Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích một số giải pháp tài trợ thâm hụt ngân sách của việt nam trong những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.93 KB, 14 trang )

Lớp: 0928MAEC0111
Nhóm : 05

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
Đề tài 4: Phân tích một số giải pháp tài trợ thâm hụt ngân sách
của Việt Nam trong những năm gần đây.

Nội dung chính của bài thảo luận:
I. Các khái niệm liên quan:
1. Ngân sách nhà nước.
2. Thâm hụt ngân sách.
II. Vấn đề thâm hụt ngân sách:
1.Vai trò của việc tài trợ thâm hụt ngân sách
2.Thâm hụt ngân sách với vấn đề tháo lui đầu tư.
III. Các biện pháp tài trợ thâm hụt ngân sách:
1. Tăng thu hoặc giảm chi tiêu của chính phủ.
2. Vay nợ trong nước.
3. Vay nợ nước ngoài.
4. Sử dụng dự trữ ngoại hối.
5. Vay ngân hàng.
IV. Những vấn đề còn tồn tại trong việc bù đắp ngân sách tại Việt Nam.


I.
1.

Các khái niệm liên quan:
Chính sách tài khố:

Định nghĩa : là việc sử dụng thuế khố và chi tiêu cơng cộng để điều tiết mức chi tiêu
chung của nền kinh tế nhằm đưa nền kinh tế lại gần mức sản lượng tiềm


năng.
+ Chính sách tài khố mở rộng (CSTK ngược chiều) là việc chính phủ tăng chi
hoặc giảm thu hoặc thực hiện đồng thời cả 2 biện pháp trên.
+ Chính sách tài khoá thắt chặt (CSTK cùng chiều) là việc chính phủ giảm chi
hoặc tăng thu hoặc thực hiện đồng thời cả hai biện pháp trên.

2.

Ngân sách nhà nước:

a. Khái niệm:
- Ngân sách nhà nước là tổng kế hoạch chi tiêu và thu nhập hàng năm của chính
phủ bao gồm các khoản thu và chi.
Gọi B là cán cân ngân sách nhà nước. Ta có cơng thức:

B=T–G

Nếu T = G tức B = 0 : Cán cân ngân sách cân bằng.
Nếu T < G tức B < 0 : Thâm hụt ngân sách.
Nếu T > G tức B > 0 : Thặng dư ngân sách.

b. Vai trò của ngân sách nhà nước:
- Là cơng cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển
sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
- Thông qua hoạt động chi Ngân sách nhà nước cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ
sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thơng qua thuế,
ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trị định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn
chế sản xuất kinh doanh.


3. Thâm hụt ngân sách:
a. Khái niệm:
- Thâm hụt ngân sách nhà nước (hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước) là
tình trạng khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu.
- Xảy ra khi cán cân ngân sách chính phủ B < 0 tức T < G.


b. Phân loại:
- Thâm hụt ngân sách thực tế : Là thâm hụt khi số chi thực tế vượt quá số thu
thực tế trong một thời kì nhất định.
- Thâm hụt ngân sách cơ cấu : Là thâm hụt ngân sách trong trường hợp nền
kinh tế hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng .
- Thâm hụt ngân sách chu kỳ : Là thâm hụt ngân sách bị động do tình trạng của
chu kì kinh doanh. Thâm hụt ngân sách chu kì bằng hiệu số giữa thâm hụt thực tế và
thâm hụt cơ cấu.

II. Vấn đề thâm hụt ngân sách:
1. Các xu hướng cơ bản xử lý thâm hụt ngân sách:
Coi

T = t. Y
=>

B = - G + tY.

Khi tY < G => B < 0 => Thâm hụt ngân sách.
=> Các loại phản ứng:
- Phản ứng thuận chiều : Khi tY < G => Nhà nước tăng thuế, giảm chi tiêu để
đảm bảo G = tY => B=0 => cán cân ngân sách sẽ cân bằng = > Nhưng đây là cách
làm thụ động tiêu cực, có thể gây ra hậu quả xấu là làm cho suy thoái càng trầm trọng

hơn do việc giảm chi tiêu của chính phủ làm giảm AD.
- Phản ứng ngược chiều : Nếu mục tiêu của Chính Phủ là giữ cho nền kinh tế
ln ở mức sản lượng tiềm năng với mức việc làm đầy đủ thì chính phủ phải thực hiện
Chính sách tài khố ngược chiều (với chu kỳ kinh doanh). Vì vậy, khi tY < G thìthay
vì tăng thuế suất để đảm bảo thu, nhà nước lại giảm thuế suất để kích thích đầu tư
(tăng I), thay vì giảm G thì nhà nước lại tăng G để tăng AD. Gọi là ngược chiều vì
đáng lẽ phải tăng T thì lại giảm T, và đáng lẽ phải giảm G thì lại tăng G.

2. Thâm hụt ngân sách với vấn đề tháo lui đầu tư:
Các biện pháp của chính sách tài khố chủ động gây nên thâm hụt cơ cấu và
kéo theo hiện tượng tháo lui đầu tư.

Cơ chế tháo lui đầu tư : Khi thực hiện chính sách tài khố lỏng,GNP sẽ tăng
lên theo hệ số nhân, nhu cầu về tiền tăng theo. Với mức cung tiền cho trước, lãi suất
sẽ tăng lên bóp ngẹt, hạn chế, làm giảm đầu tư.


Kết quả là một phần GNP tăng lên có thể bị mất đi do thâm hụt cao kéo theo
tháo lui đầu tư. Vì vậy tác động của chính sách tài khố sẽ giảm đi. Tác động tương tự
cũng có thể xảy ra đối với tiêu dùng cá nhân và xuất nhập khẩu.
Về ngắn hạn, quy mô của tháo lui đầu tư thường là nhỏ, song nếu về lâu dài,
quy mô này có thể sẽ rất lớn và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế.
=> Cần có kết hợp giữa chính sách tài khố và chính sách tiền tệ.

3. Các nguyên tắc xử lý thâm hụt ngân sách có hiệu quả:
+ Chọn đúng giải pháp cho những thâm hụt ngân sách có nguyên nhân khác nhau.
- Nếu nguyên nhân là do ở trong nội tại nền kinh tế thì các giải pháp được lựa
chọn phải là vừa làm giảm thâm hụt ngân sách phải đồng thời làm các giải pháp tăng
trưởng kinh tế.
- Nếu nguyên nhân là do các tác nhân bên ngoài như thiên tai, dịch hoạ, biến

động thị trường quốc tế… làm tăng đột ngột chi, giảm thu thì cần áp dụng ngay các
biện pháp tài trợ thâm hụt ngân sách.
+ Chọn đúng giải pháp cho các loại thâm hụt có tính thời hạn khác nhau:
- Với thâm hụt ngân sách có tình tạm thời, giải pháp tài trợ sẽ có hiệu quả hơn.
- Với thâm hụt có quy mơ lớn và lâu dài, sử dụng giải pháp giảm thiếu hụt, giải
pháp tăng trưởng kinh tế.

4. Bảng thâm hụt ngân sách nhà nước từ năm 2003 đến năm 2007:
Năm

Số bội chi

Bội chi so với GDP

2003

29,936

4,9%

2004

34,703

4,85%

2005

40,746


4,86%

2006

48,500

5%

2007

56,500

5%


III.Các biện pháp tài trợ ngân sách:
Khi thâm hụt ngân sách lớn và kéo dài, các chính phủ đều phải nghĩ đến các biện
pháp làm giảm bớt thâm hụt, các biện pháp tăng thu và giảm chi.
Tăng thu, giảm chi là biện pháp cơ bản nhất để tài trợ thâm hụt ngân sách nhà
nước. Tuy nhiên khi các biện pháp tăng thu giảm chi không làm giảm giải quyết được
vấn đề thâm hụt ngân sách thì các chính phủ cần phải sử dụng các biện pháp tài trợ
thâm hụt ngân sách khác như vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài, sử dụng dự trữ
ngoại tệ, vay ngân hàng, bán các tài sản công cộng…

1. Biện pháp tăng thu giảm chi:
Đây là biện pháp mà Chính phủ bằng những quyền hạn và nhiệm vụ được giao,
tính tốn hợp lý để tăng các khoản thu như thu từ Thuế.... và cắt giảm chi tiêu. Tuy
vậy, vấn đề đặt ra là phải tính tốn số tăng thu và giảm chi thế nào để gây ảnh hưởng
ít nhất đến tăng trưởng kinh tế à hệ quả từ mơ hính số nhân
m = 1/(1-MPC) ;

mt = -MPC/(1-MPC) ;
m + mt = 1 (số nhân ngân sách cân bằng )
Ý nghĩa : khi chính phủ tăng chi tiêu (G) và tăng thuế (T) một lượng như nhau
thì ngân sách khơng đổi và sản lượng cân bằng sẽ tăng một lượng tương ứng
∆Y = ∆G = ∆T
Khi chính phủ tăng chi tiêu ∆Y = ------------- x ∆G
Khi đồng thời tăng thuế :
1
∆Y =

MPC

------------- x ∆G - --------------- x ∆T
1-MPC

1-MPC

Mà ∆G =∆T nên ta có ∆Y = ∆G= ∆T

a.

Giảm chi tiêu cơng:

Là việc chính phủ làm giảm tổng cầu thông qua việc chi tiêu công:
- Cắt giảm nguồn đầu tư và ngân sách từ tín dụng nhà nước.
- Rà soát cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém phát triển trong doanh nghiệp
- Cắt giảm chi phí thường xuyên của bộ máy nhà nước.


o Ưu điểm:


- Do tổng đầu tư của nhà nước (từ ngân sách, tín dụng nhà nước thơng
qua doanh nghiệp nhà nước) luôn chiếm khoảng 50% tổng đầu tư của tồn xã hội. Vì
vậy nếu nhà nước có thể cắt giảm một số khoản đầu tư kém hiệu quả và có thứ tự ưu
tiên thấp thì sức ép gia tăng lạm phát chắc chắn sẽ nhẹ đi.
- Cũng như vậy, lạm phát cũng sẽ được kiềm chế bớt nếu các cơ quan
nhà nước có thể cắt giảm những khoản chi không thực sự cần thiết thường xuyên
(chiếm 56% tổng chi ngân sách năm 2007).
o Nhược điểm:

Mặc dù chính sách cắt giảm chi tiêu công là đúng đắn tuy nhiên hiệu lực của
những biện pháp cụ thể thì vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả và gặp nhiều khó khăn:
- Việc cắt giảm chi tiêu hay thậm chí làm giảm tiến độ đầu tư công không hề dễ,
nhất là khi những dự án này đã được cơ quan lập pháp các cấp, các sở ban ngành có
thẩm quyền phê duyệt và được triển khai, đưa vào thực hiện thì đây gần như là điều
khơng thể.
- Nhà nước khó có thể kiểm sốt được chính xác các khoản đầu tư của các
doanh nghiệp nhà nước. Một mặt là do chính sách phân cấp trong quản lí đầu tư, mặt
khác là do một số tập đoàn, tổ chức lớn đã thành lập ngân hàng riêng.
- Với tốc độ lạm phát như hiện nay thì chỉ cần giữ được mức tổng đầu tư cơng
theo đúng dự đốn cũng đã được coi là một thành tích đáng kể.
- Kinh nghiệm thực tế từ nhiều nước khác cho thấy rằng vì việc cắt giảm chi
tiêu thường xuyên là rất khó khăn nên đây là hạng mục cuối cùng nằm trong danh
sách cắt giảm. Hơn thế với thực tế ở Việt Nam, phạm vi chi thường xuyên cắt giảm
không nhiều. Đầu tiên phải phải trừ đi quý lương (chiếm 2/3 tổng chi thường xuyên),
sau đó phải trừ đi các khoản phụ cấp có tính chất lương, chi cho các đối tượng chính
sách, chế độ …
Theo ước lượng của bộ trưởng bộ kế hoạch và đầu tư thì nếu làm thật quyết liệt
việc giảm chi sẽ giảm được 3.000 tỷ đồng là khoản tiền chi cho hội họp và mua sắm
phương tiện đi lại (chiếm 0,8% tổng chi ngân sách).


b. Tăng thu:
- Để thu hẹp thâm hụt ngân sách thì song song với việc giảm chi tiêu, chính phủ
cần phải cải thiện các nguồn thu ngân sách, tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc quá
nhiều (trên 40%) vào các nguồn thu từ dầu mỏ và thuế nhập khẩu như hiện nay. Cải
cách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (chiếm 2% tổng thu ngân sách Việt Nam


trong khi con số này ở các nền kinh tế hiện đại đều chiếm trên 20%) và thuế bất động
sản.
- Trước đây có những người chỉ sau một đêm mà trở thành triệu phú, có được
một khoản tiền khổng lồ chỉ nhờ vào việc nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng vào nơi họ có
bất động sản trong khi lại khơng hề phải đóng góp gì cho nhà nước. Vấn đề này mang
nhiều bất cập và hạn chế. Áp dụng thuế bất động sản là một chính sách rất đúng đắn,
tạo nguồn thu đáng kể và rất hợp lý đóng góp vào ngân sách nhà nước, đảm bảo sự
bền vững cho ngân sách nhà nước.

2.

Vay nợ trong nước:

Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công
trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ của nhà nước, là
một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay các dân cư, các tổ
chức kinh tế - xã hội và các ngân hàng. Ở Việt Nam, Chính phủ thường uỷ nhiệm cho
Kho bạc nhà nước phát hành trái phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc; trái
phiếu kho bạc; trái phiếu cơng trình.

Năm


Số tiền vay trong nước để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước
(đơn vị tính: Tỷ đồng)

2007

43.000

2006

36.000

2005

32.420

2004

27.450

2003

22.895

2002

18.382

Ưu điểm: Đây là biện pháp cho phép Chính phủ có thể giải quyết việc thâm hụt
ngân sách mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện
pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát. Đồng thời thu hút được

khoản tiền đang nhàn rỗi trong dân.


Nhược điểm : Việc tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước bằng nợ tuy không gây
ra lạm phát trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng áp lực lạm phát trong tương lai nếu
như tỷ lệ nợ trong GDP liên tục tăng. Thứ nữa, việc vay từ dân trực tiếp sẽ làm giảm
khả năng của khu vực tư nhân trong việc tiếp cận tín dụng và gây sức ép làm tăng lãi
suất trong nước.
Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao (như nước ta hiện nay),
giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng, làm cho chúng trở nên ít hấp
dẫn. Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để buộc các chủ thể khác trong
nền kinh tế phải giữ trái phiếu, tuy nhiên, nếu việc này có dài có thể gây ảnh hướng
nghiêm trọng đến uy tín của Chính phủ và khiến cho việc huy động vốn thông qua
kênh này sẽ trở nên khó khăn hơn vào các năm sau

3. Vay nợ nước ngoài:
Ở Việt Nam việc vay nợ nước ngồi thường được tiến hành thơng qua việc vay các
tổ chức tài chính thế giới và vay nợ các chính phủ khác : Nguồn vốn ODA; nguồn
viện trợ nước ngoài IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế) , WB ( ngân hàng thế giới), ADB
(Ngân hàng phát triển châu Á) .…

Năm

Số tiền vay nước ngoài để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước
(đơn vị tính: Tỷ Đồng)

2007

13.500


2006

12.500

2005

8.326

2004

7.253

2003

7.041

2002

7.125

 Ưu điểm: Có thể vay được lượng tiền lớn và tránh được tối đa nguy cơ gây lạm
phát trong nước.
 Nhược điểm: Dễ dẫn đến việc làm mất giá đồng nội tệ, tăng gánh nặng vay nợ
với nước ngồi, có nguy cơ mất khả năng thanh toán.


o Vay nợ nước ngồi có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu bằng

ngoại tệ mạnh ra nước ngồi, vay bằng hình thức tín dụng...
Phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ có:

- Ưu điểm : Là cách giúp thu hút nguồn ngoại tệ bù đắp dự trữ ngoại hối, hỗ trợ
ổn định tỉ giá. Tạo thêm một cơng cụ tài chính mới cho tổ chức, cá nhân
nắm giữ ngoại tệ tham gia mà không phải quy đổi, tạo tính hấp dẫn cho thị
trường trái phiếu đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
- Nhược điểm :
 Mức độ chủ động về chính sách tiền tệ giảm đi; xuất hiện hiện tượng
“đơ la hố” ( hiện nay chiếm gần 30%)
 Phát hành bằng ngoại tệ có thể tạo gánh nặng trả nợ của chính phủ
trong tương lai.
 Nếu lợi suất cao có thể dẫn tới xu hướng dịch chuyển từ nắm giữ
VNĐ sang ngoại tệ trong dân.
o
Viện trợ nước ngoài : là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ chức
liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một nước nhằm thực
hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu là nguồn
vốn phát triển chính thức ODA.
Trong những năm gần đây nguồn vốn ODA đã mang lại cho Việt Nam một
nguồn lực lớn để hỗ trợ đầu tư và phát triển trong nước. Theo nhận định chung thì
nguồn vốn ODA đã đem lại hiệu quả đáng kể cho nước ta.
Để bù đắp khoản thiếu hụt về dự trữ ngoại hối Việt Nam đã vay 500 triệu USD từ
ADB (ngân hàng phát triển châu Á) và sẽ vay khoảng 1 tỷ USD từ ngân hàng thế giới.

4. Sử dụng dự trữ ngoại hối:
Dự trữ ngoại hối là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan hữu
trách tiền tệ của một quốc gia hay lãnh thổ cất giữ. Đây là một loại tài sản của nhà
nước được cất giữ dưới dạng ngoại tệ ( thường là những ngoại tệ mạnh như Dollar,
Euro.. )nhằm mục đích thanh tốn quốc tế hoặc hỗ trợ giá trị đồng tiền quốc gia.
Ngoại hối có thể được dự trữ dưới nhiều hình thức:



Tiền mặt.



Số dư của tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.



Hối phiếu, trái phiếu hoặc các giấy tờ ghi nợ khác của chính phủ nước ngồi,
các ngân hàng nước ngồi, các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới.


Vàng.



Các loại ngoại hối khác.

Dự trữ ngoại hối của Việt Nam tính đến ngày 19/06/2008 đạt tương
đương 24,7 tỷ USD.
Tại Việt Nam, dự trữ ngoại hối được lập thành hai quỹ:
- Quỹ dự trữ ngoại hối.
- Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng.
o Ưu điểm: Dự trữ ngoại hối có vai trò quan trọng trong việc can thiệp thị trường
ngoại hối nhằm thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá. Việc
duy trì một mức dự trữ ngoại hối vừa đủ là cần thiết nhằm bảo vệ giá trị
đồng nội tệ, hạn chế sự biến động quá mức của tỷ giá hối đoái, đáp ứng
nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế, chống đỡ khủng hoảng kinh tế và tài
chính. Điều này là phù hợp đối với mọi nền kinh tế, nhưng sẽ đặc biệt
quan trọng hơn đối với các nền kinh tế đang phát triển bắt đầu thực hiện

mở cửa, tự do hoá các giao dịch vốn quốc tế như nước ta.
o Nhược điểm: Nếu dự trữ ngoại hối quá lớn sẽ làm phát sinh chi phí cho việc nắm
giữ dự trữ ngoại hối do lợi nhuận thu được từ đầu tư dự trữ ngoại hối
thường thấp hơn chi phí đi vay vốn nước ngồi.
Do vậy, một vấn đề rất đáng quan tâm là việc xác định mức dự trữ ngoại hối
vừa đủ, phù hợp với quy mô của nền kinh tế, tình hình tự do hố cán cân vãng lai và
cán cân vốn nhằm đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, bảo vệ giá trị đồng tiền, cân
bằng giữa lợi ích điều hành chính sách tiền tệ và chi phí của việc nắm giữ dự trữ ngoại
hối.
Với các nước tự do hoá tài khoản vốn hay có chế độ tỷ giá linh hoạt có sự kiểm
sốt của Nhà nước như Việt Nam, nếu chỉ sử dụng nguyên tắc so sánh mức dự trữ
ngoại hối với 3 đến 6 tháng nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ khơng thích hợp vì
thường phải đối mặt với rủi ro đảo chiều một cách đột ngột của các luồng vốn ngắn
hạn như luồng vốn đầu tư gián tiếp. Thông thường, cần có một lượng dự trữ ngoại hối
lớn hơn để sẵn sàng can thiệp khi xảy ra hiện tượng rút vốn và chuyển tiền ồ ạt ra
nước ngoài.
Do các giao dịch vốn đã tương đối được tự do hoá nên NHTW cần phải mua
ngoại tệ cho dự trữ ngoại hối khi các luồng vốn đổ vào Việt Nam để duy trì sức cạnh
tranh của hàng xuất khẩu và phải bán ra khi đến hạn trả nợ hay có hiện tượng đảo
chiều của các luồng vốn ngắn hạn của các nhà đầu tư nước ngồi trên thị trường
chứng khốn.


Bên cạnh đó, với mức độ đơ la hố tương đối cao của Việt Nam, dự trữ ngoại
hối cũng phải gia tăng để đảm bảo can thiệp khi có hiện tượng rút ngoại tệ ồ ạt tại các
ngân hàng thương mại. Hiện tượng đơ la hố (theo số tương đối) hiện nay có xu
hướng giảm do hoạt động đầu tư vào thị trường chứng khoán gia tăng mạnh mẽ. Cụ
thể, chỉ số tiền gửi ngoại tệ/M2 của Việt Nam hiện đang ở mức 22,3% vào cuối năm
2005, 20,9% cuối năm 2006 và ở mức khoảng 19,5% vào cuối tháng 6 năm 2007. Tuy
nhiên, do M2 tăng nhanh nên tiền gửi ngoại tệ theo số tuyệt đối vẫn tăng trong thời

gian qua.

5.

Vay ngân hàng (in tiền):
Chính phủ khi bị thâm hụt ngân sách sẽ đi vay Ngân hàng Trung ương để bù
đắp. Để đáp ứng nhu cầu này, tất nhiên, Ngân hàng trung ương sẽ tăng việc in tiền.
Điều này sẽ tạo ra thêm cơ sở tiền tệ. Chính vì vậy, nó được gọi là tiền tệ hố thâm
hụt.
o Ưu điểm nhu cầu bù tiền để bù đắp ngân sách nhà nước được đáp ứng một
cách nhanh chóng, khơng phải trả lãi, không phải gánh thêm các gánh nặng nợ nần.
o Nhược điểm của biện pháp này lại lớn hơn rất nhiều lần so với ưu điểm.
Việc in thêm và phát hành thêm tiền sẽ khiến cho cung tiền vượt cầu tiền. Nó đẩy cho
việc lạm phát trở nên khơng thể kiểm soát nổi.
Trong những năm 80 của thế kỷ 20, nước ta đã bù đắp bội chi ngân sách nhà
nước bằng cách in thêm tiền đưa vào lưu thông. Việc này đã đẩy tỷ lệ lạm phát đỉnh
điểm lên tới hơn 600%, nền kinh tế bị trì trệ...
Chính vì những hậu quả đó, biện pháp này rất ít khi được sử dụng. Và từ năm
1992, nước ta đã chấm dứt hoàn toàn việc in tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà
nước.

IV. Những vấn đề còn tồn tại trong việc bù đắp ngân sách ở
Việt Nam:
1- Đi vay trong nước thơng qua việc phát hành chứng khốn nợ của CP:
Do thị trường thứ cấp ở Việt Nam kém phát triển, uy tín tài chính quốc gia thấp,
hình thức và chủng loại chứng khoán nghèo nàn, năng lực quản lý nợ cơng cịn nhiều
hạn chế nên nợ Chính phủ dưới dạng trái phiếu và tín phiếu kho bạc rất thấp, chiếm
khoảng 2,7%GDP. Trong khi đó, nợ nước ngồi của Chính phủ tính đến 30/6/2994



chiếm 31,5%GDP, điều này đồng nghĩa với việc trong những năm tới nghĩa vụ trả nợ
(gốc và lãi) của Chính phủ tăng, hậu quả là gây áp lực lên tỷ giá hối đoái và cán cân
thanh toán quốc tế, khi đó sẽ tác động tiêu cực lên cân đối tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước. Diễn biến thị trường trái phiếu Chính phủ thời gian vừa qua đã phản ảnh sự yếu
kém của quản lý Ngân sách hiện nay, và đó cũng là kết quả tất yếu của tình trạng thiếu
sự đồng bộ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khố.
Sự bất cập cịn thể hiện ở việc hàng năm, Ngân hàng Nhà nước tính tốn mức
cung ứng tiền, điều tiết khối lượng tiền phải do Chính phủ phê duyệt. Để tài trợ cho
thâm hụt Ngân sách, chính sách tiền tệ cần phải tính tốn kỹ để xác định khối lượng
tiền cần bơm, hút, trong khi đó Bộ Tài chính lại quy định tần suất tiến hành hoạt động
các phiên đấu thầu chứng khoán nợ, quy định lãi suất chứng khốn Chính phủ và lãi
suất trái phiếu phát hành qua Ngân hàng Nhà nước luôn bị đẩy lên tối đa. Điều này
gây khó khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
Khi chính sách tiền tệ và chính sách tài khố theo đuổi những mục tiêu khác
nhau dẫn tới có sự xung đột ngồi qui luật thị trường. Chính sách tiền tệ thắt chặt làm
giảm lạm phát nhưng có thể làm cho nền kinh tế phát triển chậm lại, thậm chí dẫn tới
suy thoái, dẫn đến nguồn thu Ngân sách bị giảm, khi đó Chính phủ lại phải đi vay và
làm tăng cầu tiền tệ dẫn đến biến động lãi suất, gây mất ổn định thị trường tài chính.
“Vịng trịn” luẩn quẩn này sẽ mãi là bài tốn cực khó gỡ nếu khơng có một cơ chế
minh bạch hố theo hướng buộc mối quan hệ nói trên phải tuân thủ nghiêm ngặt cơ
chế quan hệ giữa “con nợ” và “chủ nợ” theo đúng qui luật thị trường.

2- Chính sách tiền tệ tài trợ thâm hụt Ngân sách thông qua việc Ngân hàng
Nhà nước trực tiếp chi cho Chính phủ vay:
Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước vẫn phải cung ứng một lượng tiền không nhỏ
cho NSNN để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ NSNN và khoản tiền này phải hoàn trả
trong năm Ngân sách theo Luật định. Tuy nhiên thực tế các khoản tạm ứng này
thường khơng có đảm bảo và khơng được hoàn trả trong năm theo đúng như luật định.
Bên cạnh đó, các khoản mục cho vay Chính phủ rịng trên bảng cân đối tài sản của
Ngân hàng Nhà nước và bảng cân đối tiền tệ toàn ngành biến động mạnh vì Chính phủ

thường xun phát hành trái phiếu, tín phiếu. Theo đó tiền hút về hoặc bơm ra từ kênh
tiền gửi Chính phủ và cho vay Chính phủ tương đối lớn, mà tiền gửi của Chính phủ tại
các NHTM chiếm khoảng 80% tổng tiền gửi của Chính phủ tại hệ thống Ngân hàng đã
hạn chế tới việc kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước . Khi Chính phủ gửi tiền


tại các NHTM thì lượng tiền này lại có khả năng tạo tiền và do vậy tác động tới M2
làm cho Ngân hàng Nhà nước khó có thể kiểm sốt được. Chính vì thế ngân hàng
Nhà nước sẽ bị động trong q trình điều hành chính sách tiền tệ.

3- Chính sách tiền tệ tài trợ thâm hụt NSNN thông qua việc Ngân hàng
Nhà nước tái cấp vốn cho các NHTM.
Việc Ngân hàng Nhà nước cung ứng tiền để tài trợ cho thâm hụt NSNN là
không nhỏ, song so với khoản tái cấp vốn cho các NHTM NN được sử dụng cho mục
đích Ngân sách có nguy cơ gây nên những tác động bất lợi cho điều hành chính sách
tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước . Tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước trong bộ
máy của Chính phủ cịn hạn chế đã tạo sự phụ thuộc của chính sách tiền tệ vào chính
sách tài khố là điều khơng tránh khỏi. Bên cạnh đó, việc phải theo đuổi đa mục tiêu
có nhiều khả năng xung đột với nhau trong trung và dài hạn, đặc biệt là ổn định giá trị
đồng tiền và tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ do đó cịn phải chịu sự tác động
bởi áp lực và phải neo vào các mục tiêu ngắn hạn của Chính phủ.
Tuy vậy nhưng ko thể nói là việc thực hiện bù đắp ngân sách nhà nước chỉ
toàn hạn chế chứ ko đạt đc gì và những điều đạt đc đó thể hiện cụ thể như sau:
Đối với vay nước ngồi, thực hiện chính sách chỉ vay ưu đãi nước ngồi, khơng vay
thương mại nước ngồi cho đầu tư phát triển. Đối với những khoản vay thương mại nước
ngoài và nợ quá hạn trước đây đã được xử lý qua Câu lạc bộ Pari và Câu lạc bộ Luân Đôn.
Thực hiện xử lý nợ với Nga, Angiêry,....Nhờ thực hiện tốt q trình cơ cấu lại nợ, cũng
như chính sách vay mới mà dư nợ Chính phủ hiện nay ở mức 35% GDP vào năm 2005,
mức an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Đối với vay nợ trong nước: hàng năm Ngân sách phải huy động một khoản tiền

nhàn rỗi trong nước tương đối lớn để bù đắp bội chi Ngân sách. Để việc huy động vốn
không ảnh hướng lớn đến thị trường tiền tệ, đến lãi suất, Bộ Tài chính thực hiện chính
sách trước hết thực hiện vay vốn nhàn rỗi từ các quỹ tài chính Nhà nước như: Quỹ
Bảo hiểm xã hội, Quỹ Tích lũy trả nợ,...phần cịn thiếu sẽ thực hiện phát hành trái
phiếu và tín phiếu Chính phủ. Đối với tín phiếu (loại thời hạn dưới 1 năm), thực hiện
phối hợp với Ngân hàng Nhà nước đấu thầu (đấu thầu về lãi suất) qua Ngân hàng Nhà
nước, đây là biện pháp vừa để đảm bảo nguồn bù đắp bội chi cho Ngân sách Nhà
nước, đồng thời cũng tạo điệu kiện cho các tổ chức tín dụng có nguồn vốn nhàn rỗi,
chưa cho vay được thực hiện mua tín phiếu này (kết quả cho thấy trong năm qua nhiều
tổ chức tín dụng đã mua tín phiếu kho bạc).




×