Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại trà môn khtn 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.51 KB, 5 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI TRÀ MÔN
KHTN 6

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm học 2021-2022 là một năm học đáng nhớ, đánh dấu sự thay đổi lớn trong giáo
dục THCS với việc thay sách giáo khoa lớp 6. Đối với tất cả các mơn học nói chung và
mơn khoa học tự nhiên nói riêng, việc dạy học theo lối truyền thụ một chiều đã buộc học
sinh chấp nhận kiến thức một cách lý thuyết suông, thụ động, không gắn kết được với
thực tiễn, học sinh không hình thành kỹ năng thì các kiến thức đó sẽ thật khô cứng và
nhàm chán.
Trong dạy học môn khoa học tự nhiên lớp 6 giúp học sinh không những mở rộng vốn
tri thức nào đó mà cịn giúp các em hình thành năng lực tư duy, khả năng phán đốn và
giải quyết vấn đề. Chính vì vậy, trong các giờ dạy học khoa học tự nhiên 6 nói riêng và
mơn khoa học thực nghiệm nói chung cần phải có thiết bị, đồ dùng dạy học để giúp học
sinh khơi dậy và ni dưỡng khát vọng tự tìm ra câu trả lời cho một vấn đề đã nêu, cảm
giác hài lòng khi đã nỗ lực khám phá để giải quyết thành cơng vấn đề nảy sinh để rồi từ
đó kích thích sự phát triển năng lực tư duy, lòng say mê khám phá khoa học của học sinh.
Đối với trường trung học cơ sở, thực tế của việc đổi mới phương pháp dạy học và
thay sách giáo khoa cho các lớp 6 với bộ môn Khoa học tự nhiên thay thế cho mơn Lý,
Sinh và có thêm kiến thức bộ mơn Hóa trong chương trình cũ địi hỏi giáo viên phải thay
đổi tư duy khi soạn bài và lên lớp để bám sát yêu cầu của chương trình sách giáo khoa
tổng thể 2018. Để thay đổi được phương pháp giảng dạy mơn khoa học tự nhiên 6 thì
việc sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học mới cùng với tận dụng đồ dùng hiện có là điều vơ
cùng quan trọng. Nhưng vấn đề đặt ra là sử dụng các thiết bị đó như thế nào cho hiệu quả
và làm thế nào để các em có thể tự tiến hành các thí nghiệm, từ đó các em tự tìm ra kiến
thức của bài học và áp dụng kiến thức đó vào cuộc sống, đó chính là vấn đề mà mỗi giáo
viên dạy khoa học tự nhiên đều phải quan tâm
Trong hệ thống giáo dục và đào tạo, giáo dục phổ thơng đóng vai trị đặc biệt quan
trọng, nó đặt nền móng cho việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Trong hệ thống đó, giáo dục THCS là một điểm chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo, là
mắt xích quan trọng trong hệ thống giáo dục phổ thơng hồn chỉnh. Nếu Giáo dục phổ


thơng là nền tảng của sự hình thành nhân cách, thì giáo dục THCS có ý nghĩa quyết định
đến việc hình thành nhân cách học sinh vì lứa tuổi này, học sinh bộc lộ rõ tài năng và
hình thành hướng đi cho bản thân. Đây là một cấp học giúp cho các em có chí hướng
phấn đấu học lên bậc trung học phổ thơng để tạo nguồn nhân tài cho đất nước.
Từ thực tế nhà trường cùng với sự phát triển đi lên của ngành giáo dục cũng đã đạt được
nhiều thành tích. Tuy nhiên những bất cập về chun mơn vẫn cịn tồn tại. đó chính là


sự chênh lệch chất lượng giáo dục giữa các các học sinh trong lớp, trong khối. Tỉ lệ học
sinh yếu kém còn cao, chất lượng mũi nhọn, chất lượng đại trà bấp bênh khơng ổn định vì
vậy việc lựa chọn hướng đi, giải pháp phù hợp là suy nghĩ và trăn trở cuả tổ KHTN:
“Làm thế nào để nâng chất lượng giáo dục đại trà trong nhà trường”?
Với nhiều năm làm cơng tác quản lý, tơi nhận thấy, ngồi việc phát hiện và bồi dưỡng
học sinh giỏi, phát hiện nhân tài thì việc nâng cao chất lượng đại trà lại cực kỳ quan
trọng. Với học sinh phải có kiến thức cơ bản thì mới có kiến thức học tập nâng cao, có
tìm tịi và hiểu biết xã hội. Tơi đã mạnh dạn đổi mới trong công tác quản lý và nhận thấy
chất lượng giáo dục đại trà của nhà trường có sự chuyển biến rõ rệt, giáo dục mũi nhọn
ngày được khẳng định, nhà trường luôn đứng tốp đầu các trường đại trà về tỷ lệ đỗ vào
lớp 10 THPT, các kỳ thi chọn HSG, các sân chơi trí tuệ.
Từ thực tế trên, Tổ KHTN chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
đại trà ở trường THCS Diễn Cát ” với mục đích nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện,
nâng cao dân trí cho địa phương và mong muốn được góp phần nhỏ cùng tập thể nhà
trường và nhân dân địa phương tìm ra hệ thống các giải pháp phù hợp không ngừng nâng
cao chất lượng giáo dục.

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Thực trạng công tác dạy và học mơn KHTN
Đặt vấn đề
Dạy học tích hợp là một trong những xu hướng dạy học tất yếu và phù hợp với định
hướng đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục theo hướng phát triển năng lực người

học.
Theo chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể thì cấp trung học cơ sở thực hiện lồng
ghép những nội dung liên quan với nhau của một số lĩnh vực giáo dục, một số mơn học
trong chương trình hiện hành để tạo thành mơn học tích hợp trong đó có mơn khoa học
tự nhiên ở cấp trung học cơ sở. Nội dung chủ yếu của mơn học là tích hợp chủ yếu các
lĩnh vực kiến thức về Vật lý, Hố học, Sinh học…. Cấu trúc nội dung mơn Khoa học Tự
nhiên ở cấp trung học cơ sở gồm các chủ đề phân mơn Vật lý, Hố học, Sinh học,
Khoa học trái đất đồng thời có thêm một số chủ đề liên phân môn được sắp xếp sao
cho vừa bảo đảm liên hệ theo logic tuyến tính vừa tích hợp đồng tâm, hình thành các
nguyên lý, quy luật chung của thế giới tự nhiên.
Hiện nay, các trường THCS vẫn đang triển khai dạy các môn khoa học tự nhiên riêng
lẻ, việc tích hợp chỉ dừng lại ở mức độ lồng ghép. Việc triển khai dạy mơn tích hợp
khoa học tự nhiên (KHTN) đang là một bài tốn khó cho các trường. Chúng tơi tiến
hành khảo sát nhằm tìm hiểu thực trạng và khả năng đáp ứng của giáo viên (GV), học


sinh (HS), cơ sở vật chất (CSVC) về dạy học tích hợp liên mơn khoa học tự nhiên tại
các trường THCS vùng Đông Nam Bộ.
Trong tổng số giáo viên dạy các môn khoa học tự nhiên được khảo sát, tỉ lệ giáo viên
được đào tạo đơn mơn có phần nhỉnh hơn. Tuy nhiên tỉ lệ giáo viên được đào tạo dạy
hai môn trở lên cũng chiếm tỉ lệ khá lớn gần 50%. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để
giáo viên dễ dàng thích ứng khi triển khai dạy mơn tích hợp KHTN. Khảo sát về các
mơn học mà giáo viên có thể đảm trách chúng tơi thu được kết quả như bảng trên. Chỉ
có 1 giáo viên tự tin dạy được ba mơn Vật lý- Hóa học- Sinh học, 7,8% giáo viên dạy
được 2 mơn Lý - Hóa, 19,5% giáo viên có thể dạy được 2 mơn Hóa - Sinh. Số cịn lại
chỉ có khả năng dạy đơn mơn. Kết quả trên cho thấy rằng, lực lượng giáo viên chưa
sẵn sàng để dạy kiến thức liên môn Lý - Hóa - Sinh.
Khi được hỏi, Thầy,Cơ đã từng phối hợp GV 3 mơn Lý, Hố, Sinh biên soạn và
dạy học theo chủ đề tích hợp liên mơn, kết quả chúng tôi thu được như sau. 19,5% đã
từng biên soạn chủ đề liên mơn trong khi có đến 80,5% giáo viên chưa từng làm điều

này. Trong số giáo viên đã từng biên soạn chủ đề liên mơn thì giáo viên tại TP.HCM và
Bà Rịa-Vũng Tàu chiếm tỉ lệ nhiều hơn Bình Phước.
Về năng lực dạy học tích hợp, tỉ lệ giáo viên tự đánh giá tốt nhất là năng lực đặt và giải
quyết vấn đề (với tỉ lệ cộng dồn là 63,6%). Kế đến là năng lực kiểm tra đánh giá theo
hướng phát triển năng lực học sinh với tỉ lệ cộng dồn là 61%. Năng lực quan trọng
trong dạy học tích hợp là năng lực chun mơn sâu, kiến thức liên ngành rộng và năng
lực thiết kế dạy học theo hướng tích hợp được giáo viên tự đánh giá tốt và rất tốt với tỉ
lệ tương ứng là 54,6% và 50,7%.
Về khó khăn, theo giáo viên, khó khăn lớn nhất nằm ở học sinh. Tuy cho rằng học sinh
có hứng thú trong việc vận dụng các kiến thức liên môn để giải quyết vấn đề thực tiễn,
nhưng 63,7% giáo viên đồng ý rằng HS còn thụ động trong học tập và trong các hoạt
động trải nghiệm; 53,3% giáo viên cho rằng học sinh chưa quen với việc học tập tích
hợp. Điều này cũng dễ hiểu, vì các em đã quen với cách học 3 môn khoa học tự nhiên
riêng lẻ như trước đây. Nên để thay đổi phương pháp học mới cần có thời gian để làm
quen và thích ứng. Khó khăn tiếp theo là sự hợp tác của giáo viên các phân môn với tỉ
lệ đồng ý khá cao 62,4%. Giáo viên cũng cảm thấy khó khăn khi bản thân được đào tạo
để dạy đơn mơn nên khó dạy kiến thức của môn khác cũng chiếm tỉ lệ đồng ý gần 60%.
Mức độ đáp ứng của học sinh
Cả ba đối tượng GV, HS và CBQL đều đánh giá cao học sinh ở sự ham thích đối với
mơn KHTN (chiếm tỉ lệ 37,7% đối với GV, 43,2% đối với HS và 45,5% đối với CBQL).
Học sinh tự đánh giá mức độ đáp ứng tốt của học sinh về mức độ tham gia của học
sinh trong việc nghiên cứu khoa học và vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết vấn
đề thực tiễn là 33,9% và khả năng tự học của học sinh là 33,5%. Tuy nhiên, giáo viên
và CBQL khơng đánh giá cao học sinh ở các tiêu chí này. Tỉ lệ giáo viên phân vân cao


hơn nhiều (gấp từ 3 - 6 lần) so tỉ lệ giáo viên đánh giá học sinh ở mức tốt. Giáo viên
cịn hồi nghi khả năng đáp ứng của học sinh khi triển khai dạy học tích hợp.
3. Mức độ đáp ứng của giáo viên
Tự đánh giá về mức độ đáp ứng của giáo viên, tỉ lệ cao nhất giáo viên đánh giá bản

thân đạt được ở mức tốt và rất tốt là khả năng tự học, tự nghiên cứu và năng lực về
kiểm tra đánh giá theo năng lực với tỉ lệ cộng dồn tương ứng là 64,9% và 63,2%. Trình
độ chun mơn về Tốn, khoa học của GV Vật lý, Hóa học, Sinh học được giáo viên
đánh giá tốt chiếm tỉ lệ 44,2%.
CBQL lại đánh giá “Trình độ chun mơn về Tốn, khoa học của GV Vật lý, Hóa học,
Sinh học” có mức độ đáp ứng chiếm tỉ lệ cao nhất (45,5%) nhưng vẫn chưa đạt mức
trung bình 50%. CBQL đánh giá mức độ đáp ứng của giáo viên ở mức tốt chiếm tỉ lệ
thấp, đặc biệt là Sự hợp tác của giáo viên các đơn môn Vật lý, Hóa học, Sinh học, chỉ
có 9,1% CBQL đánh giá giáo viên đáp ứng tốt.
4. Mức độ đáp ứng cơ sở vật chất
Đánh giá về mức độ đáp ứng về cơ sở vật chất của nhà trường, tiêu chí được cả ba đối
tượng khảo sát đánh giá đáp ứng tốt trên 50% là “Có đầy đủ phịng học bộ mơn Vật lý,
Hoá học và Sinh học”, mức độ đáp ứng thấp nhất thuộc về “Hạ tầng CNTT, internet của
trường’ chỉ 27,3% đáp ứng tốt. Do vậy, để triển khai dạy học tích hợp cần phải trang bị
cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại cho các trường.
5. Kết luận
Qua khảo sát thực trạng triển khai dạy học tích hợp mơn KHTN ở các trường THCS
vùng Đông Nam Bộ, chúng tôi rút ra được một số kết luận sau:
Để triển khai dạy học tích hợp mơn KHTN ở các trường THCS thì bên cạnh những
thuận lợi như giáo viên được đào tạo đa môn chiếm tỉ lệ khá cao, khả năng tự học của
giáo viên, sự quan tâm của nhà trường và các cấp lãnh đạo, thì cịn tồn tại một số khó
khăn. Theo giáo viên, khó khăn lớn nhất nằm ở học sinh. HS còn thụ động trong học
tập và trong các hoạt động trải nghiệm do đó khi triển khai chương trình giáo dục phổ
thơng mới sẽ gặp phải rào cản nhất định trong việc tiếp nhận. Một khó khăn đáng kể là
giáo viên chưa tự tin dạy học tích hợp mơn KHTN và sự hợp tác của giáo viên các
phân môn chưa chặt chẽ và hiệu quả.
Để triển khai dạy học tích hợp mơn KHTN thì giáo viên được đánh giá chưa đáp ứng tốt
về kiến thức liên ngành và chưa tự tin để dạy tích hợp liên môn. Tuy nhiên giáo viên
đáp ứng tốt về khả năng tự học, do vậy với đội ngũ này nếu được bồi dưỡng sẽ nâng
cao được năng lực liên ngành đáp ứng dạy học tích hợp. Về mức độ đáp ứng của học

sinh khi triển khai dạy học tích hợp, giáo viên và CBQL không đánh giá cao học sinh ở


khả năng tự học và vận dụng kiến thức liên môn giải quyết các vấn đề thực tiễn. Cơ sở
vật chất hiện nay cũng chưa đáp ứng được việc dạy học tích hợp mơn KHTN.
Do vậy cần có những giải pháp cơ bản, cần thiết nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ
giáo viên về dạy tích hợp mơn KHTN, năng lực học tập tích hợp cho học sinh, tăng
cường sự quản lý của các cấp BGH Trường, Phòng Giáo dục, Sở Giáo dục và tăng
cường cơ sở vật chất để việc triển khai giảng dạy môn KHTN tại các trường THCS sau
năm 2019 đạt hiệu quả tốt nhất.

2.Biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy.



×