Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Tình hình thu gom vận chuyển và xử lý chất thải rắn y tế tại công ty cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp 10 tây mỗ từ liêm hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (986.99 KB, 62 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Nước ta đang trong tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Cùng
với sự tăng thêm các cơ sở sản xuất với quy mô ngày càng lớn, các khu tập trung
dân cư càng ngày nhiều, nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm vật chất cũng ngày
càng lớn. Tất cả những điều đó tạo điều kiện kích thích các ngành sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ được mở rộng và phát triển nhanh chóng, đóng góp tích cực
cho sự phát triển kinh tế của đất nước, nâng cao mức sống chung của xã hội. Khi
đời sống của người dân ngày càng cao, nhu cầu của họ về chăm sóc sức khoẻ
cho bản thân và những người thân trong gia đình cũng ngày một nhiều.
Vì vậy, số lượng bệnh viện, phịng khám đa khoa, trạm y tế, cơ sở y tế tư
nhân … ngày một tăng. Đến năm 2010, Việt Nam có 1186 bệnh viện với công
suất 187843 giường [6]. Đi kèm với sự tăng lên về số lượng của các bệnh viện,
cơ sở y tế… là một khối lượng rác khổng lồ được thải ra từ đó. Theo PGS.TS
Nguyễn Huy Nga, Cục trưởng Cục Quản lý Môi trường y tế cho biết, mỗi ngày
các cơ sở y tế trong cả nước thải ra 380 tấn chất thải rắn và lượng chất thải lỏng
lên đến 150.000m3/ngày đêm. Trong 380 tấn chất thải rắn thì có khoảng 45 tấn
là chất thải rắn y tế nguy hại [1]. Nếu không được quản lý tốt, các thành phần
nguy hại trong chất thải y tế như vi sinh vật gây bệnh, chất gây độc, gây ung thư
có thể tạo ra nguy cơ đáng kể đối với sức khỏe cộng đồng và môi trường.
Lượng rác thải y tế ngày càng tăng nhất là chất thải rắn y tế. Đặc biệt do tính
nguy hại cao đối với mơi trường và sức khoẻ con người mà việc xử lý triệt để
nguồn rác thải này là yêu cầu rất cấp bách hiện nay. Việc lựa chọn và áp dụng
các phương pháp xử lý chất thải y tế nói chung và chất thải rắn y tế nói riêng
phụ thuộc vào điều kiện của từng khu vực và từng loại chất thải y tế khác nhau.
Phương pháp xử lý rác thải rắn y tế có hiệu quả và được áp dụng phổ biến nhất cho



1


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B

đến nay vẫn là phương pháp đốt.
Về hiện trạng quản lý chất thải y tế, báo cáo cho biết, 73,3% BV đã xử lý
chất thải rắn y tế nguy hại bằng lò đốt tại chỗ của BV hoặc lò đốt tập trung [6]
Tại Hà Nội, một số bệnh viện lớn như bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Lao
Trung Ương … đã xây dựng lò đốt ngay tại bệnh viện, tuy nhiên các bệnh viện
này thường nằm gần các khu dân cư, cơ quan, trường học ... vì vậy việc vận
hành lị đốt thường xun sẽ gặp khó khăn. Mặt khác, việc lắp đặt mỗi bệnh viện
một lị đốt chất thải y tế là khơng hiệu quả cả về mặt môi trường và mặt kinh tế.
Do đó, việc xây dựng và vận hành lị đốt trung tâm có cơng suất lớn để xử lý
chất thải rắn phục vụ cho các cơ sở y tế của thành phố vừa mang lại lợi ích kinh
tế và mơi trường vừa mang tính khả thi. Hiện nay, hầu hết lượng rác thải rắn y tế
được xử lý bằng phương pháp đốt trên địa bàn thành phố đều được tập trung và
xử lý tại Công ty cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp 10 ở Tây Mỗ - Từ
Liêm - Hà Nội. Do vậy, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Tình hình thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn y tế tại Công ty cổ
phần môi trường đô thị và công nghiệp 10, Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội”
1.2. Mục đích yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá hiện trạng thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn y tế tại
Công ty cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp 10. Đánh giá ưu nhược điểm
của phương pháp xử lý chất thải rắn y tế, đề xuất các giải pháp.
1.2.2. Yêu cầu của đề tài

- Đánh giá công tác thu gom và vận chuyển rác thải rắn y tế của công ty,
công tác phân loại và phối trộn rác tại cơng ty.
- Đánh giá quy trình xử lý rác thải y tế bằng phương pháp đốt tại công ty
và công tác xử lý sau khi đốt để đề ra những giải pháp bảo vệ môi trường.

2


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B
PHẦN 2

TỔNG QUAN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Chất thải y tế
- Chất thải y tế: Theo WHO, chất thải y tế là bất kì chất thải nào phát
sinh trong việc chẩn đốn, diều trị hoặc tiêm chủng cho người, cho động vật
trong bện viện, phòng nghiên cứu hoặc trong thử nghiệm sinh học.
Chất thải y tế bao gồm các mầm mống gây bệnh truyền nhiễm là chất thải
nguy hại. Khoảng 20% tổng lượng chất thải y tế là chất thải nguy hại.
- Chất thải rắn y tế: Là chất thải rắn phát sinh từ các hoạt động y tế như
khám chữa bệnh bào chế, sản xuất, đào tạo nghiên cứu, thú y…
- Chất thải rắn y tế thông thường: Là chất thải rắn y tế khơng chứa các
chất và hợp chất có một trong các đặc tính nguy hại trực tiếp hoặc tương tác với
các hợp chất khác gây nguy hại tới môi trường và sức khỏe con người.
- Chất thải rắn y tế nguy hại: Là chất thải rắn y tế có chứa các chất và
hợp chất có một trong các đặc tính nguy hại trực tiếp hoặc tương tác với các chất
khác gây nguy hại tới môi trường và sức khỏe con người.
- Thu gom: Là việc tách, phân loại, tập hợp, đóng gói và lưu giữ tạm thời
chất thải tại địa điểm tập trung chất thải của cơ sở y tế.

- Vận chuyển: Là quá trình chuyên chở chất thải từ nơi phát sinh tới nơi
xử lý ban đầu, lưu giữ, tiêu huỷ.
- Xử lý ban đầu: Là quá trình khử khuẩn hoặc tiệt khuẩn các chất thải có
nguy cơ lây nhiễm cao ngay gần nơi chất thải phát sinh trước khi vận chuyển tới
nơi lưu giữ hoặc tiêu huỷ.
- Tiêu huỷ: Là q trình sử dụng cơng nghệ nhằm cô lập (bao gồm cả
chôn lấp) chất thải nguy hại, làm mất khả năng gây nguy hại đối với môi trường
và sức khoẻ con người.

3


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B

2.2. Phân loại chất thải rắn y tế
Hầu hết các chất thải rắn từ quá trình khám chữa bệnh là các chất thải độc
hại và mang tính đặc thù riêng. Phân loại chất thải là một khâu rất quan trọng
trong quá trình quản lý và xử lý chất thải rắn y tế. Nếu việc phân loại được tiến
hành tốt ngay từ đầu thì những khâu quản lý và xử lý sau này sẽ đạt hiệu quả cao
hơn, hạn chế tối đa sự ô nhiễm đối với môi trường xung quanh.
2.2.1. Phân loại theo hệ thống phân loại của WHO
+ Chất thải thơng thường: Đó là các chất thải không độc hại, về bản chất
tương tự như rác thải sinh hoạt.
+ Chất thải là bệnh phẩm: Mô, cơ quan, phần tử bào thai người, xác động
vật thí nghiệm, máu, dịch thể.
+ Chất thải chứa phóng xạ: Chất thải từ các quá trình chiếu chụp X quang,
phân tích tạo hình cơ quan trong cơ thể, điều trị và khu trú khối u …
+ Chất thải hoá học: Có tác dụng độc hại, ăn mịn, gây cháy hay nhiễm

độc gen hoặc không độc.
+ Chất thải nhiễm khuẩn: Gồm các chất thải chứa tác nhân gây bệnh như
vi sinh vật kiểm định, bệnh phẩm bệnh nhân bị cách ly hoặc máu nhiễm khuẩn.
+ Các vật sắc nhọn: Kim tiêm, lưỡi dao, kéo mổ, chai lọ vỡ … có thể gây
thương tích cho người và vật.
+ Dược liệu: Dư thừa, quá hạn sử dụng [20].
2.2.2. Phân loại theo hệ thống phân loại của Việt Nam
Tại Việt Nam, các chất thải bệnh viện được phân loại tuỳ theo nguồn gốc
đặc tính của từng loại. Chất thải của bệnh viện được phân thành bốn loại [9].
+ Phế thải sinh hoạt: Có nguồn gốc từ khu nhà bếp, khu hành chính,
phịng bệnh nhân, hàng quán trong bệnh viện …
+ Phế thải chứa các vi trùng gây bệnh: Có nguồn gốc từ các ca phẫu thuật,
từ quá trình xét nghiệm, hoạt động khám chữa bệnh …
+ Phế thải bị nhiễm bẩn: Các chất thải sau khi dùng cho bệnh nhân, các đồ

4


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B

dùng của y bác sĩ sau phẫu thuật, từ quá trình lau rửa sàn nhà, bùn cặn nạo vét từ
các hệ thống cống rãnh, từ điều trị khám chữa bệnh và vệ sinh công cộng.
+ Phế thải đặc biệt: Là các loại chất thải độc hại hơn các loại trên như các
kim loại nặng, chất phóng xạ, hố chất, dược phẩm q hạn sử dụng từ phòng
chiếu chụp X quang, kho dược liệu và hố chất.
Như vậy, chất thải y tế có thành phần rất đa dạng bao gồm rác sinh hoạt
và đặc biệt là chất thải trong quá trình điều trị. Đây là nguồn gây ơ nhiễm sinh
học, hóa học, truyền nhiễm dịch bệnh cho con người, gây ô nhiễm môi trường

đất, nước và khơng khí, gây tình trạng xú uế góp phần tăng tỉ lệ nhiễm trùng cho
cán bộ công nhân viên bệnh viện, bệnh nhân, người nhà chăm sóc bệnh nhân,
làm giảm hiệu suất điều trị, kéo dài ngày nằm viện và làm ảnh hưởng tới cư dân
sống xung quanh bệnh viện [12].
2.2.3. Phân loại chất thải rắn y tế nguy hại của Uỷ ban nhân dân Thành phố
Hà Nội
Chất thải rắn y tế nguy hại được tạm thời chia làm 4 nhóm chính [6]:
+ Nhóm A: chất thải rắn y tế nguy hại có nguy cơ lây nhiễm bao gồm:
 Các bộ phận cắt bỏ của cơ thể, xác súc vật loại nhỏ sau thí nghiệm, rau
thai nhi …
 Dịch của cơ thể như máu (nhiễm trùng hoặc không)
 Các chất bài tiết như phân, nước tiểu, chất nôn, túi đựng chất nôn, nước
bọt, đờm dãi …
 Quần áo nhiễm bẩn, nhiễm trùng (quần áo bệnh nhân, quần áo, găng tay
cán bộ nhân viên y tế trong phòng mổ, giường khoét lỗ, các vật phẩm lây nhiễm,
nhiễm trùng khác như ga, đệm …) không được dùng nữa cần thải bỏ, bông, băng
gạc nhiễm bẩn, nhiễm trùng
 Các bệnh phẩm, các mẫu nuôi cấy, các mẫu xét nghiệm vi sinh vật trong
phịng thí nghiệm, thử nghiệm ….
 Thức ăn, thực phẩm của bệnh nhân lây nhiễm dùng còn thừa

5


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B

+ Nhóm B: chất thải rắn y tế nguy hại cứng/sắc, nhọn bao gồm:
 Bơm kim tiêm đã dùng, dao mổ, kéo … không được dùng nữa

 Chai, lọ, hộp, mảnh thuỷ tinh, can nhựa …
 Các mảnh xương gẫy vỡ …
+ Nhóm C: dược phẩm và hoá chất bao gồm:
 Thuốc hỏng, thuốc quá hạn dùng, thuốc dùng còn thừa
 Thuốc độc đối với tế bào, vắc xin, huyết thanh …
 Các dung mơi hữu cơ, các hợp chất vơ cơ
 Bình xịt, nhiệt kế có thuỷ ngân phải xử lý theo quy định riêng và tuyệt
đối cấm đưa vào lị đốt
+ Nhóm D: chất thải rắn y tế có chứa chất phóng xạ. Nhóm này được xử
lý theo những quy định riêng đối với chất phóng xạ.
2.3. Khối lượng và thành phần chất thải rắn y tế
2.3.1. Khối lượng chất thải rắn y tế
Khối lượng chất thải rắn y tế không chỉ thay đổi theo từng khu vực địa lý,
mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác như: cơ cấu bệnh tật bình
thường, dịch bệnh, thảm họa đột xuất; phụ thuộc vào phương pháp và thói quen
của nhân viên y tế trong việc khám, điều trị và chăm sóc bệnh nhân, số lượng
người nhà được phép đến thăm bệnh nhân. Mặt khác, khối lượng chất thải rắn y
tế còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của khu vực, thể hiện rõ qua mức
thu nhập của từng nước (bảng 2.1) cũng như loại và qui mô bệnh viện, phạm vi
cứu chữa cũng như số lượng bệnh nhân khám, chữa bệnh, tỷ lệ bệnh nhân điều
trị nội trú và ngoại trú thể hiện qua các loại bệnh viện (bảng 2.2)

Bảng 2.1. Lượng CTR y tế phát sinh thay đổi theo mức thu nhập
Mức thu nhập

Tổng lượng CTR của

6

CTRNH của bệnh



Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B
bệnh viện (kg/giường

viện (kg/giường bệnh/

bệnh/ngày)
ngày)
Nước thu nhập cao
1,2 - 12
0,4 – 5,5
Nước thu nhập trung bình
0,8 – 6
0,3 – 0,6
Nước thu nhập thấp
0,5 - 3
0,3 – 0,4
Nguồn: Ủy ban liên minh Châu Âu (1995), Durand (1995)
[1]
Bảng 2.2. Lượng CTR y tế phát sinh theo loại bệnh viện
Lượng chất thải theo từng bệnh viện

Nguồn phát sinh

(kg/giường bệnh/ngày)
4,1 – 8,7
2,1 – 4,2

0,5 – 1,8
0,05 – 0,2
Nguồn: Economopoulos (1993)[1]

Bệnh viện đại học y dược
Bệnh viện đa khoa
Bệnh viện tuyến huyện
Trung tâm y tế

2.3.2. Thành phần chất thải rắn y tế
Bao gồm:
 Đồ bông vải sợi: bông, gạc, quần áo cũ, khăn lau, vải trải…
 Đồ giấy: hộp đựng dụng cụ, giấy gói, giấy thải từ nhà vệ sinh…
 Đồ thủy tinh: chai lọ, ống tiêm, bơm thủy tinh, ống nghiệm…
 Đồ nhựa: hộp đựng, bơm tiêm, dây truyền máu, túi đựng hàng…
 Đồ kim loại: kim tiêm, giao mổ, hộp đựng…
 Bệnh phẩm, máu mủ dính ở băng gạc…
 Rác rưởi, lá cây, đất đá…
 Những chất vơ cơ, kim loại, bột bó, chai lọ thủy tinh, sỏi đá, hóa
chất, thuốc thử.
 Những chất hữu cơ: đồ vải sợi, giấy, phần cơ thể, đồ nhựa...
 Máu, những loại dịch tiết, những động vật làm thí nghiệm, bệnh

7


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B


phẩm và đặc biệt là những vi trùng gây bệnh [20].
Trong các thành phần này, có khoảng 75% - 80% chất thải rắn được phát
sinh từ bệnh viện là chất thải không nguy hại có bản chất giống như chất thải
sinh hoạt thơng thường, còn lại 20% - 25% là chất thải rắn nguy hại. Xét theo
các đặc trưng vật lý của chất thải rắn nguy hại (CTRNH) thì độ ẩm của CTRNH
khoảng 50%, tỷ lệ tro sau khi thiêu đốt bằng lò chuyên dụng khoảng 10,3%
nhiệt trị là 2537 Kcal/kg và tỷ trọng là 0,13 tấn/m3[9].
Dưới đây là bảng số liệu tính theo thành phần phần trăm của các thành
phần CTR y tế (bảng 2.3):
Bảng 2.3. Phần trăm các thành phần CTR y tế
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Thành phần chất thải rắn y tế
Tỷ lệ (%)
Giấy, bìa
2,9
Thùng hộp kim loại
0,7
Lọ thuốc tiêm và đồ chứa thủy tinh
2,3
Vải, bơng băng, bột bó

8,8
Lọ, túi PE, PP, PVC (túi máu, ống dẫn lưu...)
10,1
Bơm kim tiêm nhựa
0,9
Bệnh phẩm, mô, bộ phận cắt bỏ
0,6
Chất thải hữu cơ
52,7
Chất thải xây dựng
21,0
Tổng số
100
Nguồn: Trung tâm môi trường đô thị và khu công nghiệp (CEETIA), 1998

2.4 Nguy cơ và những tác động của rác thải y tế đối với sức khỏe
2.4.1 Nguy cơ đối với sức khỏe
Phơi nhiễm với chất thải y tế nguy hại có thể gây ra bệnh tật hoặc thương
tích. Tất cả các cá nhân phơi nhiễm với chất thải nguy hại, cả những người ở
trong hay ở ngoài bệnh viện đều có nguy cơ tiềm ẩn. Những nhóm có nguy cơ
bao gồm:
- Nhân viên y tế: bác sĩ, điều dưỡng, nữ hộ sinh, kỹ thuật viên
- Bệnh nhân

8


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B


- Người nhà và khách thăm nuôi bệnh nhân.
- Công nhân làm việc trong khối hỗ trợ như thu gom, vận chuyển rác, giặt là
- Công nhân trong cơ sở xử lý và tiêu hủy chất thải (như bãi rác hoặc lò
đốt), bao gồm cả những người nhặt rác.
2.4.1.1. Nguy cơ của chất thải lây nhiễm
Vi sinh vật gây bệnh trong chất thải lây nhiễm có thể xâm nhập vào cơ thể
thơng qua nhiều đường: qua vết thương, vết cắt trên da; qua niệm mạc; qua
đường hơ hấp; qua đường tiêu hóa. Sự xuất hiện của các loại vi khuẩn kháng
kháng sinh và kháng hóa chất khử khuẩn có thể liên quan đến thực trạng quản lý
chất thải y tế khơng an tồn. Vật sắc nhọn không chỉ gây ra vết thương trên da,
mà còn gây nhiễm trùng vết thương nếu chúng bị nhiễm bẫn. Thương tích do vật
sắc nhọn là tai nạn thường gặp nhất trong cơ sở y tế. Một khảo sát của Viện Y
học lao động và môi trường năm 2006 cho thấy 35% số nhân viên y tế bị thương
tích do vật sắc nhọn trong vòng 6 tháng qua, và 70% trong số họ bị thương tích
do vật sắc nhọn trong sự nghiệp. Tổn thương do vật sắc nhọn có khả năng lây
truyền các bệnh nhiễm trùng nguy hiểm như HIV, HBV, và HCV. Khoảng 80%
nhiễm trùng HIV, HBV, HCV nghề nghiệp là do thương tích do vật sắc nhọn và
kim tiêm. Việc tái chế hoặc xử lý không an toàn chất thải lây nhiễm, bao gồm cả
nhựa và vật sắc nhọn có thể có tác động lâu dài tới sức khỏe cộng đồng [6].
Theo nghiên cứu của WHO, chất thải rắn y tế có thể tác động tới sức khỏe
con người thông qua các dạng nhiễm khuẩn và đường lây nhiễm (bảng 2.6)
Bảng 2.4. Các loại nhiễm khuẩn, tác nhân gây bệnh và đường lây nhiễm
Các dạng nhiễm khuẩn
Tác nhân gây bệnh
Nhiễm khuẩn đường tiêu Vi khuẩn đường tiêu hóa
hóa

Chất truyền


như:Salmonella, Shigella, Phân và chất nơn
Vibriocholera,(thương

9


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B

hàn, tả lỵ, trứng giun)
Nhiễm khuẩn đường hô Vi khuẩn lao, virus sởi, Chát tiết đường hô hấp,
hấp
Nhiễm khuẩn mắt
Nhiễm khuẩn da
Bệnh than
ADIS
Nhiễm khuẩn huyết
Viêm gan A
Viêm gan B và C

phế cầu khuẩn
Virus Herpes
Phế cầu khuẩn
Trực cầu khuẩn
HIV
Tụ cầu khuẩn
Virus viêm gan A
Virus viêm gan B và C


nước bọt
Chất tiết ở mắt
Mủ
Chất tiết qua da
Máu, dịch tiết sinh dục
Máu
Phân
Máu và dịch cơ thể
Nguồn: WHO (1999)[2]

2.4.1.2. Nguy cơ của chất thải hóa học và dược phẩm
Nhiều hóa chất và dược phẩm sử dụng trong cơ sở y tế là chất nguy hại
(ví dụ chất gây độc, ăn mòn, dễ cháy, gây phản ứng, gây sốc, gây độc) nhưng
thường ở khối lượng thấp. Phơi nhiễm cấp tính hoặ mãn tính đối với hóa chất
qua đường da niêm mạc, qua đường hơ hấp, tiêu hóa. Tổn thương da, mắt và
niêm mạc đường hơ hấp có thể gặp khi tiếp xúc với hóa chất gây cháy, gây ăn
mịn, gây phản ứng (ví dụ formaldehyde và các chất dễ bay hơi khác). Tổn
thương thường gặp nhất là bỏng. Các hóa chất khử khuẩn được sử dụng phổ
biến trong bệnh viện thường có tính ăn mịn. Trong q trình thu gom, vận
chuyển và lưu giữ, chất thải nguy hại có thể bị rị thốt, đổ tràn. Việc rơi vãi chất
thải lây nhiễm, đặc biệt là chất thải lây nhiễm có nguy cơ cao có thể lan truyền
bệnh trong bệnh viện, như có thể gây ra đợt bùng phát nhiễm trùng bệnh viện
trong nhân viên và bệnh nhân, hoặc gây ô nhiễm đất và nước.
2.4.1.3. Nguy cơ của chất thải gây độc tế bào
Nhiều thuốc điều trị ung thư là các thuốc gây độc tế bào. Chúng có thể
gây kích thích hay gây tổn thương cục bộ trên da và mắt, cũng có thể gây chóng
mặt, buồn nơn, đau đầu hoặc viêm da. Nhân viên bệnh viện, đặc biệt là những
người chịu trách nhiệm thu gom chất thải, có thể phơi nhiễm với các thuốc điều

10



Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B

trị ung thư qua hít thở hoặc hạt lơ lửng trong khơng khí, hấp thu qua da, tiêu hóa
qua thực phẩm vơ tình nhiễm bẩn với thuốc gây độc tế bào.
2.4.1.4. Nguy cơ của chất thải phóng xạ
Cách thức và thời gian tiếp xúc với chất thải phóng xạ quyết định những
tác động đối với sức khỏe, từ đau đầu, chóng mặt, buồn nơn cho đến các vấn đề
đột biến gen trong dài hạn.
2.4.2. Nguy cơ đối với môi trường
2.4.2.1. Nguy cơ đối với mơi trường nước
Nguồn nước có thể bị nhiễm bẩn do các chất độc hại có trong chất thải
bệnh viện. Chúng có thể chứa các vi sinh vật gây bệnh. Chúng có thể chứa kim
loại nặng, phần lớn là thủy ngân từ nhiệt kế và bạc từ quá trình tráng rửa phim X
quang. Một số dược phẩm nhất định, nếu xả thải mà khơng xử lý có thể gây
nhiễm độc nguồn nước cấp. Bên cạnh đó, việc xả thải bừa bãi chất thải lâm
sàng, ví dụ xả chung chất thải lây nhiễm vào chất thải thơng thường, có thể tiềm
ẩn nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước do làm tăng BOD.

11


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B

2.4.2.2. Nguy cơ đối với mơi trường đất

Tiêu hủy khơng an tồn chất thải nguy hại như tro lò đốt hay bùn của hệ
thống xử lý nước thải rất có vấn đề khi các chất gây ơ nhiễm từ bãi rác có khả
năng rị thốt ra, gây ơ nhiễm đất và nguồn nước, và cuối cùng là tác động tới
sức khỏe cộng đồng trong dài hạn.
2.4.2.3. Nguy cơ đối với mơi trường khơng khí
Nguy cơ ơ nhiễm khơng khí tăng lên khi phần lớn chất thải nguy hại được
thiêu đốt trong điều kiện không lý tưởng. Việc thiêu đốt không đủ nhiệt độ trong
khi rác thải đưa vào quá nhiều sẽ gây ra nhiều khói đen. Việc đốt chất thải y tế
đựng trong túi nilon PVC, cùng với các loại dược phẩm nhất định, có thể tạo ra
khí axit, thường là HCl and SO2. Trong quá trình đốt các dẫn xuất halogen (F,
Cl,. Br, I..) ở nhiệt độ thấp, thường tạo ra axit. như hydrochloride (HCl). Điều đó
dẫn đến nguy cơ tạo thành dioxin, một loại hóa chất vơ cùng độc hại, ngay cả ở
nồng độ thấp. Các kim loại nặng, như thủy ngân, có thể phát thải theo khí lị đốt.
Những nguy cơ mơi trường này có thể tác động tới hệ sinh thái và sức
khỏe con người trong dài hạn.
2.5. Cơ sở pháp lý về quản lý chất thải y tế ở Việt Nam
2.5.1. Khung thể chế quản lý chất thải y tế nguy hại tại Việt Nam
- Vụ Môi trường:
+ Hoạch định các chính sách, chiến lược và pháp luật
+ Hướng dẫn áp dụng các tiêu chuẩn môi trường Việt Nam
- Vụ thẩm định và đánh giá tác động môi trường:
+ Phê duyệt các báo cáo ĐTM, các dự án về xử lý chất thải y tế nguy hại
- Cục bảo vệ môi trường:
+ Thực hiện giám sát và phối hợp cưỡng chế về môi trường đối với cơ sở y tế
- Bộ y tế:
+ Giám sát việc cung cấp các dịch vụ về quản lý chất thải từ các cơ sở y tế

12



Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B

+ Hoạch định các chính sách liên quan đến chất thải rắn y tế từ các cơ sở
y tế và giám sát việc thực thi
- Ủy ban nhân dân các tỉnh/ thành phố:
+ Giám sát công tác quản lý môi trường trong phạm vi quyền hạn cho
phép
- Các công ty Môi trường đô thị trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh/ thành
phố hoặc Sở Giao thơng cơng chính hoặc Sở Xây dựng:
+ Thu gom và tiêu hủy chất thải theo các hợp đồng ký kết [3].
2.5.2 Các văn bản pháp lý về quản lý chất thải y tế do Quốc Hội và Chính Phủ
ban hành
- Luật bảo vệ môi trường được Quốc Hội thông qua ngày 27/12/1993
- Nghị định số 175 – CP ngày 18/10/1994 của Chính phủ về thi hành Luật
bảo vệ mơi trường năm 1993.
- Pháp lệnh An tồn kiểm sốt bức xạ được Ủy ban thường vụ Quốc Hội
thông qua ngày 25/6/1996.
- Nghị định số 50/1998/NĐ – CP ngày 16/7/1998 của Chính phủ quy định
chi tiết việc thhi hành Pháp lệnh an tồn và kiểm sốt bức xạ.
- Quyết định số 152/1999/QĐ – TTg ngày 10/7/1999 của Thủ tướng chính
phủ về việc phê duyệt Chiến lược quản lý chất thải rắn tại các đô thị và khu
công nghiệp Việt Nam đến năm 2020.
- Quyết định số 155/1999/QĐ – TTg ngày 16/7/1999 của Thủ tướng chính
phủ về việc ban hành Quy chế quản lí chất thải nguy hại.
- Luật Bảo vệ mơi trường được Quốc Hội thông qua ngày 25/11/2005 [3].
2.5.3. Các văn bản liên Bộ
- Thông tư liên tịch số 1590/1997/TTLT – BKHCNMT – BXD ngày
17/10/1997 của Bộ KHCN và Môi trường nay là Bộ Tài nguyên môi trường và

Bộ xây dựng hướng dẫn thi hành Chỉ thị số 199/TTg của Thủ tướng chính phủ

13


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B

về các biện pháp cấp bách trong quản lí chất thải rắn ở các đô thị và khu công
nghiệp.
- Thông tư liên tịch số 2237/1999/TTLT/BKHCNMT – BYT ngày
28/12/1999 của Bộ KHCN và Môi trường nay là Bộ Tài nguyên môi trường –
Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện an toàn bức xạ trong y tế [3].
2.5.4. Các văn bản của Bộ KHCNMT (nay là Bộ Tài nguyên và môi trường
và Bộ Y tế
- Quyết định số 62/2001/QĐ – BKHCNMT ngày 21/11/2001 ban hành
các tiêu chuẩn kỹ thuật đối với lò đốt chất thải y tế.
- Công văn số 4527 – ĐTr ngày 8/6/1996 của Bộ y tế hướng dẫn xử lý
chất thải rắn trong bệnh viện.
- Quyết định số 1850/QĐ – BYT ngày 19/9/1997 ban hành quy chế bệnh
viện trong đó có quy chế công tác xử lý chất thải.
- Quyết định số 2575/1999/QĐ – BYT ngày 27/8/1999 của Bộ trưởng Bộ
Y tế về việc ban hành Quy chế quản lí chất thải y tế [3].
2.6. Hiện trạng công tác quản lý và xử lý rác thải y tế trên thế giới
2.6.1. Quy trình phân loại, lưu giữ và thu gom
Theo quy định của Tổ chức y tế Thế giới cho các nước đang phát triển:
việc thu gom chất thải y teea theo từng loại riêng biệt vào các loại túi nilon có
màu sắc khác nhau được quy định cụ thể ở từng Quốc gia.
Ví dụ ở Malayxia: túi màu vàng đựng chất thải y tế phải đốt. Ngồi các

túi có vạch định mức 2/3 và dịng chữ “ khơng đựng q vạch này”. Đung tích
tối thiểu 0,1m3; túi màu đen đựng chất thải sinh hoạt và túi màu xanh đựng chất
thải cần khử khuẩn trước khi tiêu hủy. Thùng giấy/nhựa màu vàng có kí hiệu
nguy hại đựng vật sắc nhọn. Có khả năng chịu va đập, có vạch định mức 2/3.
Thùng có bọc chất dạng polymer để tránh sự đâm thủng.
Mỗi phòng khám chữa bệnh, phịng bệnh nhân… có thùng đựng chất thải
được chia làm nhiều ngăn thuận tiện cho việc phân loại, phù hợp với lượng chất

14


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B

thải phát sinh hàng ngày. Quy định nơi để thùng rác và giờ thu gom 2 – 3
lần/ngày, đồng thời thu gom khi cần.
Khu tập trung rác thải của bệnh viện có mái che, hệ thống thoát nước,
thuận tiện cho xe chuyên chở ra vào, có hàng rào bảo vệ… Khu lưu giữ chất thải
y tế riêng biệt với khu chất thải sinh hoạt thơng thường [17].
2.6.2. Quy trình vận chuyển
Theo quy định của Tổ chức y tế Thế giới, việc vận chuyển chất thải bệnh
viện phải tuân theo những nguyên tắc riêng, nghiêm ngặt.
Ví dụ tại Malayxia: các túi chất thải buộc kín và dán nhãn có tên nơi phát
sinh trước khi đưa ra khỏi phòng. Chất thải là bệnh phẩm nếu chưa xử lý ngay
được bảo quản trong phòng lạnh. Đường vận chuyển chất thải tránh đi qua các
khu vực đông người. Khi chất thải bị đổ nhân viên cần cọ rửa nền nhà ngay. Xe
dùng vận chuyển là xe chuyên dụng, dễ cho chất thải vào, dễ làm vệ sinh…
Nhân viên có trang bị đồ bảo hộ đầy đủ, được học nội quy phịng cháy , quy
trình thu gom rác. Khi vận chuyển chất thải ra ngồi bệnh viện: khơng để chung

chất thải bệnh viện với chất thải sinh hoạt bình thường, hoặc có buồng để riêng.
Có hệ thống hóa đơn ghi chép về lượng, ngày chuyên chở chất thải, ghi chép
được lưu giữ trong một năm [17].
2.6.3. Quy trình xử lý
Theo nghiên cứu kinh nghiệm xử lý chất thải y tế của nhiều nước trên thế
giới công nghệ xử lý chất thải rắn y tế cơ bản bao gồm [18]:
- Xử lý hóa sinh (khử trùng).
- Chơn lấp riêng biệt.
- Thiêu đốt.
+ Phương pháp xử lý hóa sinh là phương pháp sinh học nhằm phân hủy
chất thải nhờ các vi sinh vật hiếu khí và kỵ khí. Phương pháp này cần thời gian
lâu, hơn nữa nó khơng có khả năng phân hủy những chất độc vô cơ.

15


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B

+ Phương pháp chơn lấp là phương pháp dễ làm ít tốn kém, nhưng phương
pháp này cũng có những nhược điểm sau: Diện tích đất sử dụng hết nhiều rác
sau khi chôn thường bị những người nhặt rác bới lên để lấy những vật dụng có
thể tái chế, chuột và những cơn trùng khác có thể tha đi nơi khác. Như vậy, chất
độc có nhiề khả năng quay trở lại mơi trường. Ngồi ra, nước mưa thấm vào hố
chơn rác có thể làm ảnh hưởng tới nguồn nước những vùng xung quanh. Bởi
vậy, chôn lấp không phải là phương pháp tốt nhất để giải quyết chất thải nguy
hiểm độc hại.
+ Phương pháp đốt là phương pháp dùng nhiệt để phân hủy các chất vô
cơ và hữu cơ thành dạng khí và tro xỉ. Khí sinh ra sẽ được xử lý tiếp, tro xỉ được

chôn lấp. Xử lý chất thải rắn y tế bằng phương pháp thiêu đốt đang được đánh
giá là đem lại hiệu quả cao; mặc dù chi phí cho xử lý cao, song nó cho phép xử
lý đồng thời nhiều loại chất thải ( có cơ cấu thành phần chất thải phức tạp), đảm
bảo tiệt trùng cao, giảm được hơn 90% thể tích chất thải, khả năng ngăn ngừa
truyền dịch bệnh cao.
- Có hai phương pháp đốt:
+ Đốt tự nhiên: Chất thải được tập trung tại thung lũng đồi gò hoặc tập
trung trong bể để đốt. Phương pháp này chỉ thích hợp ở những vùng xa dân cư ít
nhất là 50km. Khi chất thải khơng được phân loại có thể áp dụng phương pháp
này.
+ Sử dụng lò thiêu hủy: để giảm chi phí xử lý, chất thải được phân loại,
những chất thải độc hại được thiêu đốt tại lò nhiệt độ cao.
Tuy nhiên tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi nước, khả năng tài chính,
điều kiện cơng nghệ, điều kiện đất đai, quan điểm và các yêu cầu về bảo vệ môi
trường, mà các nước khác nhau sẽ lựa chọn công nghệ xử lý khác nhau.

16


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B

2.7 Hiện trạng cơng tác quản lý và xử lý rác thải y tế tại Việt Nam
2.7.1 Quy định trong quản lý chất thải rắn tại các cơ sở y tế của Bộ Y tế
 Về phân loại chất thải rắn [4]

Theo Quy chế quản lý chất thải y tế, chất thải rắn y tế được chia làm 5
nhóm chính: chất thải y tế lây nhiễm, chất thải hóa học nguy hai, chất thải phóng
xạ, bình áp suất và chất thải thơng thường. Trong chất thải lây nhiễm lại được

phân thành 4 nhóm là chất thải lây nhiễm sắc nhọn, chất thải lây nhiễm khơng
sắc nhọn, chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao và chất thải giải phẫu.
Các loại chất thải này được đựng trong các túi và thùng có màu sắc tương
ứng, túi màu xanh đựng CTR thơng thường và bình áp suất nhỏ; túi màu vàng
đựng chất thải lây nhiễm; túi màu đen đựng chất thải phóng xạ và hóa học nguy
hại; túi màu trắng đựng chất thải tái chế, tái sử dụng. Chất thải được phân loại
ngay tại nơi phát sinh và từng loại chất thải này phải đựng trong các túi và thùng
có mã màu kèm theo biểu tượng theo quy định.
 Thu gom và vận chuyển chất thải rắn trong cơ sở y tế [4]

Mỗi khoa, phòng phải định rõ vị trí đặt thùng đựng chất thải y tế cho từng
loại chất thải, nơi phát sinh chất thải phải có loại thùng thu gom tương ứng. Nơi
đặt thùng đựng chất thải phải có hướng dẫn cách phân loại và thu gom. Sử dụng
thùng đựng chất thải theo đúng tiêu chuẩn quy định và phải được vệ sinh hàng
ngày. Túi sạch thu gom chất thải phải ln có sẵn tại nơi chất thải phát sinh để
thay thế cho túi cùng loại đã được thu gom chuyển về nơi lưu giữ tạm thời chất
thải của cơ sở y tế. Mỗi loại chất thải được thu gom vào các dụng cụ thu gom
theo mã màu quy định và phải có nhãn hoặc ghi bên ngoài túi nơi phát sinh chất
thải. Các chất thải y tế nguy hại không được để lẫn trong chất thải thơng thường.
Nếu vơ tình để lẫn chất thải y tế nguy hại vào chất thải thông thường thì hỗn hợp
chất thải đó phải được xử lý và tiêu hủy như chất thải y tế nguy hại. Lượng chất
thải chứa trong mỗi túi chỉ đầy tới 3/4 túi, sau đó buộc cổ túi lại. Hộ lý hoặc
nhân viên được phân công hàng ngày chịu trách nhiệm thu gom các chất thải y

17


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B


tế nguy hại và chất thải thông thường từ nơi chất thải phát sinh về nơi tập trung
chất thải của khoa ít nhất 1 lần trong ngày và khi cần. Chất thải có nguy cơ lây
nhiễm cao trước khi thu gom về nơi tập trung chất thải của cơ sở y tế phải được
xử lý ban đầu tại nơi phát sinh chất thải.
Chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường phát sinh tại các
khoa/phòng phải được vận chuyển riêng về nơi lưu giữ chất thải của cơ sở y tế ít
nhất một lần một ngày và khi cần. Cơ sở y tế phải quy định đường vận chuyển
và giờ vận chuyển chất thải. Tránh vận chuyển chất thải qua các khu vực chăm
sóc người bệnh và các khu vực sạch khác. Túi đựng chất thải phải buộc kín
miệng và được vận chuyển bằng xe chuyên dụng; không được làm rơi, vãi chất
thải, nước thải và phát tán mùi hôi trong quá trình vận chuyển.
 Nơi lưu giữ và thời gian lưu giữ chất thải rắn trong các cơ sở y tế[4]

Việc lưu giữ chất thải phải theo nguyên tắc chất thải y tế nguy hại và chất
thải thông thường phải lưu giữ trong các buồng riêng biệt; chất thải để tái sử
dụng, tái chế phải được lưu giữ riêng. Nơi lưu giữ chất thải tại các cơ sở y tế
phải có đủ các điều kiện sau: cách xa nhà ăn, buồng bệnh, lối đi công cộng và
khu vực tập trung đông người tối thiểu là 10 mét; có đường để xe chuyên chở
chất thải từ bên ngoài đến. Nhà lưu giữ chất thải phải có mái che, có hàng rào
bảo vệ, có cửa và có khóa, khơng để súc vật, các lồi gậm nhấm và người khơng
có nhiệm vụ tự do xâm nhập, diện tích phù hợp với lượng chất thải phát sinh của
cơ sở y tế, có phương tiện rửa tay, phương tiện bảo hộ cho nhân viên, có dụng
cụ, hóa chất làm vệ sinh, có hệ thống cống thốt nước, tường và nền chống
thấm, thơng khí tốt. Khuyến khích các cơ sở y tế lưu giữ chất thải trong nhà có
bảo quản lạnh.
Về thời gian lưu giữ chất thải răn nguy hại trong các cơ sở y tế không quá
48 giờ. Đối với những cơ sở y tế lưu giữ chất thải trong nhà bảo quản lạnh hoặc
thùng lạnh thì thời gian lưu giữ có thể đến 72 giờ. Chất thải giải phẫu phải
chuyển đi chôn hoặc tiêu hủy hàng ngày. Tuy nhiên đối với các cơ sở y tế có


18


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B

lượng chất thải y tế nguy hại phát sinh dưới 5 kg/ngày, thời gian thu gom tối
thiểu hai lần trong một tuần
 Vận chuyển chất thải rắn ra ngoài bệnh viện [4]

Các cơ sở y tế ký hợp đồng với cơ sở có tư cách pháp nhân trong việc vận
chuyển và tiêu hủy chất thải. Trường hợp địa phương chưa có cơ sở đủ tư cách
pháp nhân vận chuyển và tiêu hủy chất thải y tế thì cơ sở y tế phải báo cáo với
chính quyền địa phương để giải quyết. Chất thải y tế nguy hại phải được vận
chuyển bằng phương tiện chuyên dụng bảo đảm vệ sinh, đáp ứng yêu cầu tại
Thông tư số 12/2006/TT-BTNMT ngày 26 tháng 12 năm 2006 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường hướng dẫn điều kiện hành nghề và thủ tục lập hồ sơ, đăng
ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý chất thải nguy hại. Chất thải y tế nguy
hại trước khi vận chuyển tới nơi tiêu hủy phải được đóng gói trong các thùng để
tránh bị bục hoặc vỡ trên đường vận chuyển. Đối với chất thải giải phẫu phải
đựng trong hai lượt túi màu vàng, đóng riêng trong thùng hoặc hộp, dán kín nắp
và ghi nhãn “CHẤT THẢI GIẢI PHẪU” trước khi vận chuyển đi tiêu hủy.
Tuy nhiên, việc vận chuyển chất thải ra khỏi bệnh viện phải có hồ sơ theo
dõi. Mỗi cơ sở y tế phải có hệ thống sổ theo dõi lượng chất thải phát sinh hàng
ngày; có chứng từ chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường được chuyển
đi tiêu hủy theo mẫu quy định tại Thông tư số 12/2006/TT-BTNMT ngày 26
tháng 12 năm 2006 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn điều kiện hành
nghề và thủ tục hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý chất thải

nguy hại.
 Về xử lý chất thải rắn y tế [4]

Việc lựa chọn công nghệ xử lý chất thải y tế nguy hại phải bảo đảm tiêu
chuẩn môi trường và đáp ứng các yêu cầu của các Công ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên.
Các công nghệ xử lý chất thải y tế nguy hại gồm: thiêu đốt trong lò đốt đạt tiêu
chuẩn mơi trường, khử khuẩn bằng hơi nóng ẩm; cơng nghệ vi sóng và các cơng
nghệ xử lý khác. Khuyến khích áp dụng cơng nghệ thân thiện với mơi trường.

19


Khóa luận tốt nghiệp

Đinh Thị Hịa MT52B

2.7.2 Thực trạng quản lý và xử lý chất thải rắn y tế tại Việt Nam
Việt Nam hiện là quốc gia đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định
trong khu vực và quốc tế, tuy nhiên điều này cũng làm nảy sinh nhiều thách thức
đối với môi trường. Theo báo cáo của Cục Y tế Dự phịng và Mơi trường, hiện
cả nước có trên 1000 bệnh viện có giường bệnh; 14 viện/trung tâm tuyến trung
ương và khu vực; 189 trung tâm y tế dự phòng tuyến tỉnh; 686 trung tâm y tế
huyện/dự phịng tuyến huyện; 181 cơng ty, xí nghiệp sản xuất thuốc và 11.104 trạm
y tế xã, phường. Tổng lượng chất thải rắn phát sinh từ các cơ sở y tế này khoảng
350 tấn/ngày, trong đó có 40,5 tấn/ngày là chất thải rắn y tế nguy hại [1].
Ở Việt Nam, việc xử lý chất thải chủ yếu do các công ty môi trường đô thị
(URENCO) thực hiện. Đây là cơ quan chịu trách nhiệm thu gom và tiêu huỷ
chất thải sinh hoạt, bao gồm cả chất thải sinh hoạt gia đình, chất thải văn phịng,
đồng thời cũng là cơ quan chịu trách nhiệm xử lý cả chất thải công nghiệp và y

tế trong hầu hết các trường hợp. Về mặt lý thuyết, mặc dù các cơ sở công nghiệp
và y tế phải tự chịu trách nhiệm trong việc xử lý các chất thải do chính cơ sở đó
thải ra, trong khi Chính phủ chỉ đóng vai trị là người xây dựng, thực thi và
cưỡng chế các quy định/văn bản quy phạm pháp luật liên quan, song trên thực
tế, Việt Nam chưa thực sự triển khai theo mơ hình này.
Ở nước ta hiện tại có 95,6% bệnh viện có phân loại chất thải rắn, 90,9%
bệnh viện thực hiện thu gom chất thải rắn y tế hàng ngày nhưng chỉ có khoảng
50% các bệnh viện trên phân loại, thu gom chất thải rắn y tế đúng quy định [16].
Hiện nay phương tiện thu gom chất thải y tế như túi, thùng đựng chất thải, xe
đẩy rác, nhà chứa rác... còn thiếu và chưa đồng bộ, hầu hết chưa đạt tiêu chuẩn
theo yêu cầu của Quy chế quản lý chất thải y tế (Bộ Y tế).
Theo thống kê của Bộ Y tế, mỗi ngày, toàn bộ hệ thống y tế trên toàn
quốc thải ra 500 tấn rác, trong đó có khoảng 60-70 tấn là rác thải độc hại, phải
xử lý. Tuy nhiên, chỉ có 1/3 số chất thải rắn được đốt bằng lị đốt hiện đại và có
thể đảm bảo an tồn mơi trường... Số cịn lại được tiêu hủy bằng nhiều hình thức

20



×