Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Môn triết học vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.09 KB, 19 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN : TRIẾT HỌC
Đề tài :
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY


1
MỞ ĐẦU
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản
nhất, là linh hồn của triết học Mác - Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết
học, C.Mác đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó
với thực tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý
luận. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là sự thống nhất biện chứng và
cơ sở của sự tác động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn ln ln vận
động, biến đổi, do đó lý luận cũng khơng ngừng đổi mới, phát triển; sự thống
nhất biện chứng giữa chúng - vì thế - cũng có những nội dung cụ thể và
những biểu hiện khác nhau trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử.
Đất nước Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành tựu to lớn
đạt được trong hơn 30 năm đổi mới. Có được những kết quả đó một phần lớn
là do Đảng cộng sản Việt Nam đã lấy triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, cơ sở lý luận của mình. Đảng và Nhà nước
Việt Nam ln vận dụng nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
suốt quá trình lãnh đạo giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc cũng như
trong công cuộc xây dựng đất nước. Đặc biệt, nguyên lý này đã được vận dụng
hết sức sáng tạo và linh hoạt trong đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Thời
kỳ đổi mới đặt ra những yêu cầu phải thay đổi một cách cơ bản cả về lý luận và
thực tiễn trong đường lối lãnh đạo của Đảng cũng như trong sự phát triển mọi
mặt của đời sống xã hội.



2
Giải quyết vấn đề này mang ý nghĩa hết sức cấp thiết và quan trọng,
bởi vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn luôn là một q
trình lâu dài, địi hỏi sự sáng tạo linh hoạt và cần ln được điều chỉnh để
duy trì được sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Chính vì vậy tơi chọn nghiên cứu đề tài “Vận dụng nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện
nay” nhằm làm sáng rõ hơn những định hướng của Đảng và Nhà nước thời kì
đổi mới .
NỘI DUNG
Chương 1
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn
Cơ sở lý luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn chính
là mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn phản ánh
những mối liên hệ bản chất, những quy luật của sự vật, hiện tượng. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch
sử”1.
Lý luận có những cấp độ khác nhau tùy thuộc vào phạm vi phản ánh
và vai trị của nó, có thể phân chia lý luận thành lý luận ngành và lý luận
triết học. Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và
phát triển của một ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương
pháp luận hoạt động của ngành đó, như lý luận văn học, lý luận nghệ
thuật… Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế


1

Hồ Chí Minh, (1995), Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr.497


3
giới và con người, là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và hoạt
động của con người.
Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức, của sự phản ánh hiện thực
khách quan. Trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, các nguyên lý và các
quy luật tạo nên lý luận, quy luật là hạt nhân của lý luận, là sản phẩm của quá
trình nhận thức nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, là sự phản ánh một cách gần đúng đối tượng nhận thức. Lý luận
là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức
khái quát tri thức kinh nghiệm.
Lý luận được hình thành trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng không
phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập
tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm mà vẫn
không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm. Khác với kinh
nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái qt cao nên nó đem lại sự hiểu
biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách
quan. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề
ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng
trong lý luận nhận thức bằng cách đưa phạm trù thực tiễn vào trong lý luận
nhận thức. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải
là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức” 2.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang
tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên, xã hội và bản
thân con người.

Khác với hoạt động tinh thần, hoạt động thực tiễn là loại hoạt động mà
con người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật
chất nhất định, làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. Đó là những hoạt
2

V.I.Lênin (1980), Tồn tập, tập 18, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, tr.167


4
động đặc trưng và bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất
yếu khách quan và không ngừng phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch
sử. Chính vì vậy, hoạt động thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất mang
tính chất sáng tạo và có tính mục đích, tính lịch sử - xã hội.
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong
phú, song có 3 hình thức cơ bản là: Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức
hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con
người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra
của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển
của mình: Hoạt động chính trị - xã hội là hình thức hoạt động thực tiễn cao
nhất, là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong xã
hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội để thúc đẩy xã hội phát
triển, hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi
cho hoạt động sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản
chất con người bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Thực
nghiệm khoa học là một hình thức thực tiễn đặc biệt của hoạt động thực tiễn.
Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra,
gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm
xác định những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng
hoạt động này có vai trị quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là
trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nhằm mục đích

phục vụ nghiên cứu khoa học và kiểm tra lý thuyết khoa học.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan
trọng khác nhau, không thể thay thế cho nhau, song chúng có mối quan hệ
chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất
vật chất vẫn là loại hoạt động có vai trị quan trọng nhất, đóng vai trị quyết
định đối với các hoạt động thực tiễn khác. Bởi vì, nó là hoạt động nguyên
thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống
của con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu nhất, có tính


5
quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của con người. Khơng có hoạt
động sản xuất vật chất thì khơng thể có các hình thức thực tiễn khác. Các hình
thức thực tiễn khác, suy đến cùng cũng xuất phát từ thực tiễn sản xuất vật chất
và nhằm phục vụ thực tiễn sản xuất vật chất.
Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận
thức của con người được hình thành, phát triển. Thơng qua hoạt động thực
tiễn con người tác động vào thế giới buộc thế giới phải bộc lộ ra những thuộc
tính, những tính quy luật để con người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn,
nhận thức đã thoát ly khỏi mảnh đất hiện thực ni dưỡng nó phát triển vì thế
khơng thể đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật, sẽ
khơng có khoa học, khơng có lý luận.
Thực tiễn cịn là cơ sở để chế tạo cơng cụ, phương tiện máy móc mới,
hỗ trợ con người trong quá trình nhận thức, khám phá, chinh phục thế giới.
Ph.Ăngghen cho rằng, nhu cầu cấp thiết của thực tiễn, của sản xuất sẽ thúc
đẩy nhận thức khoa học phát triển nhanh hơn hàng chục trường đại học. Vai
trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn
của chân lý. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của
con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay khơng, hồn tồn khơng phải
là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề của thực tiễn. Chính trong thực tiễn

mà con người phải chứng minh chân lý” [41, tr. 9-10]. Tất nhiên, nhận thức xã
hội còn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn lơgic nhưng tiêu chuẩn lôgic
không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng nó cũng phụ
thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn. Đó là tư tưởng cơ bản của Mac-Ăngghen khi
đưa phạm trù thực tiễn vào nội dung của lý luận nhận thức, tư tưởng đó đã
được Lênin bảo vệ và phát triển sâu sắc hơn trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, trong đó Lênin nhắc lại luận cương
thứ hai của Mac về Phoi-ơbăc và Người kết luận “Quan điểm về đời sống, về
thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức” 3
3

V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, tr.167


6
Nếu không bám sát thực tiễn cuộc sống chúng ta sẽ khơng thể có lý luận,
khơng thể có khoa học, không xác định nổi bất kỳ đề tài khoa học nào với
đúng nghĩa của nó.
Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại
với nhau.
Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận ,
lý luận hình thành, phát triển xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực
tiễn. Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Xét một cách trực tiếp những tri thức
được khái quát thành lý luận là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của
con người. Thông qua kết quả của hoạt động thực tiễn, kể cả thành công cũng
như thất bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của
các yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận.
Quá trình hoạt động thực tiễn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh các lý luận đã
được khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh
những vấn đề mới địi hỏi q trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết.

Thơng qua đó, lý luận được bổ sung mở rộng . Chính vì vậy , V.I.Lênin
nói: “Nhận thức lý luận phải trình bày khách thể trong tính tất yếu của
nó, trong những quan hệ tồn diện của nó, trong sự vận động mâu thuẫn
của nó tự nó và vì nó ”4.
Thực tiễn là động lực của lý luận. Hoạt động của con người không chỉ là
nguồn gốc để hoàn thiện các cá nhân mà cịn góp phần hồn thiện các mối quan
hệ của con người với tự nhiên, với xã hội. Lý luận được vận dụng vào thực tiễn,
mang lại lợi ích cho con người càng kích thích cho con người bám sát thực tiễn,
khái qt lý luận. Q trình đó diễn ra khơng ngừng trong sự tồn tại của con
người, làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy
hoạt động của con người không bị hạn chế trong không gian và thời gian.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Mặc dù lý luận cung cấp những tri
thức khái quát về thế giới để làm thỏa mãn những nhu cầu hiểu biết của con
4

V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, tr.227


7
người nhưng mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao những hoạt động của
con người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn
nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không thể tạo
nên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được
thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi tự nhiên
và xã hội theo mục đích của con người. Đó thực chất là mục đích của lý luận.
Tức lý luận phải đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận
chính là sự phù hợp của lý luận với thực tiễn khách quan và được thực tiễn
kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận với hoạt động thực tiễn của
con người. Do đó mọi lý luận phải thơng qua thực tiễn để kiểm nghiệm.

Chính vì thế mà C. Mác nói : “vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có
thể đạt đến chân lý của khách quan khơng, hồn tồn khơng phải vấn đề lý
luận mà là vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý”5. Thông qua thực tiễn những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ
sung vào kho tàng tri thức nhân loại, những kết luận chưa phù hợp thực tiễn
thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại.
Giá trị của lý luận nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động
thực tiễn. Tuy thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, nhưng không phải
mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của
lý luận khi thực tiễn đạt đến mức tồn vẹn của nó. Tính tồn vẹn của thực tiễn
là thực tiễn đã trải qua quá trình tồn tại, hoạt động, phát triển và chuyển hóa.
Chính vì vậy mà V.I.Lênin cho rằng :“Thực tiễn của con người lặp đi lặp lại
hàng nghìn triệu lần được in vào ý thức của con người bằng những hình tượng
logic. Những hình tượng này có tính vững chắc của một thiên khiến, có một
tính chất cơng lý, chính vì sự lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần ấy”6.

5

Vũ Hữu Ngoạn (2001), Tìm hiểu một số khái niệm trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr 9-10
6
V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, tr.234


8
Như vậy, thực tiễn có vai trị quan trọng quyết định đối với nhận thức
nói chung và lý luận nói riêng. Song lý luận cũng có vai trị quan trọng tác
động trở lại thực tiễn. Lý luận đóng vai trị soi đường cho thực tiễn vì lý luận
có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện
pháp thực hiện trong thực tiễn. Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển

cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự báo được những rủi ro xảy ra,
những hạn chế những thất bại có thể có trong quá trình hoạt động thực tiễn.
Như vậy lý luận không chỉ giúp con người hoạt động hiệu quả mà còn là cơ
sở để khắc phục những hạn chế và tăng cường năng lực hoạt động thực tiễn
của con người.
Nói tóm lại, chủ nghĩa Mác-Lênin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự
thống nhất biện chứng. Chỉ có trong sự thống nhất với thực tiễn, lý luận mới
góp phần thúc đẩy thực tiễn phát triển. Ở bên ngoài sự thống nhất lý luận và
thực tiễn, tự thân lý luận khơng thể biến đổi được hiện thực, nói cách khác,
hoạt động lý luận khơng có mục đích tự thân mà vì phục vụ thực tiễn, để cải
tạo thực tiễn. Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là phải
quán triệt được thực tiễn là cơ sở, là động lực, mục đích của lý luận, của nhận
thức, là tiêu chuẩn của chân lý (lý luận). Như trên đã nói, lý luận đích thực
bao giờ cũng bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Thực tiễn quy
định lý luận thể hiện ở nhu cầu, nội dung, phương hướng phát triển của nhận
thức, lý luận. Thực tiễn biến đổi thì lý luận cũng biến đổi theo, nhưng lý luận
cũng tác động trở lại thực tiễn bằng cách soi đường, chỉ đạo, dẫn dắt thực tiễn.
1.2. Yêu cầu của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau.
Vì vậy, để đảm bảo được nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ta
cần phải thực hiện tốt những yêu cầu như sau:
Trước hết, lý luận phải xuất phát từ thực tiễn. Trong triết học MácLênin, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một thuộc tính vốn
có, một địi hỏi nội tại. Nguyên tắc này có ý nghĩa to lớn trong việc nhận thức


9
khoa học và hoạt động thực tiễn. Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn
thống nhất với nhau dưới nhiều hình thức và trình độ biểu hiện khác nhau. Lý
luận bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh (khái quát) những vấn đề của đời sống
sinh động. Nhưng thước đo tính phù hợp của lý luận với thực tiễn biểu hiện

trước hết ở chỗ lý luận đó phải hướng hẳn về đời sống hiện thực, để giải quyết
những vấn đề do chính sự phát triển của thực tiễn đặt ra, và như vậy, lý luận
góp phần thúc đẩy thực tiễn phát triển, bởi vì ở bên ngồi sự thống nhất lý
luận và thực tiễn, tự thân lý luận không thể biến đổi được hiện thực, nói cách
khác, hoạt động lý luận khơng có mục đích tự thân mà vì phục vụ thực tiễn,
để cải tạo thực tiễn.
Thứ hai, phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm tra tính chân lý của lý
luận. Chủ nghĩa Mác-Lênin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất
biện chứng. Thực tiễn là hoạt động vật chất còn lý luận là hoạt động tinh thần,
nên thực tiễn đóng vai trị quyết định trong quan hệ đối với lý luận. Lênin viết:
“Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) nó có ưu điểm khơng những của tính
phổ biến mà của tính hiện thực trực tiếp” 7. Tính phổ biến của thực tiễn đối với
nhận thức (lý luận) thể hiện ở chỗ, thực tiễn là khâu quyết định đối với hoạt
động nhận thức. Một lý luận được áp dụng trong thời gian càng dài, khơng gian
càng rộng thì hiệu quả đạt được càng cao, càng khẳng định tính chân lý của
thực tiễn. Ngay cả một giả thiết khoa học muốn trở thành lý luận phải thông
qua hoạt động thực nghiệm kiểm tra, xác nhận. Như vậy, chỉ có qua hoạt động
thực tiễn thì lý luận mới có giá trị tham gia vào q trình biến đổi hiện thực.
Thứ ba, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận. Lý
luận là “kim chỉ nam” cho hoạt động thực tiễn. Cố nhiên để có thể giải đáp
được những vấn đề của cuộc sống, lý luận phải khơng ngừng liên hệ bằng
những hình thức khác nhau với thực tiễn. Cho nên, thực chất vai trò của lý
luận đối với thực tiễn là ở chỗ lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức
đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan.

7

V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.tr.230



10
Vì vậy, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận cho phù
hợp với từng bước đi của thực tiễn.
Thứ tư, phải dựa vào lý luận khoa học để chỉ đạo, định hướng thực
tiễn. Lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật trong tương lai, chỉ
ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học
làm cho con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng “mị mẫm”,
tự phát. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã nói lý luận có vai trị hết sức to lớn đối với
thực tiễn, lý luận “như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta
trong cơng việc thực tế. Khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi” 8.
Vì những lẽ đó mà q trình hoạch định đường lối của đảng ta phải dựa trên
cơ sở lý luận khoa học.
Thứ năm, phải nhận thức đầy đủ và sâu sắc vai trò của lý luận và việc
học tập lý luận, phải không ngừng rèn luyện và nâng cao trình độ tư duy lý
luận. Khơng có lý luận thì trong hoạt động thực tiễn người ta dễ chỉ dựa vào
kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hóa kinh nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố
quyết định thành cơng trong hoạt động thực tiễn. Nếu khơng có lý luận hay
trình độ lý luận thấp sẽ làm cho bệnh kinh nghiệm thêm trầm trọng, thêm kéo
dài. Lý luận rất quan trọng cho sự thực hành cách mạng. “Làm mà khơng có lý
luận thì khơng khác gì đi mị trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp” 9.
Kém lý luận, khinh lý luận thì khơng hiểu được thực chất lý luận, chỉ thuộc câu
chữ lý luận và do đó cũng khơng thể hiểu được bản chất những vấn đề thực tiễn
mới nảy sinh. Do đó, khơng vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề
thực tiễn mới nảy sinh. Nếu có vận dụng thì cũng không sát thực tế, không phù
hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, có lý luận rồi thì phải kết hợp chặt chẽ với kinh
nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông,
tức bệnh giáo điều.
Thứ sáu, trên cơ sở nhận thức và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn phải chống bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Chúng ta
8

9

C.Mác và Ph.Ăngnghen (1995), Tồn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.234-235
SĐD,tr.47


11
coi trọng kinh nghiệm thực tiễn và khơng ngừng tích luỹ vốn kinh nghiệm
quý báu đó song chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn kinh
nghiệm của bản thân, coi kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hóa kinh nghiệm
đồng thời coi nhẹ lý luận, ngại học tập, nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý luận,
không quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận thì sẽ rơi vào lối suy
nghĩ giản đơn, tư duy áng chừng, đại khái, phiến diện, thiếu tính lơgic, tính hệ
thống, do đó, trong hoạt động thực tiễn thì mị mẫm, tuỳ tiện, thiếu tính đồng
bộ về lý luận trong tất cả các lĩnh vực do vậy dễ rơi vào bệnh kinh nghiệm
chủ nghĩa. Nếu tuyệt đối hóa lý luận, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý
luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung chung trừu tượng, khơng chú ý
đến những hồn cảnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận thì dễ mắc bệnh
giáo điều. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: thực tiễn khơng có lý luận
hướng dẫn thì thành thực tiễn mù qng, lý luận mà khơng liên hệ với thực
tiễn là lý luận suông. Lê-nin cho rằng lý luận cách mạng khơng phải là giáo
điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lý luận khơng phải là cái
gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo, lý luận luôn cần được bổ sung bằng những
kết luận mới rút ra trong thực tế sinh động


12
Chương 2
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN

NAY
2.1. Về mặt lý luận
Đại hội VI (12/1986) là đại hội mở đầu cho thời kỳ đổi mới. Đổi mới trở
thành quyết sách và đường lối chiến lược phát triển của Việt Nam do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo. Đại hội VI đã đánh dấu một bước đột phá đưa cả
nước tiến vào cơng cuộc đổi mới tồn diện để phát triển. Nhờ thấm nhuần quan
điểm thực tiễn, quan điểm phát triển, đổi mới và sáng tạo mà giới lý luận đã
giải phóng mình khỏi những giáo điều cũ; khắc phục những căn bệnh của lối tư
duy chủ quan, phiến diện, siêu hình, sách vở, thốt ly thực tiễn, tách rời lý luận
với thực tiễn để tìm tịi chân lý.
Lý luận đổi mới của Việt Nam được hình thành, phát triển và từng
bước hoàn thiện. Lý luận về đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam phản ánh trình độ phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng, trước
hết là những nhận thức mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Khi bắt đầu công cuộc đổi mới, đảng ta đặt ngay vấn đề đổi mới trước
hết trong tư duy kinh tế, coi đó là khâu đột phá. Thực tế đã chứng tỏ sự lựa
chọn khâu đột phá đổi mới tư duy kinh tế là hoàn toàn đúng đắn và thật sự
sáng suốt. Đổi mới tư duy kinh tế để hình thành những chủ trương, chính sách
kinh tế đúng đắn, kịp thời đã đem lại những chuyển biến tích cực trong đời
sống kinh tế.
Việc đổi mới tư duy kinh tế của Đảng cũng được khởi đầu từ mắt xích
trọng yếu nhất là việc đổi mới tư duy để đi tới sự thừa nhận nền kinh tế nước
ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường trong tư duy kinh tế.


13
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương

lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991)
đến nay, Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng về
kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội trên cả mặt lý luận và thực tiễn.
Tổng kết 20 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
trên cơ sở lấy đổi mới tư duy làm xuất phát điểm, phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hoá làm cơ sở để
xây dựng nền tảng tinh thần xã hội, tại Đại hội X, Đảng ta đã lý giải, kết luận
nhiều vấn đề lý luận – thực tiễn về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1. Mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội; 2. Động lực phát triển; 3.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 4. Cơng nghiệp
hố, hiện đại hố; 5. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Luận giải những vấn đề
này, trong khuôn khổ một bài tiểu luận là điều không thể, nên tác giả chỉ đề
cập đến một vấn đề đó là lý luận của Đảng “Về phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Việc đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận hết sức sáng tạo
của Đảng. Từ Đại hội VI - Đại hội mở đầu sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng
đã dứt khoát từ bỏ mơ hình kinh tế phi hàng hố, phi thị trường mà các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã dự kiến, từ bỏ mơ hình kinh tế tập trung
quan liêu, bao cấp mà chúng ta đã thực hiện gần như rập khn theo mơ hình
của Liên Xơ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu để chuyển sang mơ hình
kinh tế hàng hố nhiều thành phần. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã khẳng định: “Phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Sau 5 năm phát
triển nền kinh tế này với những thành tựu nhất định, tại Đại hội VIII, Đảng
đưa ra một quan niệm mới và có thể coi là rất quan trọng – quan niệm thừa


14

nhận “sản xuất hàng hố khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu
phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây
dựng”10. Đến Đại hội IX, khái niệm “kinh tế thị trường”, lần đầu tiên được
Đảng chính thức đưa vào Văn kiện Đại hội. Đồng thời, với khẳng định kinh tế
thị trường của chúng ta không phải là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và
cũng chưa phải là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, tại Đại hội này, Đảng
đã đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và coi
đó là mơ hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
2.2. Về thực tiễn
Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trong những năm gần đây đã cho thấy không chỉ kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể có những đóng góp to lớn vào sự phát triển đất nước, mà cả kinh tế tư
nhân cũng có những đóng góp khơng nhỏ vào sự phát triển đó. Nhận thức rõ
vai trị ngày càng quan trọng của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tại Đại hội IX, Đảng đã xác định kinh tế
tư nhân “cả ở nơng thơn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài” và tại Hội
nghị Trung ương 5 khoá IX, Đảng đã ra Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới cơ
chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”,
trong đó khẳng định: trong những năm đổi mới, kinh tế tư nhân bao gồm kinh
tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh
doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân đã phát triển rộng
khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế, huy động
các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm, cải
thiện đời sống nhân dân, đóng góp ngày càng tăng vào ngân sách nhà nước,
góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội. Với những đánh giá như vậy về
kinh tế tư nhân, tại Hội nghị này, Đảng đã thống nhất những quan điểm chỉ
10


Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1996, tr. 97


15
đạo phát triển kinh tế tư nhân với tư cách chiến lược lâu dài trong phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội X, XI, vẫn với quan điểm chỉ đạo đó, khi xác định kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngồi “đều là bộ phận hợp thành quan trọng” của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đều phải “hoạt động theo pháp luật”,
“bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh”, Đảng đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng, là một
trong những động lực của nền kinh tế”.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy
luật của KTTT, đồng thời đảm bảo định hướng XHCN phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt
Nam là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan
trọng của nền kinh tế; thị trường đóng vai trị chủ yếu trong phân bổ có hiệu
quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất.
Các nguồn lực nhà nước được phân bố theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trị định hướng và hồn
thiện thể chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành
mạnh; sử dụng các cơng cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để
định hướng, điều tiết nền kinh tế; thực tiễn tiến bộ và cơng bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển. Những quan điểm đó cho thấy, sau 30
năm đổi mới, giờ đây, Đảng đã vẫn về vị trí và vai trị của kinh tế tư nhân, của
các doanh nghiệp tư nhân và doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.


16
KẾT LUẬN
Công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân ta là sự nghiệp hoàn toàn mới
mẻ trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp đó diễn ra trong bối cảnh có
nhiều biến động và hết sức phức tạp. Những thuận lợi, khó khăn, thời cơ, thách
thức đan xen nhau đã tác động, ảnh hưởng đến công cuộc đổi mới của nước ta,
Đảng ta thường xuyên theo dõi, nắm bắt và xử lý kịp thời những biến động của
thực tiễn đất nước, những diễn biến của quốc tế.
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc hàng đầu của nhận
thức luận mácxit. Lý luận không phải là lý thuyết suông xa rời thực tiễn và
thực tiễn cũng khơng thốt ly lý luận. Thực tiễn qui định lý luận, nhưng đó
khơng phải là mối quan hệ một chiều mà lý luận cũng tác động trở lại thực tiễn,
là "kim chỉ nam" cho thực tiễn.
Sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh của nhân dân ta đã trải qua một
chặng đường gần 30 năm. Trong những năm đó, chúng ta đã đạt được những
thành tựu hết sức quan trọng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Về thực tiễn, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; kinh tế
tăng trưởng khá nhanh, kiềm chế được đà lạm phát, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước được đẩy mạnh. Mức độ hội nhập, khà năng cạnh tranh của nền kinh tế
ngày càng sâu rộng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước được tăng cường,
quy mô nền kinh tế được mở rộng. Sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên
rất nhiều.
Về lý luận, nhận thức của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên
CNXH ngày càng sáng tỏ hơn. Việc đổi mới lý luận về kinh tế đã đạt đến

tầm cao và chiều sâu của tư duy lý luận, của nhận thức luận và phương
pháp luận nhận thức. Việc đổi mới lý luận về kinh tế đã khắc phục được
một cách cơ bản tình trạng căn bệnh trước đổi mới là chủ quan duy ý chí,
giáo điều, thốt ly thực tiễn.


17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb.Sự thật, Hà Nội.
2. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
3. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
4. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 31, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
5. Trương Ngọc Nam (2000), Khâu trung gian trong sự phát triển xã hội và
ý nghĩa phương pháp luận của nó đối với q trình đổi mới kinh tế
Việt Nam hiện nay, Luận án TS triết học, Hà Nội.
6. Phạm Xuân Nam (1991), Đổi mới kinh tế Việt Nam – thành tựu, vấn đề và
giải pháp, Nxb. Khoa học xã hội.
7. Phạm Xuân Nam (2010), Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội trong mơ hình phát triển của Việt Nam ở thời kỳ đổi mới,
Tạp chí Khoa học xã hội Việt nam, số 12-2010, tr.10.
8.

Tường Thúy Nhân, Đặc điểm công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam (1986 - 1996), LATS Lịch sử, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

9. Trần Nhâm (1995), Có một Việt Nam như thế, Nxb.Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
10. Trịnh Nhu, Kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, một thành cơng

của Đảng cộng sản Việt Nam trong q trình lãnh đạo cơng cuộc đổi
mới, Tạp chí Lịch sử Đảng số 6 - 199, Hà Nội.
11. Dương Xuân Ngọc (2012), Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Vũ Hữu Ngoạn (2001), Tìm hiểu một số khái niệm trong Văn kiện Đại hội
IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. C.Mác và Ph.Ăngnghen (1995), Tồn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.


18
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
Chương 1. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN............................................2
1.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn...........2
1.2. Yêu cầu của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.................8
Chương 2. VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY.......................................................................12
2.1. Về mặt lý luận..........................................................................................12
2.2. Về thực tiễn..............................................................................................14
KẾT LUẬN....................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................17




×