Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

(Tiểu luận) nhà nước xã hội chủ nghĩa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.4 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
.............................................................................
LỜI CẢM ƠN
............................................................................................................
LỜI CAM ĐOAN
......................................................................................................
MỤC LỤC
..................................................................................................................
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.....................................................................1
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU...................2
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................................................2
4. BỐ CỤC CỦA TIỂU LUẬN...............................................................2
PHẦN NỘI DUNG...............................................................................3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA
3
1. Dân chủ....................................................................................... 3
1.1. Lịch sử ra đời và khái niệm của dân chủ..........................................3
1.2. Khái niệm về dân chủ theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin...........3
1.3. Sự ra đời và phát triển của dân chủ................................................6
2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa................................................................8
2.1. Quá trình ra đời và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa...........8
2.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa....................................10
2.2.1. Bản chất chính trị................................................................ 10
2.2.2. Bản chất kinh tế.................................................................. 11
2.2.3. Bản chất tư tưởng văn hoá.....................................................11
CHƯƠNG 2: NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ



NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM................12
1. Nhà nước xã hội chủ nghĩa............................................................ 12


1.1. Sự ra đời và khái niệm của nhà nước xã hội chủ nghĩa......................12
1.2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa........................................14
1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.....................................15
2.

Mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa
.............................................................................................................................16

3.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam..............................................................................................17
3.1. Sự ra đời và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. . .17
3.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.....................18
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
TRÁCH NHIỆM CỦA THANH NIÊN, SINH VIÊN TRONG VIỆC GÓP
PHẦN XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN

NAY................................................................................................19
1. Thực tiễn dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay....................19
2. Phương hướng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam............22
3. Trách nhiệm của thanh niên, sinh viên Việt Nam trong việc góp phần xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay........................26
PHẦN KẾT LUẬN.............................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................... 28



PHẦN MỞ ĐẦU
1.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Dân chủ là giải pháp hữu hiệu để tạo nên sự nhất trí căn bản về lợi ích của
các thành phần kinh tế, các giai tầng và các cộng đồng dân tộc trong xã hội nước
ta. Sự nhất trí đó tổng hợp thành sức mạnh của dân tộc, tạo nên nội lực mạnh mẽ
đưa đất nước vượt qua tất cả khó khăn, thử thách. “Dân chủ” không phải là khái
niệm bất biến mà là một phạm trù chính trị, lịch sử, văn hóa, xã hội và luôn gắn với
sự tồn tại của các kiểu nhà nước trong những điều cụ thể nhất định. Bởi vậy, khái
niệm “dân chủ” có mối quan hệ chặt chẽ với khái niệm “chế độ dân chủ” và “nền
dân chủ”. “Chế độ dân chủ” dùng để chỉ thiết chế xã hội nhằm thực hiện quyền lực
của nhân dân; còn khái niệm “nền dân chủ” dùng để chỉ hệ thống các thiết chế
được xác lập và thực thi trong hiện thực xã hội theo mục tiêu thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân trong xã hội đó.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, dân chủ là một phạm trù có q
trình phát sinh, phát triển rất phức tạp. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, mỗi thời đại,
mỗi quốc gia, dân tộc, dân chủ ln có những nét đặc trưng trên cơ sở kế thừa biện
chứng những điểm chung được nêu ở trên. Trong chế độ chiếm hữu nơ lệ, xét về bản
chất chính là dân chủ của giai cấp chủ nô. Trong chế độ phong kiến, các tư tưởng và mơ
hình dân chủ bị hạn chế, cấm đoán bởi chế độ tập quyền chuyên chế khi quyền lực tuyệt
đối nằm trong tay một đấng quân vương. Nền dân chủ tư sản được xác lập do cuộc cách
mạng tư sản dựa trên cơ sở liên minh giữa giai cấp tư sản với các giai cấp khác lật đổ
chế độ phong kiến. Vì vậy, những thành tựu giành được của nền dân chủ tư sản không
chỉ do riêng giai cấp tư sản tạo ra, mà là kết quả đấu tranh của nhân dân lao động, kết
quả của quá trình nhận thức và tất yếu của tiến bộ xã hội. Những tuyên bố về tự do, bình
đẳng, bác ái, tư tưởng về nhà nước pháp quyền và xã hội công dân là những nội dung
đầu tiên của dân chủ tư sản. Tuy nhiên, với bản chất của xã hội tư sản, nền dân chủ tư

sản không tránh khỏi những hạn chế khách quan. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ
của nhân dân lao động (dân chủ nhân dân) được thể hiện trong mọi lĩnh vực chính trị kinh tế, văn hóa - xã hội. Nó được hình thành và phát triển bằng tồn bộ những giá trị
văn hóa chân thực của nhân loại. Xã hội càng phát triển, điều kiện vật chất, trí tuệ, tinh
thần của con người


ngày càng phong phú thì xu hướng dân chủ càng mở rộng và được khẳng định
mạnh mẽ.
Nắm rõ được sứ mệnh của dân chủ, hiểu rõ được mục tiêu của nhà nước ta:
Nhà nước Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự nghiệp xây dựng đất nước, là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, em
xin chọn đề tài “Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở ViêthNam và trách nhiêmh của thanh
niên, sinh viên trong viêch góp phần xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Viêth
Nam hiênh nay” để thực hiện nghiên cứu một cách tổng quan và toàn diện về dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bao gồm sự ra đời, khái niệm và bản chất của nó.
Từ đó, có thể đúc kết được trách nhiệm của thế hệ thanh niên, sinh viên trong viêch
góp phần xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Viê thNam.
2.

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở ViêthNam, trong đó bao
gồm: dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nhà nước
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Qua đó đưa ra phương hướng, đường lối cho thế hệ
thanh thiếu niên được phụng sự Tổ quốc, thể hiện trách nhiệm của mình trong việc
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở ViêthNam.

3.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng phương pháp thu thập và xử lí tài liệu: trên cơ sở thu thập thông

tin tư liệu từ nhiều lĩnh vực như văn hóa, lịch sử…; nhiều nguồn tư liệu khác nhau
có liên quan đến đề tài như sách, báo, các trang web… Kết hợp cùng phương pháp
lịch sử và phương pháp phân tích, tổng hợp: phương pháp này giúp định hướng,
thống kê, phân tích để có cách nhìn tương quan.

4.

BỐ CỤC CỦA TIỂU LUẬN
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài kiệu tham khảo thì phần nội dung bao gồm:
Chương 1: Lý luận về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Chương 2: Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trách của thanh niên,
sinh viên trong viêch góp phần xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
ViêthNam hiênh nay


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA
1.

Dân chủ
1.1. Lịch sử ra đời và khái niệm của dân chủ
Lịch sử loài người hàng nghìn năm về trước, con người đã biết hình thành
những bộ tộc, thị tộc để cùng nhau sinh sống và tiến hành hoạt động sản xuất,
chống lại thiên tai hoặc tổ chức các hoạt động chung mang tính tập thể. Trong các
thị tộc đó, họ bầu ra người đứng đầu nắm giữ quyền lực là các lãnh đạo thị tộc. Tuy
nhiên, nếu người tộc trưởng không làm tốt sẽ bị phế bỏ quyền lực theo ý nguyện và
lợi ích chung của cộng đồng. Có thể xem đó là hình thức đầu tiên của dân chủ khi

quyền lực nằm trong tay những thành viên trong thị tộc, họ chính là chủ thể của
quyền lực và đưa ra các quyết định vì cộng đồng chung.
Từ thời Hy Lạp cổ, việc bầu cử và truất quyền những người đứng đầu thuộc vào
quyền lực và sức mạnh của nhân dân. Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ VII –
VI trước Công nguyên. Những nhà tư tưởng Hy Lạp cổ sư dụng cụm từ “demoskratos”
với dụng ý về dân chủ. “Demos” mang ý nghĩa là nhân dân, “kratos” có nghĩa là cai trị.
Vậy nên “demonskratos” được hiểu là nhân dân cai trị và sở hữu quyền lực, đó cũng là
khái niệm của dân chủ. Sau này, dân chủ được các nhà chính trị gọi là quyền lực của
nhân dân hoặc quyền lực thuộc về nhân dân. Điểm khác biệt cơ bản giữa dân chủ thời cổ
đại và hiện nay là ở tính chất trực tiếp của mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng và
cách hiểu về nội hàm của khái niệm nhân dân.

1.2. Khái niệm về dân chủ theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Dân chủ thuộc về phạm trù lịch sử, là sản phẩm của quan hệ giai cấp và đấu
tranh giai cấp. Chỉ khi có giai cấp, có nhà nước thì mới xuất hiện phạm trù dân
chủ. Khi giai cấp mất đi hoặc nhà nước bị tiêu vong, dân chủ cũng khơng tồn tại
(hình thức của xã hội chủ nghĩa cộng sản). Khi xuất hiện chế độ tư hữu, xã hội bắt
đầu phân chia giai cấp, có sự phân hoá giàu nghèo, phân biệt giữa địa chủ và nơ lệ,
người bóc lột và người bị bóc lột. Từ đó hình thành nên dân chủ trong xã hội khi
có sự xuất hiện của các giai cấp. Vì vậy mà trong suốt tiến trình lịch sử ln diễn
ra


các cuộc đấu tranh đòi độc lập, đòi quyền tự do, dân chủ trong cuộc xung đột của
các giai cấp.
Qua nghiên cứu về các chế độ dân chủ trong dòng chảy lịch sử và thực tiễn
lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, các nhà kinh điển sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng dân chủ là thành quả của quá trình đấu tranh giai cấp cho những giá
trị tiến bộ của lồi người. Nó được xem là một hình thức tổ chức nhà nước của giai
cấp cầm quyền, là một trong những nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị
- xã hội. Một số nội dung về dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin:

1.

Về phương diện quyền lực: dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ

thể sở hữu của quyền lực nhà nước, là chủ nhân của nhà nước. Nói cách khác, dân chủ là
quyền lợi cơ bản của nhân dân. Quyền lợi ấy chính là quyền lực nhà nước nằm trong tay của
nhân dân, của xã hội. Hoạt động của bộ máy nhà nước phải vì nhân dân, vì phục vụ cho cộng
đồng và các mục đích xã hội. Vì vậy, chỉ khi mọi quyền lực nhà nước thuộc về quyền sở hữu
của nhân dân thì mới có thể đảm bảo về việc nhân dân được hưởng quyền làm chủ với tư cách
là một quyền lợi.

2.

Về phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị: dân chủ là hình thức

hoặc hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ. Điều này gắn liền với
xã hội có giai cấp, có nhà nước.
3.

Về phương diện tổ chức và quản lý xã hội: dân chủ được xem là một nguyên tắc

quản lý xã hội. Nguyên tắc dân chủ này kết hợp với nguyên tắc tập trung để hình thành
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và quản lý xã hội. Tồn tại nguyên tắc dân
chủ và nguyên tắc tập trung, khi hai nguyên tắc này kết hợp hình thành nên nguyên tắc
tập trung dân chủ thể hiện cho mối quan hệ biện chứng.
Chủ nghĩa Mác – Lênin nhấn mạnh: dân chủ phải được coi là mục tiêu, là tiền đề, là
phương tiện để hướng đến sự tự do bao gồm giải phóng con người, giải phóng giai cấp
và giải phóng xã hội. Dân chủ với tư cách một hình thức tổ chức thiết chế chính trị, một
hình thức hay hình thái nhà nước, ra đời và phát triển gắn liền với nhà nước và mất đi
khi nhà nước tiêu vong. Mỗi chế độ dân chủ sẽ gắn với nhà nước mang bản chất giai cấp

thống trị xã hội. Khi ở tư cách là một giá trị xã hội, dân chủ là một phạm trù mang tính
chất vĩnh viễn, tồn tại. Nó phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của loài người và
xã hội loài người. Nếu con người và xã hội loài


người còn tồn tại, nếu các nền văn minh vẫn cịn tiếp tục ra đời và chưa bị diệt
vong thì dân chủ vẫn tồn tại với tư cách một giá trị nhân loại chung.
Chủ nghĩa Mác - Lênin thừa nhận những nhân tố hợp lý và nhận thức của khái
niệm về dân chủ. Dân chủ suy cho cùng là quyền lực của dân, là sức mạnh nằm
trong tay dân. Dân phải thực sự là chủ thể của xã hội, được nhân dân làm chủ một
cách toàn diện bao gồm: làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, làm chủ chính bản
thân, làm chủ và sở hữu mọi năng lực sáng tạo của bản thân với tư cách chủ thể
đích thực của xã hội. Bên cạnh đó, dân chủ phải bao hàm được tất cả các lĩnh vực
trong đời sống kinh tế - xã hội như: dân chủ trong kinh tế, dân chủ trong chính trị,
dân chủ trong xã hội, dân chủ trong đời sống văn hóa - tinh thần, tư tưởng. Trong
số đó, hai lĩnh vực về dân chủ có tầm quan trọng hàng đầu công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước là dân chủ trong kinh tế và dân chủ trong chính trị. Nó quy định
và quyết định đến hai lĩnh vực còn lại: dân chủ trong xã hội và dân chủ trong đời
sống văn hóa – tinh thần, tư tưởng. Hơn hết, dân chủ trong kinh tế và dân chủ trong
chính trị cịn thể hiện trực tiếp nhân quyền và dân quyền của người dân, khi nhân
dân là chủ thể xã hội và làm chủ xã hội. Vì vậy, dân chủ mang giá trị xã hội mà
lồi người muốn hướng tới.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng nó vào trong q trình
qua độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh khơng sử dụng những
khái niệm trừu tượng mà tập trung diễn giải các vấn đề vô cùng cụ thể và gần gũi với đại
đa số nhân dân, khẳng định “Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ” 1. Khi xem dân chủ
với tư cách là một thể chế chính trị hay một chế độ xã hội thì Hồ Chí Minh khẳng định
rằng “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ mà Chính phủ là người
đầy tớ trung thành của nhân dân.” 2. Luận điểm của Hồ Chí Minh: “Chính quyền dân chủ
có nghĩa là chính quyền do người dân làm chủ. Và một khi nước ta đã trở thành một

nước dân chủ, “chúng ta là dân chủ” thì dân chủ là “dân làm chủ” thì Chủ tịch, bộ
trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là quan
cách mạng.”3 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiểu về vấn đề dân chủ rất sâu sắc, đúng theo
nghĩa khởi thuỷ của nó là “quyền

1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. CTQG, H.1996, tập.6. tr.515.
2 Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. CTQG, H.1996, tập.7, tr.499.
3 Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb.CTQG, H. 1996, tập.6, tr.365; tập.8, tr.375.


lực thuộc về nhân dân”. Quyền lực ấy được nhân dân giao phó cho người đại diện
để thực thi quyền lực của họ.
Đảng khẳng định: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động”. Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa tư tưởng
Hồ Chí Minh, kế thừa giá trị chung của lịch sử nhân loại trong vấn đề dân chủ và
đặc biệt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam, Đảng Cộng sản
Việt Nam quan niệm “Dân chủ gắn liền với công bằng”. Dân chủ và công bằng là
hai phạm trù khác nhau nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu dân chủ
không gắn liền với công bằng, bình đẳng thì dân chủ này sẽ trở thành dân chủ hình
thức. Dân chủ gắn với cơng bằng xã hội trên tất cả các lĩnh vực mà trước hết là lợi
ích. Lợi ích đầu tiên là lợi ích về kinh tế, về chính trị, văn hố, xã hội thơng qua
hoạt động nhà nước do nhân dân bầu cử và các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân
chủ phải đi đơi với kỷ luật, kỷ cương. Quan điểm cuối của Đảng về dân chủ “Dân
chủ phải được thể chế hoá bằng pháp luật, bằng quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm và
được pháp luật bảo đảm.”
Kết luận lại, có thể hiểu “Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh những quyền
cơ bản của con người; là phạm trù chính trị gắn với hình thức tổ chức nhà nước của
giai cấp cầm quyền; là phạm trù lịch sử gắn với quá trình ra đời, phát triển cùng
với lịch sử xã hội nhân loại.”

1.3. Sự ra đời và phát triển của dân chủ
Lồi người hình thành và xuất hiện từ khoảng hai trăm thiên niên kỷ về trước. Trong
quá trình phát triển, họ hình thành những bộ lạc, thị tộc. Trong xã hội sớm nhất là xã hội
công xã nguyên thuỷ, xuất hiện hình thức manh nha của dân chủ. Nhu cầu dân chủ xuất
hiện trong xã hội tự quản của cộng đồng các thị tộc, bộ lạc của người nguyên thuỷ. Hình
thức dân chủ đầu tiên được gọi là “dân chủ nguyên thủy” hay còn được gọi bằng một cái
tên khác là “dân chủ quân sự”. Đặc trưng cơ bản của hình thức dân chủ này là nhân dân
bầu ra thủ lĩnh quân sự thông qua “Đại hội nhân dân”. Trong “Đại hội nhân dân”, mọi
người đều có quyền phát biểu và tham gia quyết định bằng cách giơ tay hoặc hoan hơ. Ở
“Đại hội nhân dân”, nhân dân có


quyền lực thật sự (nghĩa là có dân chủ), mặc dù trình độ sản xuất cịn kém phát
triển.
Lịch sử xã hội loài người tới nay đã và đang trải qua 5 hình thái xã hội và 3
nền dân chủ bao gồm nền dân chủ chủ nô, nền dân chủ tư sản và nền dân chủ sai
nghĩa. “Dân chủ nguyên thuỷ” chưa phải là nền dân chủ, không phải là một chế độ
dân chủ vì xã hội này chưa hình thành nhà nước và giai cấp. Nhưng trong xã hội
này tồn tại những biểu hiện dân chủ “quyền lực thuộc về nhân dân”. Khi trình độ
của lực lượng sản xuất phát triển dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu và giai cấp đã
làm cho hình thức “dân chủ ngun thủy” tan rã thì giai cấp chủ nơ xuất hiện, dẫn
đến nền dân chủ chủ nô ra đời. Nền dân chủ chủ nô được tổ chức thành nhà nước
với đặc trưng là dân tham gia bầu ra Nhà nước. “Dân” ở nền dân chủ chủ nô theo
quy định của giai cấp cầm quyền, trong xã hội chiếm hữu nô lệ chỉ gồm giai cấp
chủ nô và phần nào thuộc về các công dân tự do (tăng lữ, thương gia, trí thức). Đa
số số lượng cịn lại khơng phải là “dân” mà là “nô lệ”. Trong xã hội chiếm hữu nô
lệ ấy, nô lệ không được xem là người, không được tham gia vào công việc nhà
nước mà chỉ được xem là món hàng hố, là vật thuộc sở hữu của chủ nơ. Vì vậy về
thực chất, dân chủ chủ nô cũng chỉ thực hiện quyền dân chủ cho thiểu số, quyền
lực của dân chỉ bó hẹp trong một đối tượng xã hội nhất định.

Trong sự phát triển của xã hội loài người cùng với sự tan rã của chế độ chiếm
hữu nơ lệ, lịch sử xã hội lồi người bước vào thời kỳ phong kiến với sự thống trị
của nhà nước chuyên chế phong kiến. Trong xã hội phong kiến khơng tồn tại nền
dân chủ mà thay vào đó là sự ra đời của chế độ độc tài chuyên chế phong kiến với
chế độ quân chủ để thống trị xã hội. Khác với nền dân chủ chủ nô, thời kỳ phong
kiến do vua đứng đầu và nắm mọi quyền hành thay vì dân. Dân xem việc tn theo
ý

chí của giai cấp thống trị là bổn phận của mình trước sức mạnh của đấng tối cao.

Vì vậy, ý thức về dân chủ và đấu tranh để thực hiện quyền làm chủ của người dân đã
khơng có bước tiến đáng kể nào.
Vào cuối thế kỷ XIV - đầu XV, giai cấp tư sản với những tư tưởng tiến bộ về tự do,
công bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản. Dân chủ tư sản
ra đời được đánh dấu là một bước tiến lớn của nhân loại với những giá trị về quyền tự
do, bình đẳng, dân chủ. Tuy nhiên, do được xây dựng trên nền tảng kinh tế là chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất nên nền dân chủ tư sản vẫn là nền dân chủ của


thiểu số người nắm giữ tư liệu sản xuất đối với đại đa số nhân dân lao động. Khi
các cuộc cách mạng tư sản nổ ra, thành công mà dân đạt được là họ giải phóng con
người khỏi ách nơ lệ, đem lại quyền tự do về thân thể cho con người. Nền dân chủ
tư sản hướng đến giá trị nổi bật của nhân loại, đó là quyền bình đẳng và quyền dân
chủ. Trong bản tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp đã
khẳng định: Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hố cho họ những
quyền khơng ai có thể phủ nhận được, đó là quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc. Đây là những giá trị mà nền dân chủ tư sản đã mang lại
cho lịch sử dân tộc.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917) cũng là lúc mở
ra một thời đại mới mở – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

Nhân dân lao động giành được quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, thiết lập
Nhà nước công – nông, thiết lập nền dân chủ vô sản để thực hiện quyền lực của
nhân dân. Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền
lực của nhân dân, bảo vệ quyền lợi cho đại đa số nhân dân.
Mỗi chế độ dân chủ đều mang bản chất giai cấp thống trị xã hội. Với tư cách
là một hình thái nhà nước, trong lịch sử nhân loại đã chứng minh sự tồn tại của ba
chế độ dân chủ: chế độ dân chủ chủ nô, gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ; chế độ
dân chủ tư sản, gắn với chế độ tư bản chủ nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn
với chế độ xã hội chủ nghĩa.
2.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa
2.1. Quá trình ra đời và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Các nhà kinh điển sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng việc đấu tranh cho
dân chủ là một quá trình dài và phức tạp. Giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải
là hồn thiện nhất. Vì vậy mà đã xuất hiện một nền dân chủ mới, cao hơn nền dân
chủ tư sản, đó là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (dân chủ vô sản).
Sự thành công của Cách Mạng Tháng 10 Nga năm 1917 đã làm xuất hiện nhà
nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới
chính thức được xác lập. Khi xuất hiện nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa này,
nhân dân lao động đã giành lại được quyền lực thực sự của mình.


Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa xuất phát từ thấp đến
cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Tồn tại sự kế thừa những giá trị của nền
dân chủ trước đó, trước hết là nền dân chủ tư sản. Sau đó bắt đầu bổ sung và làm
sâu sắc thêm những giá trị của nền dân chủ mới. Để ra đời được chế độ xã hội chủ
nghĩa là quá trình đấu tranh lâu dài của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân
lao động. Nó bắt nguồn từ trong lịng chủ nghĩa tư bản. Mâu thuẫn trong lòng chủ
nghĩa tư bản và trong nền dân chủ tư sản buộc nổ ra các cuộc cách mạng xã hội chủ

nghĩa (cách mạng vô sản). Các cuộc cách mạng trên giành được thắng lợi dẫn đến
giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền, từ đó thực thi
quyền dân chủ trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, tư tưởng. Điều đó đồng
nghĩa với việc dân chủ xã hội chủ nghĩa được ra đời, được hình thành và phát triển.
Khi giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền, họ nắm
trong tay tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp cơng nhân và nhân dân lao
động phải bắt tay vào công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả
các lĩnh vực. Để xây dựng được xã hội như vậy địi hỏi nhà nước và chế độ đó phải
vì nhân dân, do nhân dân. Dó đó nó phải huy động được nhân dân, phải thực hiện
ban bố các quyền dân chủ đối với nhân dân. Nhân dân trong chế độ xã hội chủ
nghĩa phải thực hiện được quyền lực của mình.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp vơ sản khơng thể hồn
thành cuộc cách mạnh xã hội chủ nghĩa nếu không được thông qua đấu tranh cho
dân chủ. Chủ nghĩa xã hội sẽ khơng thể duy trì và thắng lợi nếu không thực hiện
đầy đủ dân chủ. Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là không
ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho những người lao động,
thu hút họ tham gia tự giác vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Càng
hồn thiện thì nền dân chủ xã hội chủ nghĩa càng tự tiêu vong. Nguyên nhân là do
tính chính trị của dân chủ sẽ mất đi trên cơ sở không ngừng mở rộng dân chủ đối
với nhân dân, xác lập địa vị chủ thể quyền lực của nhân dân, tạo điều kiện để họ
tham gia ngày càng đơng đảo và ngày càng có ý nghĩa quyết định vào sự quản lý
nhà nước, quản lý xã. Q trình đó làm cho dân chủ trở thành thói quen trong sinh
hoạt xã hội để nó khơng cịn tồn tại như một thể chế nhà nước và mất đi tính chính
trị. Khi xã hội khơng cịn phân chia giải cấp, hình thành xã hội cộng sản chủ nghĩa
đỉnh cao thì dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách là chế độ nhà nước sẽ tiêu vong.


Kết luận chung, “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất
so với nền dân chủ có trong lịch sử nhân loại, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền
lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong

sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.”4

4 [ CITATION GST192 \l 1033 ]



×