Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG DẠY HỌC MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ VÀ THƯƠNG MẠI HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.52 KB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

----------

NGUYỄN THỊ THU

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG DẠY HỌC MÔN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG
CÔNG NGHỆ VÀ THƯƠNG MẠI HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

----------

NGUYỄN THỊ THU

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG DẠY HỌC MÔN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG
CÔNG NGHỆ VÀ THƯƠNG MẠI HÀ NỘI
Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp giảng dạy
Giáo dục chính trị
Mã số



: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Đức Thìn

HÀ NỘI - 2015


LờI CảM ƠN
Tỏc gi gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm Khoa Lý luận Chính trị Giáo dục Công dân, Trờng Đại học S phạm Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi
giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Đồng thời, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến TS. Nguyễn
Đức Thìn, ngời thầy đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo, hớng dẫn em trong suốt quá
trình thực hiện luận văn.
Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn động viên, khích lệ,
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn.
Hà Nội, tháng 06 năm 2015
Tác giả
Nguyễn Thị Thu


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- CĐ

: Cao đẳng

- CMVN


: Cách mạng Việt Nam

- CNTT

: Công nghệ thông tin

- CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

- GCCN

: Giai cấp công nhân

- GV

: Giảng viên

- SV

: Sinh viên

- NXB

: Nhà xuất bản

- SL

: Số lượng



MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên lý cơ
bản nhất của triết học Mác - Lênin. Đây là nguyên lý được thể hiện trong mọi
mặt của đời sống, giúp con người tránh khỏi bệnh kinh nghiệm giáo điều, đồng
thời có cái nhìn đúng đắn về tầm quan trọng của thực tiễn cũng như lý luận.
Trong lý luận nhận thức mácxít thì giữa lý luận và thực tiễn có mối
quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại nhau, trong đó, thực tiễn có vai
trò quyết định. V.I.Lênin nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý
luận) vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện
thực trực tiếp”. [30; 230]
Về vấn đề lý luận phải liên hệ thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn
mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông.” [42;
496], đó là thứ lý luận xa rời và không giúp ích gì cho thực tế cuộc sống.
Hồ chí Minh yêu cầu người dạy và người học phải tuân thủ theo những
cách thức, phương pháp nhất định trong quá trình giảng dạy và học tập lí luận
chính trị.
Lấy triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận của
mình, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn vận dụng triệt để nguyên lý thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong suốt quá trình lãnh đạo giành độc lập dân
tộc, thống nhất tổ quốc cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước. Đặc
biệt, nguyên lý này đã được vận dụng hết sức sáng tạo và linh hoạt trong công
tác giáo dục tư tưởng thời kì đổi mới hiện nay.
Học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin và những chỉ dẫn của Chủ

tịch Hồ Chí Minh, yêu cầu thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình
giảng dạy tại các trường đại học, cao đẳng hiện nay có tầm quan trọng hết sức

1


đặc biệt và cần thiết. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay vấn đề này dường như
đang bị xem nhẹ, nếu không nói là bị bỏ qua. Trong rất nhiều giờ giảng, giảng
viên hầu như chỉ nhắc lại những điều đã có, đã được ghi chép một cách đầy
đủ, rõ ràng trong sách vở, tài liệu. Nhiều giờ học trôi qua trong sự nhàm chán,
nặng nề bởi giáo viên hầu như chỉ biết có lý thuyết suông. Bài giảng thiếu sức
sống, không thuyết phục, không sinh động đang là một hiện tượng khá phổ
biến tại các trường, các cơ sở đào tạo hiện nay. Hệ quả tất yếu kéo theo đó là
chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo, giảng dạy thấp, thậm chí đôi khi
còn phản tác dụng và tạo ra tâm lý ức chế, khiên cưỡng, gò ép cho người học.
Từ đó, nhiều người dễ cho rằng chính trị dường như là một lĩnh vực khô khan,
thiếu sức sống, thiếu sức truyền cảm. Xuất phát từ thực trạng hiện nay các bài
giảng của một số giảng viên về cơ bản mang nặng tính lý thuyết, thiếu tính
thực tiễn nên nhiều người cho rằng dường như học chính trị chỉ là học một
mớ lý thuyết mang tính kinh viện, sáo rỗng, không thực tế. Cũng xuất phát từ
quan niệm sai lầm này mà trong thực tế nhiều sinh viên đã đến với các bài
học, bài thi các môn chính trị bằng một tâm lý đối phó, chỉ chú trọng học vẹt,
học thuộc lòng, học sao cho miễn là qua được các kỳ thi, còn bản chất vấn đề
thì hầu như không hiểu hoặc không cần hiểu, niềm đam mê hứng thú hầu như
không có. Với những quan niệm và tâm lý xuất phát điểm như vậy thì rõ ràng
chất lượng, hiệu quả ở đây có lẽ là vấn đề đáng được báo động.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, tác giả đã lựa chọn
đề tài “Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy
học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh ở Trường Cao đẳng Công nghệ và
Thương mại Hà Nội” làm luận văn khoa học giáo dục.

2. Lịch sử nghiên cứu
Do nguyên tắc thống nhất giữa lý luận - thực tiễn là một vấn đề cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Việc vận dụng nguyên tắc trong dạy học môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng; vì vậy, nó đã được
nhiều tác giả nghiên cứu như Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Gia Khiêm;
đồng chí Phan Diễn - Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư; đồng
2


chí Nguyễn Khoa Điềm - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng,
Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương... Tuy nhiên, mỗi tác giả lại khai
thác vấn đề này ở những khía cạnh khác nhau.
Một số những công trình nghiên cứu về vấn đề này như: “Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về dạy và học môn học Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh trong trường đại học” (2004) của Nguyễn Duy Bắc. Đề tài đã
trình bày những vấn đề lý luận trong dạy và học môn Mác – Lênin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại học và đánh giá khái quát năng lực
đào tạo lý luận Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh của một số trường đại
học. Đồng thời tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả của quá trình đào tạo các môn lý luận Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh trong trường đại học.
Tác giả Trần văn Phòng với công trình “ Đổi mới phương pháp học
tập lý luận chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh”. Trong đó, tác giả đã trình
bày được những phương pháp dạy và học lý luận chính trị mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu: Thứ nhất, dạy và học lý luận chính trị phải nâng cao và
hướng dẫn việc tự học, phải biết tự động học tập, phải lấy tự học làm cốt. Hai
là, trong dạy và học lý luận chính trị, phải thực hành phương pháp “nêu cao
tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng”. Ba là, công tác giáo dục lý
luận chính trị phải thiết thực, cụ thể, phù hợp với đối tượng, với thực tiễn.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy. Năm là, tổ chức quản lý học viên

trong quá trình đào tạo. Sáu là, để giáo dục lý luận chính trị đạt hiệu quả cao
cần chuẩn bị tốt các phương tiện, trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ giảng
dạy và học tập của đội ngũ giảng viên và học viên. Từ đó, tác giả làm rõ tầm
quan trọng của việc đổi mới phương pháp học tập lý luận chính trị theo tư
tưởng Hồ Chí Minh và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình
đổi mới trong quá trình dạy học lý luận chính trị.
Công trình: “Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong dạy học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
(Phần II) ở Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Việt Bắc” (2011) của Ma
3


Thúy Na. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả Ma Thúy Na đã trình bày
những cơ sở khoa học của việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong dạy học môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin (Phần II) ở Trường cao đẳng văn hóa nghệ thuật Việt Bắc đó là những
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng ta về mới quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Đồng thời, tác giả đã chỉ ra
thực trạng dạy học môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
(Phần II) ở Trường cao đẳng văn hóa nghệ thuật Việt Bắc còn nhiều bất cập,
chưa đáp ứng yêu cầu của môn học, kết quả học tập của sinh viên thấp.
Nguyên nhân là do không ít giảng viên chưa thực hiện tốt các nguyên tắc dạy
học, đặc biệt là nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn,
dẫn tới hạn chế trong sử dụng phương pháp dạy học. Tác giả đã tiến hành
thực nghiệm khoa học để từ đó rút ra quy trình và giải pháp vận dụng nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy học môn Những nguyên lí
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (Phần II) ở Trường cao đẳng văn hóa nghệ
thuật Việt Bắc.
Công trình: “Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong việc dạy học bài “Hình thái kinh tế xã hội” môn Những nguyên lý cơ

bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin ở Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Nguyên”
(2009) của Nguyễn Thị Hồng Hải. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả
Nguyễn Thị Hồng Hải đã làm rõ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong việc dạy học bài “Hình thái kinh tế xã hội” môn Những nguyên lí
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin ở Trường Cao đẳng Sư phạm Thái
Nguyên. Đồng thời, tác giả làm rõ nội dung vận dụng nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong việc dạy học bài “Hình thái kinh tế xã hội”.
Nêu lên những thành công, hạn chế của việc vận dụng nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong việc dạy học bài “Hình thái kinh tế xã hội”
môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin ở Trường Cao đẳng
Sư phạm Thái Nguyên và đề xuất phương hướng, giải pháp để vận dụng tốt
nguyên tắc này trong quá trình day học.
4


Ngoài ra, còn có một số những tạp chí, sách, bài báo viết về vấn đề này
như: “Tập bài giảng giáo dục đại học” của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Học viện
Quản lý giáo dục (2006); Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7, 2006,...
Nhìn chung, trong các công trình trên, các tác giả đã đi sâu phân tích và
đề cập tới yêu cầu cũng như vai trò của việc vận dụng nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong dạy học nói chung; không có công trình nào
trong số đó đề cập nghiên cứu việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh ở Trường Cao
đẳng Công nghệ và Thương mại Hà Nội.
Chính vì vậy, tác giả đã tiến hành nghiên cứu luận văn khoa học giáo
dục về vấn đề này với mong muốn thông qua việc khái quát lại nguyên tắc
thống nhất lý luận - thực tiễn trong giảng dạy các môn học nói chung và dạy
học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh tại Trường Cao đẳng Công nghệ và Thương
mại Hà Nội nói riêng. Đồng thời, bước đầu nêu lên thực trạng và những kiến
giải nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả của việc vận dụng nguyên tắc thống

nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh tại
Trường Cao đẳng Công nghệ và Thương mại Hà Nội.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết quy trình thực nghiệm, luận
văn đề xuất quy trình thực nghiệm vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh ở Trường Cao
đẳng Công nghệ và Thương mại Hà Nội; đề xuất một số biện pháp vận dụng
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở Trường Cao đẳng Công nghệ và
Thương mại Hà Nội nói riêng và các trường đại học, cao đẳng nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nghiên cứu việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.

5


- Phạm vi: Luận văn tập trung nghiên cứu việc vận dụng nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh ở Trường Cao đẳng Công nghệ và Thương mại Hà Nội.
5. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
- Tầm quan trọng của việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Thực trạng của việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh ở Trường Cao đẳng
Công nghệ và Thương mại Hà Nội.
- Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận dụng nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh ở Trường Cao đẳng Công nghệ và Thương mại Hà Nội.
6. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và logic,
phân tích và tổng hợp.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương
pháp quan sát, điều tra, thực nghiệm khoa học,…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc vận dụng nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Chương 2: Quy trình, điều kiện và giải pháp vận dụng nguyên tắc thống
nhất lý luận và thực tiễn trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh tại
Trường Cao đẳng Công nghệ và Thương mại Hà Nội
Chương 3: Thực nghiệm vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và
thực tiễn trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh tại Trường Cao đẳng
Công nghệ và Thương mại Hà Nội

6


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC VẬN DỤNG NGUYÊN
TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG DẠY
HỌC MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Cơ sở lý luận của việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn – một nguyên tắc cơ bản
của triết học mácxít
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc
cơ bản, là linh hồn của triết học mácxít. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học,

C.Mác đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó với
thực tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý
luận. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là sự thống nhất biện chứng và
cơ sở của sự tác động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận
động, biến đổi, do đó lý luận cũng không ngừng đổi mới, phát triển; sự thống
nhất biện chứng giữa chúng vì thế cũng có những nội dung cụ thể và những
biểu hiện khác nhau trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử.
1.1.1.1. Phạm trù thực tiễn
Phạm trù thực tiễn là một trong những vấn đề trung tâm của triết học,
nó không chỉ là một phạm trù nền tảng, cơ bản của lý luận nhận thức mácxít
mà còn của toàn bộ triết học Mác - Lênin.
Các nhà triết học trước Mác đã đề cập đến vấn đề thực tiễn với các
quan điểm khác nhau. Bêcơn (1561 - 1626 ) – nhà triết học duy vật Anh, nhà
triết học đầu tiên thấy được vai trò của thực tiễn, của thực nghiệm khoa học
trong quá trình nhận thức, trong quá trình hình thành nhận thức.
Phoiơbắc (1804 – 1872), nhà triết học duy vật Đức đầu thế kỷ XIX đã
đề cập đến thực tiễn, nhưng đối với ông, chỉ có lý luận mới thực sự là hoạt

7


động chân chính của con người, còn thực tiễn chỉ là những hoạt động làm ra
của cải vật chât hiện thời.
Hêghen (1770 – 1831), nhà triết học duy tâm Đức cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX đã có tư tưởng sâu sắc về thực tiễn. Ông cho rằng,
bằng thực tiễn, chủ thể tự “nhân đôi” mình, đối tượng hóa bản thân mình
trong quan hệ với thế giới bên ngoài, nhưng ông chỉ giới hạn thực tiễn ơ
ý niệm, ở hoạt động tư tưởng.
Có thể nói, các nhà duy vật trước Mác đã có công lớn trong việc phát
triển thế giới quan duy vật và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và

thuyết không thể biết. Họ đã hiểu thực tiễn là một hành động vật chất của con
người nhưng lại xem đó là hoạt động của những con buôn, đê tiện, bẩn thỉu.
Nó không có vai trò gì đối với nhận thức của con người. Lý luận của họ còn
có nhiều hạn chế, thiếu sót, trong đó hạn chế lớn nhất là không thấy được vai
trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, do vậy chủ nghĩa duy vật của
họ mang tính chất trực quan.
Các nhà triết học duy tâm, tuy đã thấy được mặt năng động, sáng tạo
trong hoạt động của con người, nhưng cũng chỉ hiểu hoạt động thực tiễn như là
hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của con người, chứ không hiểu nó như
hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính, hoạt động lịch sử – xã hội.
Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan
điểm vể thực tiễn của các nhà triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
đem lại một quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối
với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Với việc đưa ra phạm trù thực tiễn vào lý luận, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và lý luận
nhận thức nói riêng. V.I.Lênin đã nhận xét: “Quan điểm về đời sống, về thực
tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức” [28;167].
Vậy thực tiễn là gì?

8


Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử –
xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn không phải bao gồm tất cả các hoạt động của con
người mà chỉ là hoạt động vật chất của con người. Trong hoạt động thực tiễn,
con người phải sử dụng những phương tiện, công cụ, sức mạnh vật chất để tác
động vào tự nhiên, xã hội, cải tạo, biến đổi chúng cho phù hợp. Nếu con vật
chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới

bên ngoài, thì con người, nhờ vào thực tiễn như là hoạt động có mục đích, có
tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích
nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới.
Không có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội loài người không
thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, có thể nói rằng thực tiễn là phương thức
tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu
của mối quan hệ giữa con người và thế giới. Mác đã viết: “ Con vật chỉ tái sản
xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản suất ra toàn bộ giới tự nhiên”.
[31;119]. Thực tiễn là cái xác định một cách thực tế sự liên hệ giữa vật chất
và những điều cần thiết đối với con người.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất hóa tư tưởng, chuyển cái tinh
thần vào cái vật chất hay mục đích của nhận thức là vì thực tiễn. Tuy nhiên
hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức nhiều khi lại hoàn toàn khác nhau,
đôi khi người ta nhận thức giỏi song hoạt động lại không tốt, không hiệu quả
và ngược lại. Hoạt động thực tiễn còn là qúa trình tương tác giữa chủ thể và
khách thể, trong đó thực tiễn là khân trung gian nối con người với thế giới
khách quan.
Hoạt động thực tiễn có ba dạng cơ bản, đó là:
Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là dạng hoạt động thực tiễn nguyên
thủy nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người và quyết định các dạng khác nhau của hoạt động thực tiễn, nó tạo
thành cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người,
giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật.
9


Hoạt động chính trị - xã hội nhằm biến đổi các quan hệ xã hội, chế độ
xã hội.
Hoạt động thực nghiệm khoa học : Dạng hoạt động thực tiễn này ngày
càng trở nên quan trọng trong sự phát triển xã hội, đặc biệt trong thời kỳ cách

mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
1.1.1.2. Phạm trù lý luận
“Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người,
là toàn bộ tri thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của
các tri thức có tác dụng tái hiện trong lôgíc của các khái niệm cái lôgíc khách
quan của các sự vật” [22;242]
Nói cách khác, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ
thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật của các sự
vật, hiện tượng.
Lý luận, hệ thống tư tưởng chủ đạo trong một lĩnh vực tri thức; kinh
nghiệm loài người đã được khái quát; sự tổng hợp các tri thức về tự nhiên, xã
hội đã được tích lũy trong quá trình lịch sử. Theo đó, lý luận là sản phẩm phát
triển cao của nhận thức, là hệ thống tri thức phản ánh những mối liên hệ bản
chất, tất yếu của sự vật hiện tượng của hiện thực khách quan. Các nguyên lý,
phạm trù, quy luật là hạt nhân của lý luận. Lý luận không hình thành tự phát
mà xuất phát từ thực tiễn, được khái quát, hình thành trên cơ sở kinh nghiệm
thực tiễn, phục vụ cho thực tiễn và khi được thực tiễn kiểm nghiệm đúng đắn,
lý luận đó trở thành lý luận khoa học.
Lý luận được hình thành khái quát trên nền tảng kinh nghiệm thực tiễn.
Không có hoạt động thực tiễn, kinh nghiệm thực tiễn thì không có lý luận
khoa học. Những nhu cầu của thực tiễn bao giờ cũng có tác dụng quyết định
đối với sự phát triển của khoa học. Chẳng hạn do nhu cầu trồng trọt và chăn
nuôi, nhu cầu của hàng hải mà sinh ra toán học và thiên văn học. Sự phát triển
của các nhà máy, công xưởng sinh ra cơ học. Trong lịch sử nhân loại, khoa
học phát triển mạnh nhất sau thời kỳ trung cổ, lúc nền sản xuất tư bản chủ

10


nghĩa xuất hiện và phát triển. “Nếu như, sau đêm tối trung cổ, các nhà khoa

học tự nhiên sống lại với một sức mạnh thần kỳ, thì chúng ta phải đem thành
tích thần kỳ đó quy cho sản xuất”[35;185].
Lý luận không những khái quát kinh nghiệm thực tiễn đã thu được, mà
còn phải đi trước thực tiễn, chỉ ra cho kinh nghiệm thực tiễn con đường vận
dụng, phát triển và đi theo, vũ trang cho con người những tri thức khoa học
trong hoạt động thực tiễn. Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự thống nhất chân chính
giữa lý luận và thực tiễn cách mạng, là kim chỉ nam cho nhận thức lý luận và
thực tiễn của chúng ta.
1.1.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, giữa lý luận và thực tiễn
có mối quan hệ biện chứng với nhau, quy định, tác động qua lại với nhau,
trong đó:
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận và là tiêu chuẩn
của chân lý; sự hình thành và phát của lý luận xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng
yêu cầu của thực tiễn; lý luận phải được kiểm nghiệm, được bổ sung và phát
triển trong thực tiễn
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở,
động lực và mục đích của nhận thức. Chính trong quá trình cải tạo thế giới mà
nhận thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Thực tế lịch
sử cho thấy, con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Trong quá trình này, con người sử dụng các công cụ, phương tiện
tác động vào các sự vật, hiện tượng, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính và
tính qui luật, nhờ đó mà con người có được những hiểu biết về thế giới khách
quan. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm,
sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượg hóa, khái quát hóa... để
xây dựng thành lý luận. Do đó, có thể nói, thực tiễn cung cấp những tài liệu cho
nhận thức, cho lý luận. Không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có lý
luận. Những tri thức mà chúng ta có được cho đến hôm nay hoặc trực tiếp, hoặc
gián tiếp đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn.
11



Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn, trí tuệ con người được
phát triển, được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học. Nhưng bản
thân lý luận không có mục đích tự thân. Lý luận khoa học ra đời vì chúng cần
thiết cho hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói một cách khác, thực
tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Lý luận sau khi ra đời phải quay về
phục vụ thực tiễn, hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, phải biến thành hành động
thực tiễn của quần chúng. Lý luận chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận
dụng vào thực tiễn, đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận còn thể hiện ở chỗ thực
tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có
thể đạt tới chân lý khách quan không, theo C. Mác hoàn toàn không phải là
một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con
người phải chứng minh chân lý.
Sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiến đối với lý luận đòi hỏi
chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc
nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát
thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với
thực tiễn, học đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của
bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu, chủ nghĩa xét lại.
- Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận khoa học; lý luận đề ra mục
tiêu, phương hướng, biện pháp cho thực tiễn.
Coi trọng thực tiễn không có nghĩa là xem thường lý luận, hạ thấp vai
trò của lý luận. Không nên đề cao cái này, hạ thấp cái kia và ngược lại. Không
thể dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận lại trực tiếp từ thực tiễn mà phải
nâng lên thành lý luận bởi lý luận là một trình độ cao hơn về chất so với kinh
nghiệm. Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn,
góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận
là “kim chỉ nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Đánh

giá vai trò và ý nghĩa lớn lao của lý luận, Lênin viết: Không có lý luận cách
mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng.
12


Lý luận một khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành "lực lượng
vật chất". Lý luận có thể dự kiến được sự vận động trong tương lai, từ đó vạch
ra phương hướng cho thực tiễn, chỉ rõ những phương pháp hành động có hiệu
quả nhất để đạt mục đích của thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mà hoạt
động của con người nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự
phát. Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin là ở chỗ, trong khi khái quát thực
tiễn cách mạng, lịch sử xã hội, nó vạch rõ qui luật khách quan của sự phát
triển, dự kiến những khuynh hướng cơ bản của sự tiến hóa xã hội. Điều đó
làm cho các Đảng của giai cấp công nhân có thể vạch ra đường lối, phương
hướng, nhiệm vụ, biện pháp hành động cho phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh,
điều kiện cụ thể của mỗi nước một cách sáng tạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh ví
“không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi” [39; 234].
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao
trong sự phản ánh hiện thực, do sự chi phối của hệ tư tưởng và thái độ không
khoa học nên lý luận có nguy cơ xa rời cuộc sống và trở nên ảo tưởng, giáo
điều. Trong khi nhấn mạnh vai trò quan trọng của lý luận, V.I. Lênin nhắc đi
nhắc lại rằng, lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là "kim chỉ nam"
cho hành động cách mạng; và lý luận không lại là một cái gì cứng nhắc, nó
đầy tính sáng tạo; lý luận luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới
được rút ra từ thực tiễn sinh động.
Do vậy, sức mạnh của lý luận là ở chỗ nó gắn bó mật thiết với thực
tiễn, được kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển trong thực tiễn.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là yếu tố đặc trưng tạo ra sự khác
biệt về chất của chủ nghĩa Mác - Lênin so với hệ thống tư tưởng trước đó trong
lịch sử. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác Lênin có ý nghĩa phương pháp luận to lớn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta.

Nếu vận dụng có hiệu quả nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
dạy học sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học môn Tư tưởng Hồ
Chí Minh ở Trường Cao đẳng Công nghệ và Thương mại Hà Nội.

13


1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong dạy học
Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta những tác phẩm lý luận thuần
túy mà Người đã để lại cho chúng ta một hệ thống những quan điểm, lý luận
khoa học sáng tạo, gắn chặt với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh và là một trong những yếu tố góp phần làm cho tư tưởng của Người có
sức sống trường tồn và sức mạnh cải tạo vĩ đại.
1.1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
- Phạm trù lý luận
Phạm trù lý luận được đề cập trong rất nhiều các bài viết, bài nói chuyện
của Hồ Chí Minh. Khái niệm “lý luận” trong tư tưởng Hồ Chí Minh được
hiểu là: “Đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu
tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại
đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”; “lý luận do kinh
nghiệm cách mạng các nước và trong nước ta, do kinh nghiệm từ trước và
kinh nghiệm hiện nay gom góp phân tích và kết luận những kinh nghiệm đó
thành lý luận” [40; 272]; “lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của
loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại
trong quá trình lịch sử” [50; 497].
Chúng ta nhận thấy rằng, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về “lý
luận” có chứa yếu tố thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và thể hiện được
mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận cũng như yếu tố kế thừa của

lý luận. Cách quan niệm về lý luận như thế cho phép người ta nhìn lý luận
trong trạng thái mở, trạng thái vận động của nó. Lý luận chân chính tự nó
không chấp nhận sự xa rời thực tiễn, xa rời hiện thực. Việc Hồ Chí Minh đặt
“lý luận” trong mối quan hệ chặt chẽ với “kinh nghiệm” cũng là một cách chỉ
ra tính quy định của thực tế đối với nội dung của lý luận. Điều cần lưu ý là,
tuy Người không quên nhắc nhở phải chống bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa,

14


nhưng Người không hề coi thường kinh nghiệm. Với Hồ Chí Minh, kinh
nghiệm là nguyên liệu để tạo nên lý luận, thậm chí là một yếu tố, một bộ phận
của lý luận.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), Hồ Chí Minh đã nêu một
cách cụ thể hơn: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm,
trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành lý
luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế”. Theo Hồ Chí Minh: “đó là lý
luận chân chính”. Như vậy, lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn mà
thành, nhưng lý luận chân chính là lý luận phải được chứng minh với thực tế,
tức là phải phù hợp với thực tế, phải được vận dụng vào thực tế.
Trong các bài viết, bài nói chuyện, Hồ Chí Minh dùng nhiều cách diễn
đạt khác nhau về lý luận, nhưng điều cơ bản mà chúng ta bắt gặp là Người
muốn nhấn mạnh lý luận là “do kinh nghiệm từ trước và kinh nghiệm hiện
nay gom góp, phân tích và kết luận những kinh nghiệm đó mà thành”. Nói
khác đi lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn mà thành.
- Phạm trù thực tiễn
Trong lý luận nhận thức của triết học duy vật biện chứng, “thực tiễn”
được coi là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Nó gồm các dạng cơ bản là
hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động thực

nghiệm khoa học. Thực tiễn được coi là mục đích, là cơ sở, là động lực chủ
yếu và trực tiếp của nhận thức, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Vận dụng nguyên lý này vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt
Nam, Hồ Chí Minh thường dùng các khái niệm “thực tế” hay “thực hành”…
cùng với khái niệm “thực tiễn”. Theo Hồ Chí Minh: “Thực tế là các vấn đề
mình phải giải quyết, là mâu thuẫn của sự vật. Chúng ta là những người cán
bộ cách mạng, thực tế của chúng ta là những vấn đề mà cách mạng đề ra cho
chúng ta giải quyết. Thực tế bao gồm rất rộng. Nó bao gồm kinh nghiệm công

15


tác và tư tưởng của cá nhân, chính sách và đường lối của Đảng, kinh nghiệm
lịch sử của Đảng cho đến các vấn đề trong nước và trên thế giới”[50; 497]
Một điểm cần lưu ý là trong các bài viết, bài nói chuyện, Hồ Chí Minh
đã dùng hai khái niệm thực tiễn và thực tế với cùng một nội hàm như nhau.
Cũng có thể xuất phát từ chỗ để cho mọi người dễ hiểu, dễ nhớ, dễ liên hệ nên
Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm thực tế nhiều hơn khái niệm thực tiễn.
Chúng ta biết rằng phần lớn cán bộ, đảng viên của ta đều xuất thân từ nông
dân, trình độ học vấn còn nhiều hạn chế, lại không quen với những lý thuyết
sách vở cao xa cùng những khái niệm chuyên môn phức tạp khó hiểu.
Việc dùng khái niệm thực tế chắc chắn sẽ dễ giải thích, dễ tuyên
truyền, dễ hiểu hơn khái niệm thực tiễn - với tư cách là một phạm trù triết
học. Hồ Chí Minh cho rằng, thực tế bao gồm rất rộng như thực tế cách
mạng của nước ta, kinh nghiệm công tác tư tưởng của cá nhân, chính sách
đường lối của Đảng, kinh nghiệm của Đảng, những vấn đề trong nước và
trên thế giới hiện nay… Vì vậy, thực tế không đối lập với thực tiễn, nó chỉ
rộng hơn thực tiễn mà thôi.
Qua các bài viết, bài nói chuyện của Hồ Chí Minh chúng ta nhận thấy,
khi đề cập tới sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một nguyên tắc cơ

bản của chủ nghĩa Mác - Lênin thì bao giờ Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm
thực tiễn, nhưng khi đề cập tới việc áp dụng lý luận vào thực tiễn, liên hệ lý
luận với thực tiễn và khi giải thích nguyên tắc này thì Người thường dùng
khái niệm thực tế thay cho thực tiễn. Cho nên, trong cùng một bài viết, bài nói
chuyện, Hồ Chí Minh vẫn sử dụng cả hai khái niệm thực tế và thực tiễn.
Xét về bản chất, hai khái niệm thực tế và thực tiễn tuy có nội dung khác
nhau nhưng được Hồ Chí Minh sử dụng với nội hàm như nhau. Tuy vậy, hai
khái niệm này không hoàn toàn đồng nhất với nhau và không thể thay thế cho
nhau trong một số trường hợp. Vì vậy, Hồ Chí Minh không bao giờ viết “thống
nhất giữa lý luận và thực tế” mà viết “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn”.

16


Xuất phát từ chỗ hiểu thực tế rất rộng, bao gồm toàn bộ thực tiễn cách
mạng của Đảng ta, cả kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, đường lối, chính
sách… Cho nên, Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên rằng khi liên
hệ lý luận với thực tế cần tránh sự lệch lạc không hiểu rõ vấn đề, đòi hỏi phải
giải quyết mọi vấn đề thực tế ngay một lúc, vì thực tế là cả một quá trình lâu
dài của toàn Đảng, toàn dân.
- Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
+ Chủ nghĩa Mác - Lênin là ánh sáng soi đường, kim chỉ nam cho cách
mạng nước ta.
Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác Lênin và chủ nghĩa xã hội, tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc. Người
tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tưởng cho cách mạng Việt Nam.
Vậy điều gì đã làm cho Hồ Chí Minh tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin?
Người tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin và Người tìm thấy ở chủ nghĩa
Mác - Lênin câu trả lời bức thiết nhất cho dân tộc Việt Nam là con đường
giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho mỗi người.

Trong bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin (22/4/1960), Người đã nói:
“Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin,
vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” [44; 128].
Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở thống nhất
giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng. Hơn nữa, lý luận cách mạng
ấy lại được Người vận dụng sáng tạo trong hoạt động thực tiễn cách mạng của
mình. Điều này thể hiện rất rõ ở chỗ, Người tích cực tham gia hoạt động trong
các tổ chức cách mạng, tổ chức chính trị - xã hội nhằm đưa chủ nghĩa Mác Lênin vào phong trào cách mạng. Từ tham gia Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí
Minh đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III). Hồ Chí Minh gia
17


nhập Đảng Cộng sản Pháp (1920) và là một trong những người sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp, Hội Liên hiệp Thuộc địa, ra báo Người cùng khổ. Người đã
viết nhiều bài nói về phong trào công nhân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc
cũng như tố cáo tội ác của bọn đế quốc thực dân đăng trên các báo: Nhân đạo,
Đời sống công nhân, Người cùng khổ… xuất bản ở Pari. Người đã trực tiếp
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam… Đây là cả một quá trình phát triển từ nhận thức lý luận đến việc kết
hợp sáng tạo lý luận Mác - Lênin vào thực tiễn phong trào cách mạng thế giới
và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Rõ ràng là Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ
từ nhận thức lý luận mà còn từ hoạt động thực tiễn cách mạng và không chỉ
dừng lại đó, Người còn đưa lý luận đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Nhờ vậy, Người sớm đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin. Mùa thu năm
1920, không phải chỉ có một mình Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người
Việt Nam duy nhất được đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin, nhưng chỉ có Hồ Chí Minh là

người duy nhất tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn để giải phóng cho
dân tộc ta và các dân tộc bị áp bức khác. Đó là con đường cách mạng vô sản.
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến và nhận thức được
chủ nghĩa Mác - Lênin không phải trên cơ sở kinh nghiệm chủ nghĩa hay giáo
điều sách vở mà trên cơ sở của sự thống nhất nhuần nhuyễn giữa lý luận cách
mạng và hoạt động thực tiễn cách mạng của Người.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, biết vận
dụng lý luận Mác - Lênin vào tình hình thực tế đất nước để từ đó đề ra
đường lối, chính sách đúng đắn. Vì vậy, cách mạng Việt Nam đã giành
được những thắng lợi to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
tiến lên chủ nghĩa xã hội.

18


+ Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận cách mạng và thực tiễn cách mạng.
Hồ Chí Minh tiếp thu những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác Lênin để chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam, Người nắm vững những
nguyên lý triết học mácxít để làm cơ sở lý luận cho những phương pháp cách
mạng đúng đắn. Người hiểu rất sâu sắc vai trò của lý luận đối với thực tiễn.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Người luôn nhắc nhở cán
bộ, đảng viên phải nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin để chỉ đạo thực
tiễn phong trào cách mạng. Người nhắc nhở lại lời dạy của Lênin là: “Không
có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng” và “chỉ có một
đảng có lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có thể làm tròn được vai trò
chiến sĩ tiên phong”. [50; 495]
Để cán bộ, đảng viên hiểu được con đường hình thành và vai trò lý
luận đối với hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã nêu ra khái niệm lý luận
về sự tổng kết, sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn của loài người đã

diễn ra trong lịch sử, là hệ thống những tri thức của loài người về tự nhiên
và xã hội, Người nói: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài
người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ trong quá
trình lịch sử”. [50; 497]
Muốn có lý luận, con người phải dựa vào hoạt động thực tiễn, dựa vào
thực tế trong lịch sử, dựa vào những kinh nghiệm đã đúc rút được trong quá
trình hoạt động thực tiễn. Qua đó, con người đối chiếu, so sánh, phân tích,
tổng hợp và khái quát thành lý luận.
Trong bài Sửa đổi lối làm việc, Người viết: “Lý luận là đem thực tế
trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh
thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành lý luận”. [40; 233]
Lý luận phản ánh đúng đắn bản chất của các sự vật, hiện tượng, các quá
trình trong tự nhiên và xã hội sẽ giúp chúng ta nắm được quy luật vận động
của các sự vật và hiện tượng. Như vậy, Hồ Chí Minh không những làm rõ
19


khái niệm triết học về lý luận, mà còn làm rõ nguồn gốc, con đường hình
thành và vai trò của lý luận. Người cũng nói rõ, chính lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước
đến nay của tất cả các nước. Nó là: “Khoa học về các quy luật phát triển của
tự nhiên và xã hội, khoa học về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị
bóc lột, khoa học về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước...”.
Vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là ngọn đuốc soi đường, là nền tảng tư
tưởng cho phong trào cách mạng của giai cấp vô sản các nước. Những nguyên
lý phổ biến của lý luận Mác - Lênin xác định phương hướng và định ra
phương pháp hành động đúng đắn cho Đảng Cộng sản và phong trào công
nhân ở nước ta thực hiện thành công cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về mối quan hệ giữa kinh nghiệm và lý luận, Người cho rằng, kinh

nghiệm là vốn quý. Trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải rút kinh
nghiệm, nắm được kinh nghiệm và cần có nhiều kinh nghiệm để chỉ đạo
hành động. Con người không có kinh nghiệm, sẽ không có cơ sở, điều kiện
để tổng kết, đúc rút lý luận. Nhưng, nếu chỉ dừng lại ở trình độ kinh
nghiệm thì chưa đủ. Bởi vì, kinh nghiệm mới chỉ phản ánh từng mặt, từng
bộ phận, chưa đi sâu vào bản chất và tìm ra quy luật vận động của các sự
vật, hiện tượng. Kinh nghiệm chỉ có vai trò trong một phạm vi hẹp. Trong
tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh đã nói với cán bộ, đảng viên
rằng: “... kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ
phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi”.
Vì vậy, đòi hỏi cán bộ, đảng viên không được dừng lại ở trình độ kinh
nghiệm, tuyệt đối hoá kinh nghiệm dẫn đến coi thường lý luận, không học lý
luận, lý luận kém. Muốn làm việc tốt, cán bộ cần phải nâng cao tri thức lý
luận, nắm vững lý luận. Người nói: “Có những cán bộ, những đảng viên cũ,
làm được việc, có kinh nghiệm. Cố nhiên, những anh em đó rất quý báu
cho Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh khinh lý luận. Họ quên rằng:
20


×