nga-Bêlarút-Cadăcxtan.
(iii) Thị trường chung: Ngoài những cam kết nhƣ trong liên minh thuế quan, các
nƣớc thành viên của thị trƣờng chung còn phải cam kết giảm bớt và từng bƣớc xoá bỏ
các trở ngại đối với sự chuyển động của các luồng vốn, hàng hóa, dịch vụ và lao động.
Ví dụ: Liên minh châu Âu đã trải qua giai đoạn xây dựng thị trƣờng duy nhất (Thị
trƣờng chung châu Âu) trƣớc khi trở thành một liên minh kinh tế.
(iv) Liên minh tiền tệ: Ngoài những thỏa thuận nhƣ đối với thị trƣờng chung , các
nƣớc sẽ ấn định một tỷ giá hối đoái cố định trong một thời gian dài giữa các nƣớc
trong liên minh với nhau. Đồng thời, liên minh cũng thành lập ra một cơ quan duy nhất
có trách nhiệm quản lý tiền tệ nói chung (một liên minh tiền tệ không cần phải có một
đồng tiền chung). Khi đã ấn định tỷ giá hối đoái cố định, muốn quản lý tốt, các nƣớc
7

sẽ phải ấn định mức lãi suất trong nƣớc để cân đối với lãi suất bên ngoài. Liên minh
tiền tệ là cách tốt nhất để phá vỡ những hàng rào hiện vẫn đang chia cắt thị trƣờng của
các quốc gia thành viên. Đồng thời, giúp cho các nƣớc khi buôn bán với nhau không
phải lo đến những rủi ro do thay đổi tỷ giá gây ra, loại bỏ đƣợc hiện tƣợng đầu cơ tiền
tệ và hàng hóa giữa các nƣớc thành viên. Ví dụ: EU hiện nay.
(v) Liên minh kinh tế: Ngoài những thỏa thuận nhƣ trong liên minh tiền tệ, các
nƣớc thành viên còn phải cùng nhau thỏa thuận về các vấn đề sau: cùng nhau xây dựng
một chính sách phát triển kinh tế chung cho toàn liên minh; xây dựng một chính sách
đối ngoại chung; hình thành một đồng tiền chung thống nhất; quy định chính sách lƣu
thông tiền tệ thống nhất cho toàn liên minh; xây dựng một ngân hàng chung thay thế
cho ngân hàng của các nƣớc thành viên; xây dựng một chính sách quan hệ tài chính
đối ngoại chung.
Hội nhập kinh tế là nền tảng hết sức quan trọng cho sự tồn tại bền vững của hội
nhập trong các lĩnh vực khác, đặc biệt là hội nhập về chính trị và nhìn chung, đƣợc các

nƣớc ƣu tiên thúc đẩy giống nhƣ một đòn bẩy cho hợp tác và phát triển trong bối cảnh
toàn cầu hóa.
1.3. Tính tất yếu khách quan hội nhập kinh tế quốc tế
Trong những điều kiện phát triển mới của lực lƣợng sản xuất, của phân công
lao động xã hội, của cơ chế kinh tế thị trƣờng… quá trình toàn cầu hóa kinh tế là một
tất yếu khách quan, nó có tác động đối với hầu hết các nƣớc trên Thế giới dù ở mức độ
này hay mức độ khác. Hội nhập kinh tế quốc tế đƣợc xem nhƣ một trong những yếu tố
quan trọng để tạo động lực phát triển cho từng quốc gia, khu vực và của cộng đồng
quốc tế. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế xuất phát từ một số cơ sở khách quan sau:
Thứ nhất, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của
cách mạng khoa học và công nghệ.
Chúng ta biết rằng, trong xã hội phong kiến do lực lƣợng sản xuất và giao thông
kém phát triển cho nên sản xuất và trao đổi chỉ đƣợc thực hiện trong một phạm vi quy
mô nhỏ. Tính tự cung tự cấp là đặc trƣng chủ yếu của phƣơng thức sản xuất phong
kiến. Tuy vậy, trong thời đại phong kiến cũng đã có thông thƣơng vƣợt biên giới quốc
gia nhƣng chƣa tạo ra những quan hệ phụ thuộc trong phát triển, chƣa có thị trƣờng thế
giới theo nghĩa hiện đại. Khi nghiên cứu Chủ nghĩa tƣ bản, Mác và Ănghen đã cho
rằng, do sự phát triển của lực lƣợng sản xuất đã dẫn đến sự phân công lao động sản
xuất quốc tế, làm cho quá trình sản xuất và tiêu thụ mang tính quốc tế, gắn bó phụ
thuộc vào nhau. Mác và Ănghen viết: “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trƣờng Thế giới
thay cho tình trạng cô lập trƣớc kia của các địa phƣơng và dân tộc vẫn tự cung, tự cấp,
8

ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc.
Nhƣ vậy, quốc tế hóa nói chung và hợp tác kinh tế quốc tế nói riêng có cơ sở chính từ
sự phát triển của sản xuất, nó ra đời gắn liền với sự hình thành của thị trƣờng quốc tế.
Trong những thế kỉ trƣớc, chính do lực lƣợng sản xuất phát triển đã làm cho thƣơng
mại và đầu tƣ có tính quốc tế, kéo theo đó là quá trình di dân, lao động và giao dịch tài
chính phát triển mạnh mẽ vƣợt biên giới quốc gia.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, gắn liền với sự phát triển của phong trào

giải phóng dân tộc là hiện tƣợng khoa học_ công nghệ phát triển mạnh mẽ và ngày
càng trở thành lực lƣợng sản xuất trực tiếp. Các phát kiến về khoa học nhanh chóng
đƣợc áp dụng vào sản xuất đã thúc đẩy phân công lao động phát triển lên một bƣớc
mới. Trên thực tế quan hệ giữa khoa học, công nghệ và sản xuất ngày càng gắn bó chặt
chẽ với nhau. Trong thế kỉ XIX, thời gian đƣa phát minh khoa học vào ứng dụng trong
sản xuất phải mất từ 60- 70 năm, trong thập niên 90 khoảng 3- 5 năm. Do sự tác động
của các thành tựu khoa học và sự xoá bỏ của hệ thống thuộc địa và phụ thuộc, sản xuất
có sự phát triển mạnh mẽ dựa trên sự phân công lao động quốc tế mới đã làm gia tăng
đáng kể các hoạt động kinh tế quốc tế, thúc đẩy gia tăng xu thế quốc tế hoá các hoạt
động kinh tế.
Dƣới sự tác động của khoa học - công nghệ, các ngành kinh tế truyền thống dần
dần nhƣờng bƣớc cho các ngành đại diện cho tiến bộ khoa học công nghệ. Sự tăng
trƣởng của nền kinh tế từ dựa chủ yếu vào nguyên vật liệu và lao động đang chuyển
sang dựa chủ yếu vào tri thức. Tri thức trở thành động lực chính của sự tăng trƣởng và
phát triển kinh tế. Thực tiễn phát triển của nền kinh tế thế giới đang cho thấy bƣớc
chuyển, bƣớc quá độ từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Sự phát triển
của lĩnh vực kinh tế tri thức dựa trên các công nghệ có hàm lƣợng khoa học - kỹ thuật
cao, nhất là công nghệ thông tin đã mở ra điều kiện thuận lợi cho sự đẩy mạnh xu thế
toàn cầu hóa. Với các công nghệ mới làm tăng tốc độ giao dịch kinh doanh, rút ngắn
khoảng cách về không gian và thời gian. Các công việc giao dịch hiện nay phần nhiều
đƣợc thực hiện qua mạng với các máy vi tính xách tay. Hệ thống mạng Internet quốc
tế hình thành cho phép con ngƣời có thể biết đƣợc hầu nhƣ mọi diễn biến của đời sống
kinh tế - xã hội trên thế giới trong giây lát. Và chính điều nay sẽ góp phần nâng cao
trình độ dân trí, tạo điều kiện cho dân chủ, phát triển, thúc đẩy nhu cầu mở cửa, giao
lƣu hội nhập.
Tóm lại, cuộc Cách mạng khoa học - công nghệ đã làm cho phân công lao động
và chuyên môn hoá sản xuất diễn ra trên phạm vi thế giới ngày càng sâu sắc, làm phá
vớ hàng rào ngăn cách địa giới trong giao dịch của con ngƣời trên tất cả các mặt giữa
9


các quốc gia. Các quốc gia dù muốn hay không đều chịu tác động của quá trình toàn
cầu hóa và đƣơng nhiên để tồn tại, phát triển trong điều kiện ngày nay không thể
không tham gia quá trình toàn cầu hóa, tức phải hội nhập quốc tế. Hiện nay, hợp tác và
cạnh tranh là hai mặt của nền kinh tế thế giới, các quốc gia phát triển trong mối liên hệ
phụ thuộc lẫn nhau, phải vừa hợp tác, vừa cạnh tranh để cùng tồn tại và phát triển.
Thứ hai, xu hướng chuyển sang kinh tế thị trường
Sau khi giành đƣợc độc lập về chính trị, phần lớn các nƣớc đang phát triển đã đi
theo hƣớng kinh tế thị trƣờng. Các nƣớc theo mô hình kinh tế kế hoạch đã đi theo con
đƣờng kinh tế thị trƣờng. Những thay đổi trong thể chế kinh tế các nƣớc phát triển
khiến thể chế kinh tế thị trƣờng thích ứng nhu cầu thời đại thông tin và thời đại kinh tế
tri thức. Những thay đổi ấy thể hiện cả trên thể chế kinh tế vĩ mô và thể chế kinh tế vi
mô. Mức độ ảo hóa kinh tế tăng lên tất sẽ đặt ra yêu cầu đổi mới đối với quản lý kinh
tế, tất sẽ dẫn tới những đổi mới về thể chế. Thể chế kinh tế thị trƣờng đang và sẽ là xu
hƣớng nổi bật, có tính toàn cầu và có tác động to lớn tới sự phát triển kinh tế của các
quốc gia trên thế giới.Trƣớc hết là các thị trƣờng quốc gia sẽ ngày càng đƣợc mở rộng,
khai thông, hội nhập khu vực và toàn cầu, do vậy thị trƣờng khu vực và thế giới sẽ
đƣợc mở rộng trên mọi lĩnh vực; thứ hai là tạo ra một động lực to lớn thúc đẩy tăng
trƣởng kinh tế, bởi điều kiện tiên quyết cho tăng trƣởng cao đó chính là cơ chế thị
trƣờng mở cửa; thứ ba là, cơ chế thị trƣờng của mỗi quốc gia chịu sự tác động mạnh
của cơ chế thị trƣờng của các quốc gia hùng mạnh, của khu vực và trên thế giới. Quốc
gia nào mở cửa và hội nhập quốc tế càng sâu rộng, thì tác động của cơ chế thị trƣờng
của các cƣờng quốc, của khu vực và thế giới tới cơ chế thị trƣờng của quốc gia đó
cũng càng mạnh và làm cho sức mạnh của cơ chế thị trƣờng quốc gia cũng tăng lên;
thứ tƣ là khi thị trƣờng thế giới đƣợc mở rộng, xu hƣớng tự do hóa thƣơng mại và đầu
tƣ phát triển, cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới cũng sẽ phát triển mạnh mẽ.
Những tác động trên cho thấy tƣơng lai một nền kinh tế thị trƣờng toàn cầu sẽ hình
thành và phát triển.
Thứ ba, vai trò chủ thể của các công ty xuyên quốc gia (TNCs)
Tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới đƣợc tăng cƣờng trong vai trò ngày
càng lớn của các TNC. Các TNC thực hiện chiến lƣợc kinh doanh toàn cầu với ƣu thế

to lớn là các TNC có khả năng tiến hành hợp lý hơn việc phân bổ các nguồn lực trên
phạm vi toàn cầu, thực hiện quản lý kinh doanh khoa học cao độ, từ đó giảm ở mức tối
đa giá thành sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Quy mô kinh
doanh, mức đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, lĩnh vực hoạt động của các TNC đều không
ngừng mở rộng, trình độ “quốc tế hóa” (tỷ trọng tài sản, mức tiêu thụ…ở nƣớc ngoài
10

trong toàn bộ tài sản) tăng lên. Những năm cuối cùng của thế kỷ 20, các TNC đang bắt
đầu hình thành các liên minh chiến lƣợc kiểu mới. Đứng trƣớc sức ép cạnh tranh, làn
sóng tự do hóa và mở ngỏ các lĩnh vực đầu tƣ mới, càng nhiều xí nghiệp kể cả xí
nghiệp của các nƣớc đang phát triển, áp dụng nhiều biện pháp tham dự vào hoạt động
toàn cầu hóa kinh tế, thông qua nhiều hình thức để kết thành liên minh, nhƣ thông qua
việc sáp nhập, thôn tính và mua lại để thiết lập ở nƣớc ngoài các cơ sở sản xuất của
mình. Phân công lao động quốc tế hiện nay rất phát triển, trên thực tế là biểu hiện của
phân công bên trong các TNC. Hoạt động kinh tế quốc tế đƣơng đại về cơ bản là do
các TNC tiến hành. Mỗi công ty xuyên quốc gia cỡ lớn đều tạo ra một mạng lƣới kinh
doanh lấy công ty mẹ làm trung tâm, mở rộng toàn cầu. Hàng trăm, hàng ngàn mạng
lƣới nhƣ vậy đan lại thành mạng lƣới kinh tế toàn cầu khổng lồ, bao trùm tất cả, phủ
lên tất cả các khu vực, các nƣớc khắp toàn cầu.
Thứ tư, sự phát triển không đồng đều trong nền kinh tế thế giới
Do những nguyên tố đặc thù về mặt địa lí, về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội,
sự phát triển kinh tế của mỗi nƣớc trên thế giới khác nhau: có nƣớc phát triển, có nƣớc
chậm phát triển. Song mỗi nƣớc đều có những lợi thế so sánh của riêng mình, để có
thể phát huy hết lợi thế so sánh đó, các nƣớc phải tham gia mạnh mẽ vào phân công
lao động quốc tế, đẩy mạnh chuyên môn hóa sản xuất. Đó là cơ sở, tiền đề cho sự ra
đời hội nhập kinh tế quốc tế.












11

CHƢƠNG 2: TƢ TƢỞNG CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

Nhận thức đƣợc xu thế khách quan của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, đặc
biệt sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã (năm 1991) trong hơn 20 năm qua, Đảng và
Nhà nƣớc đã nhất quán trong việc thực hiện phƣơng châm hội nhập kinh tế quốc tế với mức
độ ngày càng sâu hơn và chủ động hơn. Để hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả và
chủ động, Đảng và Nhà nƣớc đã thực hiện nhiều biện pháp từ chính trị, ngoại giao, kinh tế,
kết hợp đàm phán thƣơng mại để gia nhập các tổ chức thƣơng mại khu vực và quốc tế với
cải cách trong nƣớc
2.1 . Quá trình hình thành, phát triển chủ trƣơng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam.
Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng cũng nhƣ tính cấp
thiết của việc mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm đƣa sự nghiệp phát triển đất nƣớc hoà
vào trào lƣu phát triển chung của thế giới. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng
ta luôn chú trọng việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, coi đây là
một trong những nguyên tắc cơ bản trong đƣờng lối quốc tế của mình. Cũng chính vì
vậy, sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trải
qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã luôn giành đƣợc sự đồng tình, ủng hộ, sự giúp đỡ
rộng rãi của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Tƣ tƣởng mở cửa đối ngoại, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới của Đảng

đã đƣợc thể hiện rõ nét trong các văn kiện ngoại giao đầu tiên của nƣớc Việt Nam Dân
chủ cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Thƣ gửi Tổng Thƣ ký Liên hợp quốc
(12/1946), đã long trọng tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và
hợp tác trong mọi lĩnh vực”. Đồng thời, Ngƣời khẳng định: “Việt Nam dành sự tiếp
nhận thuận lợi cho đầu tƣ của các nhà tƣ bản, nhà kỹ thuật nƣớc ngoài trong tất cả các
ngành kỹ nghệ của mình; sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đƣờng xá giao thông
cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế
quốc tế dƣới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”. Đây là những tƣ tƣởng quan trọng đặt cơ
sở cho sự hình thành chủ trƣơng, đƣờng lối hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội
nhập quốc tế nói chung của nƣớc ta sau này. Song, trong hoàn cảnh của cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc, Việt Nam đã không thể thực hiện một cách đầy đủ công cuộc hội
nhập quốc tế theo những tƣ tƣởng nêu trên.
12

Sau khi thống nhất đất nƣớc, Đại hội IV của Đảng ta (1976) đã nhấn mạnh vai
trò quan trọng của kinh tế đối ngoại trong chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội. Đại
hội khẳng định phải kết hợp phát triển kinh tế trong nƣớc với mở rộng quan hệ kinh tế
với nƣớc ngoài. Theo đó, Việt Nam đã tích cực phát triển quan hệ và tham gia vào
các cơ chế hợp tác của các nƣớc xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong khuôn khổ Hội
đồng Tƣơng trợ kinh tế. Sự phát triển quan hệ hợp tác kinh tế với các nƣớc XHCN
mặc dù còn mang nặng tính bao cấp nhƣng đã góp phần rất quan trọng đối với công
cuộc xây dựng kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, Việt Nam cũng từng
bƣớc cải thiện quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều nƣớc tƣ bản chủ nghĩa (TBCN) dựa
trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Tuy nhiên, quá trình hợp tác quốc tế của Việt
Nam trong thời kỳ chiến tranh lạnh do chịu sự chi phối của cuộc đối đầu Đông - Tây,
đặc biệt là nhân tố ý thức hệ tƣ tƣởng, nên còn những hạn chế nhất định, chƣa đạt tới
hiệu quả nhƣ mong muốn.
Bƣớc vào thời kỳ đổi mới, đứng trƣớc yêu cầu cấp bách phải nhanh chóng vƣợt
ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, phá thế bao vây cấm vận của chủ nghĩa đế
quốc (CNĐQ) và các thế lực thù địch, đƣờng lối mở rộng quan hệ đối ngoại và hội

nhập quốc tế, trƣớc hết trong lĩnh vực kinh tế ngày càng đƣợc bổ sung, hoàn thiện,
đồng thời đƣợc thực hiện tích cực hơn.
Đại hội VI của Đảng (1986) mở ra bƣớc ngoặt trong tƣ duy và thực tiễn hội
nhập quốc tế của Đảng, Nhà nƣớc ta. Đại hội chỉ rõ: “Muốn kết hợp sức mạnh của dân
tộc với sức mạnh của thời đại, nƣớc ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế;
trƣớc hết và chủ yếu là với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các nƣớc khác trong cộng
đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ
thuật với các nƣớc thế giới thứ ba, các nƣớc công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc
tế và tƣ nhân nƣớc ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi”. Nghị quyết Đại hội
cũng xác định nội dung chính của chính sách kinh tế đối ngoại trƣớc hết bao gồm: đẩy
mạnh xuất nhập khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn, khuyến khích đầu tƣ trực
tiếp của nƣớc ngoài Theo hƣớng này, Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc thông qua
(1987), tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi để mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, phục vụ
phát triển kinh tế, khai thác những tiềm năng nội lực của đất nƣớc.
Đại hội VII của Đảng (1991) tuyên bố đƣờng lối đối ngoại rộng mở: “Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nƣớc trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển”, mở ra bƣớc đột phá trong quá trình hội nhập quốc tế. Đại hội xác
định nguyên tắc cơ bản trong hội nhập kinh tế quốc tế là: “mở rộng, đa dạng hoá và đa
13

phƣơng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền,
bình đẳng, cùng có lợi”.
Chủ trƣơng hội nhập quốc tế trƣớc hết về kinh tế của Đảng tiếp tục đƣợc Ban
Chấp hành Trung ƣơng và Bộ Chính trị bổ sung, làm rõ và cụ thể hơn. Nghị quyết của
Hội nghị Trung ƣơng Ba (khoá VII) ngày 29/6/1992 nhấn mạnh chủ trƣơng mở rộng
quan hệ với các tổ chức quốc tế, trong đó “cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức
tài chính, tiền tệ quốc tế nhƣ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB),
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu
vực, trƣớc hết ở châu Á - Thái Bình Dƣơng”. Bộ Chính trị ban hành Quyết định số
1005 CV/VPTW (22/11/1994) giao cho Chính phủ soạn thảo và gửi đơn xin gia nhập

WTO. Theo Quyết định của Bộ Chính trị (số 493 CV/VPTW ngày 14/6/1996), Việt
Nam đã gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn APEC.
Đại hội VIII của Đảng (1996) trong khi nêu rõ đƣờng lối đối ngoại: “Việt Nam
muốn là bạn của tất cả các nƣớc trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển” đã đƣa ra chủ trƣơng “xây dựng nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Đại hội nhấn mạnh phải mở rộng quan hệ
quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phƣơng và đa phƣơng với các nƣớc, các tổ chức quốc
tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. Tiếp đó,
Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 01/NQ-TƢ (18/11/1996,) “Về mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại 5 năm 1996 - 2000”, xác định nhiệm vụ, phƣơng hƣớng, giải
pháp, cơ chế, chính sách chủ yếu để phát triển kinh tế đối ngoại.
Bƣớc vào thế kỷ mới, Đại hội IX của Đảng khẳng định: "Thực hiện nhất quán
đƣờng lối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa phƣơng hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc
tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nƣớc trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển". Đại hội xác định độc lập tự chủ là cơ sở
để thực hiện đƣờng lối đối ngoại rộng mở, đa phƣơng hoá, đa dạng hoá, đồng thời
nhấn mạnh Việt Nam, không chỉ "sẵn sàng là bạn" mà còn sẵn sàng “là đối tác tin cậy
của các nƣớc" và "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Đây là sự phản ánh một nấc
thang cao hơn trong nhận thức và tƣ duy về đối ngoại nói chung và về hội nhập quốc
tế nói riêng của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Từ việc phân tích và nhận thức về các xu
thế phát triển trong quan hệ quốc tế hiện nay, trong đó đặc biệt chú trọng đến xu thế đa
dạng hóa, đa phƣơng hóa, hội nhập khu vực và quốc tế, Đại hội nhấn mạnh quan điểm
độc lập, tự chủ và chủ động trong hội nhập có ý nghĩa rất quan trọng. Trong chủ
14

trƣơng tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập khu vực và thế
giới, Đảng ta chỉ rõ: cần phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để
phát triển đất nƣớc; mở rộng quan hệ với các nƣớc nhƣng không để nền kinh tế Việt

Nam bị lệ thuộc, bị chi phối từ bên ngoài. Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho
hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều
kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ. Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ,
trƣớc hết là độc lập tự chủ về đƣờng lối phát triển theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa;
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ,
cơ sở vật chất – kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh
tranh; có thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định
kinh tế vĩ mô; bảo đảm nền kinh tế đủ sức đứng vững và ứng phó đƣợc với các tình
huống phức tạp, tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các cam kết hội nhập quốc tế.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển trên
nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hƣớng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc
gia và bản sắc văn hoá dân tộc; bình đẳng cùng có lợi, vừa hợp tác vừa đấu tranh; đa
phƣơng hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại; đề cao cảnh giác trƣớc mọi âm
mƣu phá hoại của các thế lực thù địch. Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả, không ngừng tăng năng
lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ. Nâng cao hiệu quả hợp tác với bên ngoài;
tăng cƣờng vai trò và ảnh hƣởng của nƣớc ta đối với kinh tế khu vực và thế giới.
Đại hội IX xác định rõ hơn các nguyên tắc trong quá trình mở rộng quan hệ
nhiều mặt, song phƣơng và đa phƣơng với cộng đồng quốc tế, đó là: nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi; giải
quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thƣơng lƣợng hoà bình; làm thất bại mọi âm
mƣu và hành động gây sức ép, áp đặt và cƣờng quyền.
Trên cơ sở đa dạng hóa các mối quan hệ, Việt Nam khẳng định quan điểm: chủ
động và tích cực trong hội nhập khu vực và quốc tế phù hợp với những điều kiện thực
tế cụ thể của đất nƣớc. Chủ động hội nhập trên cơ sở nắm vững quy luật cũng nhƣ tính
tất yếu của sự vận động kinh tế toàn cầu, phát huy đầy đủ những năng lực nội sinh, xác
định lộ trình hợp lý, nội dung, quy mô và các bƣớc đi phù hợp; đa dạng hóa, đa
phƣơng hóa các mối quan hệ quốc tế, bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ

15

song phƣơng và đa phƣơng nhƣ AFTA, APEC, Hiệp định thƣơng mại Việt – Mỹ, tiến
tới gia nhập WTO… Sự chủ động đó phải đƣợc kết hợp với việc tích cực, khẩn trƣơng
trong công tác chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới từ bên trong; khẩn trƣơng xây dựng lộ
trình, kế hoạch, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hoàn
chỉnh hệ thống luật pháp…sao cho phù hợp với những yêu cầu của quá trình hội nhập.
Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nƣớc xã hội chủ nghĩa và
các nƣớc láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lƣợng hợp tác với các nƣớc ASEAN,
cùng xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, không có vũ khí hạt nhân, ổn
định, hợp tác cùng phát triển. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nƣớc bạn bè truyền
thống, các nƣớc độc lập dân tộc, các nƣớc đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Trung
Đông và Mỹ la-tinh, các nƣớc trong Phong trào không liên kết, ủng hộ lẫn nhau cùng
phát triển, phối hợp bảo vệ lợi ích chính đáng của nhau. Thúc đẩy quan hệ đa dạng với
các nƣớc phát triển và các tổ chức quốc tế. Đẩy mạnh hoạt động ở các diễn đàn đa
phƣơng.
Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Ủng hộ cuộc đấu tranh nhằm loại
bỏ hoàn toàn vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học và mọi phƣơng tiện chiến tranh hiện đại
giết ngƣời hàng loạt khác, bảo vệ hoà bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua
chiến tranh. Tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự chọn con
đƣờng phát triển của mỗi dân tộc trên thế giới, góp phần xây dựng trật tự chính trị,
kinh tế, dân chủ, công bằng. Củng cố và tăng cƣờng quan hệ đoàn kết và hợp tác với
các đảng cộng sản và công nhân, với các đảng cánh tả, các phong trào giải phóng dân
tộc và độc lập dân tộc, với các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục
mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
Mở rộng hơn nữa quan hệ đối ngoại nhân dân, tăng cƣờng quan hệ song phƣơng với
các tổ chức nhân dân các nƣớc, nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính
phủ và quốc tế, góp phần tăng cƣờng sự hiểu biết lẫn nhau, quan hệ hữu nghị và hợp
tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nƣớc trong khu vực và trên thế giới.
Chủ động và tích cực thâm nhập thị trƣờng quốc tế, chú trọng thị trƣờng các trung

tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trƣờng quen thuộc, tranh
thủ mọi cơ hội mở thị trƣờng mới. Từng bƣớc hiện đại hoá phƣơng thức kinh doanh
phù hợp với xu thế mới của thƣơng mại thế giới. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, xúc tiến
thƣơng mại, thông tin thị trƣờng bằng nhiều phƣơng tiện và tổ chức thích hợp, kể cả
các cơ quan đại diện ngoại giao ở nƣớc ngoài. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nƣớc tham gia các hoạt động môi giới, khai thác thị trƣờng quốc tế.
16

Điểm mới về chỉ đạo hoạt động đối ngoại trong Văn kiện Đại hội IX là việc Đảng
nhấn mạnh vấn đề chủ yếu, trƣớc hết của hội nhập khu vực, quốc tế là hội nhập về
kinh tế. Nhận thức đầy đủ “lực” và “thế” của đất nƣớc sau 15 năm đổi mới, Đại hội IX
đã phát triển phƣơng châm “Việt Nam muốn là bạn với các nƣớc trong cộng đồng
quốc tế phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” của Đại hội VII thành “Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nƣớc trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hoà bình, độc lập và phát triển”.
Nhằm cụ thể hoá đƣờng lối “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Bộ Chính trị đã
ra Nghị quyết 07-NQ/TW (27/11/2001) về hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó làm rõ
mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nội dung và nhiệm vụ cụ thể của hội nhập quốc tế trong
lĩnh vực kinh tế. Nghị quyết khẳng định “chủ động và khẩn trƣơng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, đổi mới công nghệ và trình độ quản lý nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh
của quốc gia và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nhằm đáp ứng những đòi
hỏi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc”, đồng thời Nghị quyết
cũng đƣa ra những quan điểm chỉ đạo cho quá trình hội nhập là:
1. Quán triệt Chủ trƣơng đã đƣợc xác định tại Đại hội IX;
2. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong quá trình hội nhập cần
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội,
trong đó kinh tế nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo;
3. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh,
vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh
hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tùy theo đối tƣợng, vấn đề, trƣờng hợp,

thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tƣ tƣởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tƣ tƣởng
giản đơn, nôn nóng;
4. Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nƣớc ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình
hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nƣớc, vừa đáp ứng các quy định
của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nƣớc ta tham gia; tranh thủ những ƣu đãi dành cho
các nƣớc đang phát triển và các nƣớc có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung
bao cấp sang kinh tế thị trƣờng;
5. Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh,
quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cƣờng sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm
củng cố chủ quyền và an ninh đất nƣớc, cảnh giác với những mƣu toan thông qua hội
nhập để thực hiện ý đồ “diễn biến hòa bình” đối với nƣớc ta.
17

Chủ trƣơng hội nhập quốc tế tiếp tục đƣợc hoàn thiện thêm tại Đại hội X của Đảng
(4/2006). Cùng với việc nhấn mạnh sự cần thiết phải đƣa các quan hệ quốc tế đã đƣợc
thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, Đại hội khẳng định quan điểm: “Chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các
lĩnh vực khác”. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội nêu 5 bài học lớn, trong đó bài học
thứ 3 là bài học về hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Theo đó, hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có lộ trình
với bƣớc đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ, nhƣng cũng không đƣợc nóng
vội, giản đơn.
Phải tích cực mở rộng thị trƣờng bên ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời phải
chủ động mở cửa thị trƣờng trong nƣớc, kể cả thị trƣờng dịch vụ, để thu hút mạnh vốn
đầu tƣ, công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến… từ bên ngoài, nâng cao hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong tiến trình mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới, phải biết phát huy lợi thế
so sánh, tạo môi trƣờng cạnh tranh để phát triển. Đồng thời, để phát triển bền vững,
bảo đảm sự ổn định, tăng khả năng độc lập tự chủ của đất nƣớc, nhất thiết phải tăng
cƣờng tiềm lực và bảo đảm an ninh kinh tế, đi đôi với củng cố quốc phòng, an ninh.

Về an ninh kinh tế, phải giữ vững cân đối vĩ mô; ngoài an ninh lƣơng thực và an ninh
năng lƣợng, cần tăng nhanh dự trữ ngoại tệ, kiểm soát chặt chẽ nợ nƣớc ngoài; phát
huy cao nhất các nguồn lực để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển có hiệu quả một
số ngành và sản phẩm quan trọng, thiết yếu đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
Thực hiện tốt đƣờng lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc; chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới. Thực hiện có
hiệu quả các cam kết với các nƣớc, các tổ chức quốc tế về thƣơng mại, đầu tƣ, dịch vụ
và các lĩnh vực khác. Thực hiện các cam kết của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và
tích cực tham gia quá trình xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN. Chuẩn bị tốt các
điều kiện để bảo đảm thực hiện các cam kết khi nƣớc ta gia nhập WTO.
Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm lợi ích
quốc gia và phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế. Tiếp tục cải thiện môi trƣờng
đầu tƣ, chú trọng cải cách hành chính, đào tạo nguồn nhân lực, tạo lập những điều
kiện thuận lợi hơn nữa để khai thác lợi thế của đất nƣớc và khắc phục những vƣớng
mắc ảnh hƣởng đến việc thu hút các nguồn vốn quốc tế, nhƣ vốn ODA, vốn đầu tƣ
trực tiếp, gián tiếp dƣới nhiều hình thức, tín dụng thƣơng mại và các nguồn vốn quốc
tế khác.
18

Tăng cƣờng thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn
đầu tƣ phát triển toàn xã hội trong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu
hút FDI, hƣớng vào những thị trƣờng giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu
thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lƣợng và chất lƣợng, hiệu quả nguồn FDI;
tranh thủ nguồn vốn ODA đi đôi với việc đẩy nhanh tốc độ giải ngân, nâng cao hiệu
quả sử dụng và có kế hoạch đảm bảo trả nợ. Từng bƣớc mở rộng đầu tƣ gián tiếp của
nƣớc ngoài và có chính sách hiệu quả hơn để thu hút kiều hối vào phát triển kinh tế.
Tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế khuyến khích các hoạt động đầu tƣ ra nƣớc ngoài
của doanh nghiệp Việt Nam.
Tận dụng điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động và khẩn trƣơng chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và quản lý, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức

cạnh tranh của nền kinh tế, của sản phẩm và dịch vụ Việt Nam tại thị trƣờng trong
nƣớc và trên thế giới. Đẩy nhanh xuất khẩu, chủ động về nhập khẩu, kiềm chế và thu
hẹp dần nhập siêu; phấn đấu tăng nhanh tỉ trọng xuất khẩu các sản phẩm chế biến có
giá trị gia tăng cao, giàu hàm lƣợng công nghệ, có sức cạnh tranh, tạo thêm các sản
phẩm xuất khẩu chủ lực mới, hết sức hạn chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài
nguyên thiên nhiên và nông sản chƣa qua chế biến. Củng cố và mở rộng thị trƣờng
xuất khẩu, tạo thị trƣờng ổn định cho các mặt hàng có khả năng cạnh tranh; tăng thêm
thị phần ở các thị trƣờng lớn và khai mở các thị trƣờng còn nhiều tiềm năng. Phấn đấu
đƣa tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm tới lên hơn hai lần 5 năm trƣớc.
Phát huy tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội
nhập kinh tế quốc tế. Từng doanh nghiệp phải khẩn trƣơng đổi mới từ tƣ duy đến
phong cách quản lý, đổi mới thiết bị, công nghệ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu
tƣ, giảm chi phí để tăng sức cạnh tranh. Xúc tiến mạnh thƣơng mại và đầu tƣ, phát
triển thị trƣờng mới, sản phẩm mới và thƣơng hiệu mới. Khuyến khích các doanh
nghiệp Việt Nam hợp tác, liên doanh với các doanh nghiệp nƣớc ngoài và mạnh dạn
đầu tƣ ra nƣớc ngoài.
Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể
chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phƣơng, lấy phục vụ lợi ích đất nƣớc làm mục
tiêu cao nhất.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lƣợc
phát triển đất nƣớc từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt các
điều kiện để ký kết các hiệp định thƣơng mại tự do song phƣơng và đa phƣơng. Thúc
đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nƣớc ASEAN, các nƣớc châu Á
19

– Thái Bình Dƣơng… Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phƣơng tin cậy với
các đối tác chiến lƣợc; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách
thức, rủi ro khi nƣớc ta là thành viên Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO).
Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ sung,
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định và minh

bạch. Cải thiện môi trƣờng đầu tƣ; thu hút các nguồn vốn FDI, ODA, đầu tƣ gián tiếp,
tín dụng thƣơng mại và các nguồn vốn khác. Xác định đúng mục tiêu sử dụng và đẩy
nhanh việc giải ngân nguồn vốn ODA, cải tiến phƣơng thức quản lý, nâng cao hiệu
quả sử dụng và có kế hoạch trả nợ đúng hạn; duy trì tỉ lệ vay nợ nƣớc ngoài hợp lý, an
toàn.
Phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến mạnh thƣơng mại và đầu tƣ, phát triển
thị trƣờng mới, sản phẩm mới và thƣơng hiệu mới. Khuyến khích các doanh nghiệp
Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nƣớc ngoài và mạnh dạn đầu tƣ ra
nƣớc ngoài.
Đẩy mạnh công tác văn hoá – thông tin đối ngoại, góp phần tăng cƣờng sự hợp tác,
tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nƣớc.Chăm lo đào tạo, bồi dƣỡng,
rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững vàng về chính trị, có trình độ
ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt.
Tăng cƣờng công tác nghiên cứu, dự báo, tham mƣu về đối ngoại với sự tham gia và
phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nƣớc đối
với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại
giao Nhà nƣớc và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại; đối
ngoại, quốc phòng và an ninh; thông tin đối ngoại và thông tin trong nƣớc.
Đại hội XI của Đảng (2011) đánh dấu bƣớc phát triển mới trong chủ trƣơng hội
nhập quốc tế với sự khẳng định: “Thực hiện nhất quán đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phƣơng hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nƣớc; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì
một nƣớc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, là đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Chủ trƣơng “chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế” đƣợc Đại hội nêu ra thể hiện tầm nhìn chiến lƣợc toàn diện của
20


Đảng. Đây không chỉ là sự chủ động, tích cực hội nhập riêng ở lĩnh vực kinh tế và một
số lĩnh vực khác, mà là sự tích cực mở rộng hội nhập với qui mô toàn diện, trên các
lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh Bƣớc phát triển
này trong nhận thức và tƣ duy đối ngoại của Đảng, phản ánh những nhu cầu cấp thiết
đối với sự nghiệp cách mạng nƣớc ta trong bối cảnh quốc tế mới. Trong quá trình hội
nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, của toàn
xã hội. Đó là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội
vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý
tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tƣợng, vấn đề, trƣờng hợp, thời điểm cụ thể.
Cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc
phòng, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nƣớc.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đƣa các mối quan hệ quốc tế vào
chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát
huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình
hội nhập quốc tế. Xúc tiến mạnh thƣơng mại và đầu tƣ, mở rộng thị trƣờng, khai thác
hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học – công nghệ,
trình độ quản lý tiên tiến. Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phƣơng
và đa phƣơng vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế, Hiến chƣơng Liên hợp quốc. Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức
quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng các nƣớc, các tổ chức khu
vực và quốc tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, và
nhất là tình trạng biến đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nƣớc, các tổ chức quốc tế
và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết đấu
tranh, làm thất bại mọi âm mƣu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính
trị của Việt Nam.
Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và
thềm lục địa với các nƣớc liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công tác quản lý biên giới, xây
dựng đƣờng biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển. Củng cố, phát triển

quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nƣớc láng giềng có chung biên giới.
Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nƣớc xây dựng Cộng đồng ASEAN
vững mạnh, tăng cƣờng quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong
các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á – Thái Bình Dƣơng. Phát triển quan hệ với
các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và những đảng khác
21

trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; mở rộng tham gia các cơ chế, diễn đàn đa phƣơng ở khu vực và
thế giới. Coi trọng và nâng cao hiệu quả của công tác ngoại giao nhân dân. Tăng
cƣờng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lƣợc, tham mƣu về đối ngoại; chăm lo đào
tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; thƣờng xuyên bồi dƣỡng kiến
thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nƣớc đối với
các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao
Nhà nƣớc và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và
ngoại giao văn hoá; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh.
Hộp 1: Những mốc quan trọng trong chính sách tự do hóa nhằm chủ động hội nhập
1987: Quốc hội thông qua Luật đầu tƣ nƣớc ngoài
1988: Quyền sử dụng ngoại tệ đƣợc tự do hóa. Phá giá đồng tiền Việt Nam. Xây
dựng biểu thuế quan thƣơng mại.
1989: Cho phép các nhà sản xuất hàng hóa xuất khẩu bán hàng cho mọi công ty
ngoại thƣơng và trợ cấp xuất khẩu từ ngân sách.
1991: Miễn thuế nhập khẩu cho sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Các công ty tƣ nhân
đƣợc pháp tham gia vào thị trƣờng quốc tế.
1991: Luật đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài sửa đổi theo hƣớng giảm phân biệt đối xử
giữa các liên doanh và các doanh nghiệp do nƣớc ngoài sở hữu.
1994: Việt Nam trở thành quan sát viên của Hiệp định GATT. Thực hiện tỷ giá hối
đoái thị trƣờng liên ngân hàng.
1995: Nới lỏng quản lý hạn ngạch xuất khẩu gạo. Việt Nam gia nhập ASEAN.

1996: Thuế suất nhập khẩu cao nhất giảm uống còn 80%.
1997: Thông qua luật thƣơng mại, hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1998. Cấm nhập
khẩu đƣờng. Áp dụng và sau đó dỡ bỏ lệnh cấm nhập tạm thời một số hàng hóa tiêu
dùng.
1998: Thuế suất nhập khẩu tối đa giảm xuống còn 60% ; hầu nhƣ việc nhập khẩu
hàng tiêu dùng đƣợc quản lý bằng các biện pháp thuế quan thay cho các biện pháp
hạn ngạch. Điều chỉnh Luật thuế xuất- nhập khẩu, đƣa ra ba hạng mục thuế, các
điều khoản chống bán phá giá và thuế đền bù. Các doanh nghiệp trong nƣớc đƣợc
phép trực tiếp tham gia xuất khẩu mà không cần phải xin giấy phép xuất nhập khẩu
tại Bộ Thƣơng mại theo nghị dịnh 57/1998/NĐ-CP ngày 31/07/1998.
1999. Kế hoạch hành động về khu vực tƣ nhân với sự hỗ trợ của sáng kiến
22

Miazawa.
2000: Luật doanh nghiệp cho phép mọi pháp nhân xuất khẩu hầu hết các mặt hàng
không phải xin giấy phép. Xóa bỏ hạn chế định lƣợng nhập khẩu với 8 trong số 19
mặt hàng. Ký Hiệp định thƣơng mại Việt Nam – Hoa kỳ.
2001: Thông qua Nghị định số 44/2001/NĐ-CP ngày 02/08/2001 về việc sửa đổi bổ
sung một số điều của Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành Luật thƣơng mại. Ban hành Quyết định số 46/QĐ-TTg về
quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2001-2005. Giảm yêu cầu kết hối từ 50%-
40%. Xóa bỏ hạn chế định lƣợng đa phƣơng đối với tất cả các dòng thuế của các
nhóm mặt hàng rƣợu, clinke, giấy, gạch lát, kính xây dựng , một số loại thép và dầu
thực vật, ký hiệp định khung ACFTA.
2002: Đề ra danh mục thuế suất. Nghị quyết Trung ƣơng 5 (Khóa IX) thông qua
những chính sách, cơ chế thúc đẩy và tạo điều kiện cho sự phát triển của khu vực tƣ
nhân. Giảm yêu cầu kết hối từ 40% xuống 30%.
2003: Từ ngày 01/07/2003 có têm 1416 mặt hàng đƣợc đƣa vào danh mục cắt giảm
tạm thời theo cam kết với AFTA; thực hiện chƣơng trình non-visa với 5 nƣớc thành
viện ASEAN; ký kết các Hiệp định bảo hộ đầu tƣ với Nhật Bản và Hiệp định Hàng

không với Hoa Kỳ. Kết thúc phiên thứ 6, 7 đàm phán gia nhập Tổ chức Thƣơng mại
thế giới.
2004: Thông qua Luật cạnh tranh, Luật đất đai sửa đổi, kết thúc phiên 8,9 trong
đàm phán gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới, Hiệp định bảo hộ đầu tƣ với Nhật
Bản có hiệu lực. EU xóa bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam. Thống nhất
chế độ một giá đối với hàng không và điện lực.
2005: Ban hành luật đầu tƣ, Luật thƣơng mại sửa đổi, Luật đất đại sửa đổi, Luật
doanh nghiệp, kết thúc vòng đàm phán gia nhập WTO.
2007: Gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới WTO.
2008: Tham gia Hiệp định đối tác toàn diện ASEAN- Nhật Bản.
2009: Tham gia Hiệp định thành lập Khu vực thƣơng mại tƣ do ASEAN-Úc-Niu
Di-lân.
Tham gia Hiệp định thƣơng mại hàng hóa ASEAN- Ấn Độ để thành lập khu
vực thƣơng mại tƣ do ASEAN- Ấn Độ.
2011: Tham gia Hiệp định FTA song phƣơng Việt Nam- Chi lê.
2013: Đàm phán những vòng cuối cùng tham gia TPP.


×