Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tìm hiểu pháp luật về trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh và thành viên của công ty hợp danh so sánh với pháp luật nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.62 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sự chuyển đổi của nền kinh tế thị trường từ tập trung bao cấp sang phát
triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần tạo nên bước ngoặt lớn trong sự đi
lên của nền kinh tế đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Sự
chuyển đổi này có ý nghĩa quan trọng tạo nên tiền đề cho cơng cuộc cơng
nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay.
Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết cho tình hình mới của nền kinh tế đất nước,
đó là nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường cần có sự thay đổi căn bản về
pháp luật kinh doanh. Trong đó có sự xuất hiện của loại hình doanh nghiệp mới
đó chính là cơng ty hợp danh. Liệu pháp luật nước ta có những quy định như thế
nào về trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh và thành viên của cơng ty hợp
danh. Có gì khác so với nước ngoài. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này mà em đã
chọn đề tài:
Tìm hiểu pháp luật về trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh và thành viên
của công ty hợp danh. So sánh với pháp luật nước ngoài.

NỘI DUNG
I – Cơ sở lý luận
1. Khái niệm công ty hợp danh
Công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp là một loại hình doanh nghiệp, bởi
vậy phải thừa nhận rằng công ty hợp danh trước hết phải là: “ tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.”
Từ cách hiểu này về doanh nghiệp ta có thể khái quát về công ty hợp danh
trên cơ sở quy định tại Điều 130 LDN:

1


“ Cơng ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: Phải có ít nhất hai thành
viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên


chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có
thể có thành viên góp vốn;”
Tại khoản 1, Điều 26 Nghị định của Chính phủ số 03/2000/NĐ-CP ngày
03 tháng 02 năm 2000 hướng dẫn thi hành một số điều của luật doanh nghiệp
quy định:
“ Có hai loại công ty hợp danh là công ty hợp danh có tất cả thành viên đều là
thành viên hợp danh và cơng ty hợp danh có cả thành viên hợp danh và thành
viên góp vốn.”
Có thể thấy khái niệm công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp của Việt
Nam có nội hàm của khái niệm cơng ty đối nhân theo pháp luật các nước. Với
quy định về công ty hợp danh, Luật doanh nghiệp đã ghi nhận sự tồn tại của
công ty đối nhân ở Việt Nam.
2. Đặc điểm pháp lý của công ty hợp danh
- Về thành viên của công ty hợp danh:
Trong công ty hợp danh bắt buộc phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu
chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (thành viên hợp
danh); ngoài các thành viên hợp danh cịn có thể có thêm thành viên góp vốn.
Thành viên hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của
mình về các nghĩa vụ của cơng ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào cơng ty.
- Về trách nhiệm tài sản trong công ty:
Công ty hợp danh chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn của công ty.
Thành viên hợp danh liên đới chịu trách nhiệm vô hạn. Thành viên góp vốn chịu
trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào cơng ty.
- Về tư cách pháp lý:

2


Cơng ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng

nhận đăng ký kinh doanh.
- Phát hành chứng khốn:
Trong q trình hoạt động cơng ty hợp danh khơng được phát hành bất kỳ
loại chứng khốn nào.

II - Pháp luật về trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh
và thành viên của công ty hợp danh .
1. Pháp luật về trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh
Khác với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, công ty hợp danh
không được hưởng chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn. Công ty hợp danh không
chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn đầu tư vào kinh doanh mà còn phải
dùng tài sản cá nhân của thành viên hợp danh để chịu trách nhiệm thanh toán
các khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh của công ty.
Công ty hợp danh chịu trách nhiệm tài sản trong phạm vi tài sản của công
ty. Điều 132 LDN đã quy định về tài sản của công ty hợp danh bao gồm:
“ 1. Tài sản góp vốn của các thành viên đã được chuyển quyền sở hữu cho
công ty.
2. Tài sản tạo lập được mang tên công ty.
3. Tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh do các thành viên hợp danh
thực hiện nhân danh công ty và từ các hoạt động kinh doanh các ngành,
nghề kinh doanh đã đăng ký của công ty do các thành viên hợp danh
nhân danh cá nhân thực hiện.
4. Các tài sản khác theo quy định của pháp luật.”
2. Trách nhiệm tài sản của thành viên của công ty hợp danh.
Căn cứ vào tính chất thành viên và chế độ chịu trách nhiệm tài sản sẽ có hai
loại công ty hợp danh: công ty hợp danh chỉ bao gồm những thành viên hợp
danh ( chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công
3



ty ) và công ty hợp danh bao gồm cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn
( chịu trách nhiệm hữu hạn ). Quy chế pháp lý của thành viên hợp danh và thành
viên góp vốn là khác nhau xuất phát từ chế độ chịu trách nhiệm tài sản của họ.
2.1 Thành viên hợp danh liên đới chịu trách nhiệm vô hạn.
Trách nhiệm tài sản của các thành viên hợp danh đối với các nghĩa vụ của
công ty là trách nhiệm vô hạn và liên đới (chịu trách nhiệm thay cho các thành
viên khác). Chủ nợ có quyền yêu cầu bất kì thành viên hợp danh nào thanh tốn
các khoản nợ của cơng ty đối với chủ nợ. Sau đó, người mà đã trả tất cả khoản
nợ có thể quay lại u cầu cơng ty thanh tốn lại, anh ta cũng có thể yêu cầu đến
các đồng thành viên trong công ty và trong trường hợp này, các đồng thành viên
khác phải hoàn lại số nợ cho người đã thanh toán theo tỷ lệ được quy định trong
điều lệ công ty hoặc, nếu trong điều lệ công ty khơng quy định, theo tỷ lệ phần
đóng góp vào vốn điều lệ (Bộ luật Dân sự, Điều 1844, khoản 1
Thành viên hợp danh liên đới chịu trách nhiệm vô hạn vì cơng ty hợp
danh được thành lập trên cơ sở mối quan hệ quen biết giữa các thành viên, họ
cùng góp vốn, hiểu biết của mình để thành lập cơng ty. Khơng có sự tách bạch
về tài sản của cơng ty với cá nhân.
Mặt khác, các thành viên hợp danh phải bằng tồn bộ tài sản của mình
(tài sản đầu tư vào kinh doanh và tài sản dân sự) chịu trách nhiệm về các nghĩa
vụ của công ty. Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 130 LDN quy định:
“Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng tồn bộ
tài sản của mình về các nghĩa vụ của cơng ty”
Chịu trách nhiệm vơ hạn có nghĩa là phải chịu trách nhiệm bằng tồn bộ
tài sản của mình hiện có hoặc sẽ có trong tương lai.
“Thành viên hợp danh có nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm thanh tốn
hết số nợ cịn lại của cơng ty nếu tài sản của công ty không đủ để trang trải hết
số nợ của công ty. (điểm đ khoản 2 điều 134 LDN).”

4



“Chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp vào cơng ty hoặc theo thỏa thuận
quy định tại điều lệ công ty trong trường hợp công ty kinh doanh bị lỗ”. (điểm
e khoản 2 điều 134 LDN).
Đây là một đặc điểm cơ bản khác biệt của công ty hợp danh với các loại
hình doanh nghiệp khác và cũng là điểm khác biệt của thành viên hợp danh và
thành viên góp vốn trong cùng cơng ty hợp danh. Góp phần bảo đảm quyền lợi
cho các bên khi tham gia vào quan hệ giao dịch với công ty hợp danh thong qua
chế dộ trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh. Với vai trị là thành viên
góp vốn chế độ trách nhiệm hữu hạn giúp cho thành viên có thể yên tâm đầu tư
vào công ty.
Trách nhiệm tài sản của thành viên hợp danh còn ràng buộc thành viên
hợp danh ngay cả khi thành viên đó đã chấm dứt tư cách thành viên hợp danh
của công ty hợp danh: “trong thời hạn 2 năm kể từ ngày chấm dứt tư cách
thành viên của thành viên hợp danh theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 1
điều này thì người đó vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình đối với các khoản nợ của cơng ty đã phát sinh trước ngày chấm dứt tư
cách thành viên” (khoản 5 điều 138 LDN).
Thành viên hợp danh chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình về
các khoản nợ và các nghĩa vụ tài chính khác của cơng ty hợp danh. Điều này có
nghĩa nếu cơng ty kinh doanh thất bại, thành viên hợp danh sẽ phải sử dụng các
tài sản cá nhân của mình (tiền, nhà, xe…) để trang trải các khoản nợ của công
ty.
Theo Điều 139 LDN thì trong q trình hoạt động, cơng ty hợp danh có
quyền tiếp nhận thêm thành viên hợp danh hoặc thành viên góp vốn. Việc tiếp
nhận thêm thành viên phải được hội đồng thành viên chấp thuận. Thành viên
hợp danh mới được tiếp nhận vào công ty phải cùng liên đới chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản khác của cơng ty ( trừ trường hợp có thỏa thuận khác ).

5



2.2 Thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn
đã góp vào cơng ty
Là thành viên của cơng ty đối nhân nhưng thành viên góp vốn hưởng chế
độ trách nhiệm tài sản như một thành viên của cơng ty đối vốn. Đây chính là lí
do cơ bản dẫn đến thành viên góp vốn có thân phận pháp lí khác với thành viên
hợp danh. Theo luật doanh nghiệp hiện hành:
“Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào cơng ty”. (điểm c khoản 1 điều 130)
“Thành viên góp vốn chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sản của khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp”. (điểm a khoản
2 điều 140).
Thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn, nghĩa là thành viên đó chỉ
chịu trách nhiệm về khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp vào cơng
ty. Khách hàng khơng có quyền địi thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn trả
tồn bộ số nợ cho mình, nếu số nợ đó lớn hơn phạm vi chịu trách nhiệm của
thành viên này. Pháp luật quy định như vậy vì: thành viên góp vốn chỉ góp để
hưởng phần trăm lợi nhuận tương ứng với số vốn góp, họ chỉ quan tâm tới lợi
nhuận. Họ có thể có hoặc khơng có mối quan hệ quen biết với các thành viên
trong cơng ty. Do đó, tuy là thành viên của loại hình cơng ty đối nhân nhưng họ
lại chịu trách nhiệm hữu hạn như công ty đối vốn.
Do xuất phát từ chế độ chịu trách nhiệm này mà quyền của thành viên
góp vốn hạn chế hơn so với thành viên hợp danh như trong việc quản lý và điều
hành công ty (thành viên hợp danh không được tham gia quản lý công ty, không
được tiến hành cơng việc kinh doanh nhân danh cơng ty…)
Về phía các thành viên của công ty hợp danh, các thành viên hợp danh
phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới, trong khi đó trách nhiệm tài sản của
thành viên góp vốn chỉ giới hạn ( chịu trách nhiệm hữu hạn ) trong phạm vi vốn
đã góp vào cơng ty.

6


III - So sánh với pháp luật nước ngồi
Cơng ty hợp danh Việt Nam có nhiều điểm tương đồng và khác biệt với lại
hợp danh của nhiều nước trên thế giới. Cụ thể, ta cùng tìm hiểu hợp danh của
Hoa Kì - một trong những nước có hệ thống pháp luật phát triển vào bậc nhất
trên thế giới để thấy được những ưu điểm, hạn chế của loại hình cơng ty này, từ
đó góp phần hồn thiện hơn hợp danh trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
1. Khái quát chung về cơng ty hợp danh Hoa kì
Trong các loại hình doanh nghiệp tại Mỹ, công ty hợp danh chiếm một
phần không nhỏ và được ưa chuộng. Hợp danh theo định nghĩa của pháp luật
Mỹ là sự liên kết của hai hay nhiều chủ sở hữu nhằm thực hiện kinh doanh thu
lợi nhuận. Hợp danh của Mỹ bao gồm hợp danh thơng thường và hợp danh hữu
hạn. Một hợp danh nói chung có những đặc trưng sau đây:
- Các thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ
của hợp danh.
- Các thành viên hợp danh vừa là chủ sở hữu của hợp danh, vừa là người
quản lý, điều hành. Trong hợp danh khơng có bộ máy quản lý chuyên biệt như ở
công ty.
- Hợp danh không có tư cách pháp nhân. Điều này có nghĩa là các giao
kết thương mại của pháp nhân do chính các thành viên của nó thực hiện. Các
hành vi pháp lý khác cũng được thực hiện thông qua các thành viên mà khơng
cần tới sự uỷ quyền. Chính vì đặc trưng này mà các nguyên tắc pháp lý về quan
hệ đại diện được áp dụng rất chặt chẽ trong hoạt động của hợp danh. Bất cứ
hành vi của thành viên hợp danh nào nếu được thực hiện nhân danh hợp danh và
trong phạm vi hoạt động của hợp danh đều có giá trị ràng buộc đối với hợp danh
đó cũng như đối với các thành viên của nó.
- Địa vị pháp lý của hợp danh chủ yếu được xây dựng bằng thoả thuận
hợp danh. Pháp luật Mỹ khơng có những địi hỏi chặt chẽ đối với hợp danh như


7


đối với công ty. Sự tồn tại của luật hợp danh chỉ áp dụng đối với những điểm
mà thoả thuận hợp danh có thể khơng đề cập tới.
- Tài sản của hợp danh và bản thân hợp danh là sở hữu chung theo phần
của các thành viên. Yếu tố này cộng với việc hợp danh khơng có tư cách pháp
nhân dẫn đến số phận bấp bênh của nó mỗi khi có thành viên rút lui. Theo luật
của Mỹ thì sự rút lui của một thành viên là điều kiện chấm dứt sự tồn tại của 1
hợp danh. Thành viên rút lui có thể yêu cầu chấm dứt hợp danh và thanh lý tài
sản.
- Tài sản của hợp danh không được ban hành dưới hình thức các cổ phiếu
và phần vốn góp khơng thể mua bán được như là cổ phần của các công ty. Hợp
danh hạn chế việc chuyển giao cổ phần cho người thứ ba. Việc chuyển giao cổ
phần có thể làm thay đổi đặc trưng của hợp danh - các thành viên hợp danh là
những người quen biết, dựa trên sự tin cậy lẫn nhau và nghĩa vụ trung thành
của các thành viên.
Hợp danh có hai biến dạng. Hợp danh thông thường là những hợp danh
mang các đặc trưng như vừa phân tích ở trên. Biến dạng khác là hợp danh hữu
hạn. Hợp danh hữu hạn là hợp danh trong đó có ít nhất hai thành viên trở lên và
ít nhất 1 thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn. Địa vị pháp lý của các thành viên
hữu hạn về cơ bản giống với quy định đối với thành viên của các hợp danh
thông thường. Điểm khác nhau cơ bản là sự tồn tại của loại thành viên trách
nhiệm hữu hạn chỉ góp vốn vào cơng ty hợp danh nhưng không tham gia vào
hoạt động kinh doanh hay hoạt động quản trị đó. Các thành viên này chỉ chịu
trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn góp của mình chứ khơng chịu
trách nhiệm cá nhân. Nếu như phần vốn góp trong hợp danh thơng thường mang
lại cho người góp vốn quyền đồng sở hữu trong tài sản của hợp danh, quyền
tham dự vào các hoạt động quản trị và quyền được phân chia lợi nhuận thu được

từ hoạt động kinh doanh của nó thì thành viên hữu hạn trong hợp danh chịu
trách nhiệm hữu hạn chỉ mang lại cho người góp vốn một số quyền nhất định.
2. So sánh với pháp luật Việt nam
8


 Giống nhau
+ Đều là sự liên kết của hai hay nhiều chủ sở hữu nhằm thực hiện kinh doanh
thu lợi nhuận.
+ Tài sản của hợp danh không được ban hành dưới hình thức các cổ phiếu và
phần vốn góp không thể mua bán được như là cổ phần của các cơng ty

 Khác nhau
Như đã phân tích ở trên, hợp danh ở Hoa Kỳ gồm 2 loại: hợp danh thơng
thường và hợp danh hữu hạn. Cịn ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp năm
2005 chỉ có 1 hợp danh duy nhất là sự kết hợp của hợp danh hữu hạn và hợp
danh vô hạn. Đây là điểm khác biệt giữa hợp danh của Hoa Kỳ và hợp danh ở
Việt Nam, từ đó mà trách nhiệm tài sản của cơng ty và trách nhiệm tài sản của
các thành viên trong cơng ty cũng có 1 số điểm khác biệt.
+ Nếu như hợp danh thơng thường của nước Hoa kì quy định các thành viên
hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của hợp danh. Thì thành
viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình
về các nghĩa vụ của cơng ty, ngồi ra cịn có thành viên góp vốn chịu trách
nhiệm hữu hạn.
+ Với hợp danh hữu hạn của Hoa kì thì thành viên trách nhiệm hữu hạn chỉ góp
vốn vào cơng ty hợp danh nhưng khơng tham gia vào hoạt động kinh doanh hay
hoạt động quản trị đó giống thành viên góp vốn trong cơng ty hợp danh của việt
Nam tuy nhiên thành viên của công ty hợp danh tại Việt Nam cịn có thành viên
hợp danh mà theo quy định tại Điều 134 LDN:
“Nhân danh công ty tiến hành các hoạt động kinh doanh các ngành,

nghề kinh doanh đã đăng ký; đàm phán và ký kết hợp đồng, thoả thuận hoặc
giao ước với những điều kiện mà thành viên hợp danh đó cho là có lợi nhất cho
công ty;”
+ Mặt khác, về tư cách pháp lý:

9


Nếu cơng ty hợp danh ở Việt Nam có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì cơng ty hợp danh khơng có tư cách
pháp nhân.
+ Địa vị pháp lý của hợp danh chủ yếu được xây dựng bằng thoả thuận hợp
danh. Pháp luật Mỹ khơng có những địi hỏi chặt chẽ đối với hợp danh như đối
với công ty. Sự tồn tại của luật hợp danh chỉ áp dụng đối với những điểm mà
thoả thuận hợp danh có thể khơng đề cập tới. Còn địa vị pháp lý của hợp danh
phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam.
+ Tài sản của hợp danh và bản thân hợp danh cả Hoa Kìlà sở hữu chung theo
phần của các thành viên cịn theo cơng ty hợp danh của nước ta thì tài sản góp
vốn của các thành viên đã được chuyển quyền sở hữu cho công ty ( Điều 132
LDN ).

IV - Những bất cập và phương hướng hoàn thiện các quy định
của pháp luật về trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh và
thành viên của công ty hợp danh
1. Những bất cập trong các quy định của pháp luật về trách nhiệm tài
sản của công ty hợp danh và thành viên của công ty hợp danh
Về giới hạn trách nhiệm của thành viên góp vốn trong cơng ty hợp danh theo
LDN đã có sự mâu thuẫn giữa điểm c, khoản 1, Điều 130 LDN với khoản 3,
Điều 131 LDN và khoản 2, Điều 140 LDN.
Tại điểm c, khoản 1, Điều 130 LDN lại quy định:

“Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi số vốn đã góp vào cơng ty.”
Tuy nhiên, tại khoản 3, Điều 131 LDN quy định:
“ Trường hợp có thành viên góp vốn khơng góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam
kết thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó đối với cơng
ty”
10


Tại điểm a, khoản 2, Điều 140 LDN cũng xác định về thành viên góp
vốn:
“Chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi số vốn đã cam kết góp”
Như vậy, quy định về trách nhiệm của thành viên góp vốn tại điểm c,
khoản 1, Điều 130 LDN đã không nhất quán với khoản 3, Điều 141 LDN và
điểm a, khoản 2, Điều 140 LDN. Khi có sự mâu thuẫn giữa các điều luật như
vậy cần phải áp dụng quy định nào của pha[s luật ( những điều luật nào được ưu
tiên áp dụng )? Một trong các nguyên tắc áp dụng pháp luật là luật riêng, luật
chuyên ngành được ưu tiên áp dụng, chỉ những gì luật riêng, luật chun ngành
khơng quy định mới áp dụng quy định chung của pháp luật. Theo logic đó, quy
định tại khoản 3, Điều 131 và điểm a, khoản 2, Điều 140 LDN là những quy
định riêng, cụ thể về trách nhiệm, nghĩa vụ của thành viên góp vốn cần phải ưu
tiên áp dụng trước quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 130 LDN.
Theo điểm b, khoản 1, Điều 95 LDN "thành viên hợp danh phải chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của cơng ty". Và theo
Điều 96, khoản 2đ của LDN: "Thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng
tồn bộ tài sản của mình về các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính khác của công
ty; nếu tài sản của công ty không đủ để trang trải số nợ của cơng ty, thì các
thành viên hợp danh phải cùng nhau thanh toán hết số nợ cịn lại. Trong trường
hợp này, chủ nợ có quyền u cầu bất kỳ thành viên hợp danh nào trong số họ

thanh tốn cho cơng ty".
Các quy định trên cho thấy, thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm
thanh toán nợ cho cơng ty bằng tồn bộ tài sản riêng của mình. Về ngun tắc
chung này, chúng tơi khơng bàn luận gì thêm, nhưng điều đáng trao đổi thêm là:
vào thời điểm nào chủ nợ có quyền yêu cầu thành viên hợp danh thanh tốn nợ
cho cơng ty?
Ví dụ: CTHD A phải trả cho ngân hàng B một khoản nợ đến hạn ngày 01
tháng 07. Ngân hàng B có quyền yêu cầu các thành viên hợp danh phải thanh
11


toán khoản nợ trên từ ngày 01 tháng 07 hay sau ngày này? Và nếu sau ngày này,
thì lấy thời điểm nào làm mốc để ngân hàng B có quyền yêu cầu thành viên hợp
danh thanh toán nợ cho CTHD vào ngày 01 tháng 07; phương án khác cũng có
là ngân hàng B chỉ được yêu cầu thành viên hợp danh thanh tốn nợ cho cơng ty
khi chứng minh được rằng CTHD A khơng cịn đủ tài sản để thanh tốn món
nợ. Thiết nghĩ, cả hai phương án trên đều không thuyết phục.
Phương án thứ nhất đã biến thành viên hợp danh thành người chịu trách
nhiệm liên đới với công ty, vì theo khoản 1, Điều 304, Bộ luật Dân sự "nghĩa vụ
dân sự liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và người có
quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện
tồn bộ nghĩa vụ". Phương án này quá bảo vệ quyền lợi của người thứ ba và làm
ảnh hưởng đến lợi ích của thành viên hợp danh. Trong thực tế, món nợ với ngân
hàng B là món nợ của chính cơng ty A, cịn vai trị của các thành viên hợp danh
chỉ là người có nghĩa vụ liên đới để đảm bảo thanh toán thay cho công ty khoản
nợ trên.
Phương án thứ hai lại quá bảo vệ quyền lợi của thành viên hợp danh.
Chứng minh được rằng cơng ty A khơng có đủ tài sản để thanh tốn món nợ là
việc làm khó và tốn kém. Đề làm được điều đó, chúng ta phải kê biên tài sản,
xác định được giá trị tài sản còn lại của cơng ty và phải bán tài sản đó mới biết

được là cơng ty có hay khơng có đủ tài sản để thanh tốn món nợ. Khi thực hiện
giao dịch với công ty, thông thường đối tác của công ty dựa vào uy tín của các
thành viên hợp danh. Vì vậy, chúng ta cần trách nhiệm đối với người thứ ba. Do
đó, phương án hai khơng hợp lý vì nó quá bảo vệ quyền lợi của thành viên hợp
danh.
2. Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm
tài sản của công ty hợp danh và thành viên của cơng ty hợp danh.
Qua việc bình luận trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh và thành viên
của công ty hợp danh ta thấy được những bất cập, hạn chế nhất định của Luật
Doanh nghiệp khi quy định về vấn đề này. Trên cơ sở đó, em xin đưa ra một số
12


giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của Luật doanh nghiệp về công ty hợp
danh như sau :
Thứ nhất, để đảm bảo sự nhất quan, không mâu thuẫn giữa các điều luật, cần
sửa đổi điểm c, khoản 1, Điều 130 LDN theo hướng : thành viên góp vốn chỉ
chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết
vào công ty.
Thứ hai, thiết nghĩ, chúng ta nên thiết lập một giải pháp trung gian khơng
làm ảnh hưởng q đến lợi ích của người thứ ba và của thành viên hợp danh.
+ Chủ nợ chỉ được yêu cầu thành viên hợp danh thanh tốn cho cơng ty khi đã
u cầu CTHD nhưng khơng được thanh toán. Chúng ta nên quy định là nếu sau
một khoảng thời gian (ví dụ một tuần hay 10 ngày) kể từ ngày chủ nợ gửi giấy
đòi nợ đến cơng ty mà khơng có kết quả thì chủ nợ được quyền yêu cầu bất kỳ
thành viên hợp danh nào thanh tốn nợ cho cơng ty.
+ Chủ nợ chỉ được u cầu thành viên hợp danh thanh tốn cho cơng ty khi
chứng minh được rằng, thực sự công ty phải trả họ một khoản nợ vì các thành
viên hợp danh chỉ là người thanh tốn thay cho cơng ty. Nếu khoản nợ đó khơng
có hoặc khơng cịn nữa thì các thành viên đó khơng phải thanh tốn. Ví dụ, theo

Điều 51, Luật Phá sản năm 2004: "Trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày
cuối cùng đăng báo về quyết định của tòa án mở thủ tục phá sản, các chủ nợ
phải gửi giấy đòi nợ cho tòa án, trong đó nêu cụ thể cáckhoản nợ, số nợ đến hạn
và chưa đến hạn, số nợ có bảo đảm và khơng có bảo đảm mà doanh nghiệp, hợp
tác xã phải trả… Hết thời hạn này các chủ nợ không gửi giấy địi nợ đến tồ án
thì coi là từ bỏ quyền địi nợ".
Thứ ba, cơng ty hợp danh theo quan niệm của Luật Doanh nghiệp năm 2005
phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, có nghĩa là hai người chịu trách nhiệm
liên đới và vô hạn định đối với các khoản nợ của công ty. Điều này là đúng nếu
Luật Doanh nghiệp năm 2005 không quan niệm công ty hợp danh bao gồm cả
công ty hợp vốn đơn giản. Như trên đã nói, bản chất của cơng ty hợp danh đúng
nghĩa là sự liên kết của các thương nhân đơn lẻ để kinh doanh dưới một tên
13


hãng chung. Vì vậy, cơng ty hợp danh phải có từ hai thành viên hợp trở lên, nếu
khơng thì sẽ vẫn chỉ là thương nhân đơn lẻ. Còn đối với cơng ty hợp vốn đơn
giản thì chỉ cần có một thành viên hợp danh (hay “thành viên nhận vốn”) và một
thành viên góp vốn là đủ. Ngay ở Hoa Kỳ người ta quan niệm: “Công ty hợp
danh hữu hạn bao gồm hai hay nhiều người, với ít nhất một thành viên hợp danh
và một thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn”. Cần lưu ý thêm: “công ty hợp
danh hữu hạn: gọi theo cách của chúng ta xưa kia là “công ty hợp vốn đơn giản”
hay “công ty hợp tư đơn thường”. Để thấy hết quan niệm sai lầm về công ty hợp
danh theo pháp luật của Việt Nam hiện nay. Do đó, cần phải có quy định về
việc sửa đổi quy định của pháp luật liên quan đến loại hình hợp danh ở Việt
Nam, nên có sự phân biệt rõ rang giữa công ty hợp danh và công ty hợp vốn
đơn giản như xu hướng của nhiều nước trên thế giới hiện nay. Vậy, cần phải
thiết kế quy chế pháp lý riêng cho công ty hợp danh và cho công ty hợp vốn đơn
giản.
Thứ tư, theo quy định của pháp luật hiện hành thì cơng ty hợp danh nộp thuế

thu nhập doanh nghiệp. vì vậy, cần đánh thuế thu nhập đối với thu nhập cá nhân
của thành viên hợp danh. Trong công ty hợp danh, dù là trách nhiệm vô hạn hay
trách nhiệm hữu hạn đối với khoản nợ của cơng ty thì cũng khơng thể phủ nhận
một điều là phần lợi nhuận được chia từ kết quả sản xuất kinh doanh của công
ty hợp danh, công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn đều là phần thu
nhập của các thành viên.
Một nguyên tắc trong Luật Thuế TNCN cần được áp dụng chung là cá nhân
đã có thu nhập thì phải chịu thuế TNCN. Trách nhiệm của thành viên công ty
cho dù là vô hạn hay hữu hạn cũng khơng ảnh hưởng gì đến việc có bị chịu thuế
TNCN hay khơng. Do đó, quan điểm cho là do trách nhiệm của thành viên hợp
danh công ty hợp danh là trách nhiệm vô hạn nên được miễn thuế TNCN là
hồn tồn khơng có cơ sở và khơng thuyết phục.
Vậy, việc đánh thuế TNCN đối với phần thu nhập của thành viên hợp
danh trong công ty hợp danh cũng giống như việc đánh thuế với phần cổ tức
14


phát sinh từ cổ phiếu của công ty cổ phần và phần thu nhập của thành viên của
công ty trách nhiệm hữu hạn. Đánh thuế với khoản thu nhập này không phải là
đánh thuế hai lần.
Thứ năm, đối với loại hình cơng ty hợp danh, sự tách bạch về tài sản giữa
thành viên công ty và công ty tuy không rõ ràng, nhưng có thể khẳng định nó
khơng phải là một. Bởi thế cho nên, quy chế pháp lý về công ty hợp danh và
thành viên của công ty hợp danh không giống như quy chế pháp lý áp dụng cho
doanh nghiệp tư nhân, chúng ta không thể đánh đồng trách nhiệm vô hạn của
thành viên với việc không thu thuế TNCN.
Về nguyên tắc, lợi nhuận được chia trong công ty hợp danh chia cho các
thành viên là dựa vào số vốn góp của thành viên đó (điểm e khoản 1 Điều 134
Luật Doanh nghiệp 2005). Điều này cũng giống như việc chia cổ tức của thành
viên công ty cổ phần và lợi nhuận cho các thành viên trong công ty trách nhiệm

hữu hạn. Do vậy, Luật đã quy định thu thuế TNCN đối với cổ tức, thì khơng có
căn cứ nào để không thu đối với phần lợi nhuận của thành viên hợp danh trong
công ty hợp danh.

KẾT LUẬN
Qua việc phân tích các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005 về
trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh và thành viên của công ty hợp danh ta
thấy những quy định đó cịn tồn tại những bất cập và hạn chế nhất định. Vì vậy,
vấn đề đặt ra hiện nay là pháp luật cần sửa đổi, bổ sung để khắc phục những hạn
chế cũng như những điểm chưa thống nhất trong các quy định về công ty hợp
danh nhằm nâng cao vị thế của công ty hợp danh trên thế giới tạo mơi trường
pháp lý cho loại hình doanh nghiệp này có điều kiện phát huy hết những ưu thế
của nó.

15


MỤC LỤC

KẾT LUẬN………………………………………………………………..15

16



×