Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

(Tiểu luận) tiểu luận môn luật du lịch chủ đề tiểu luận khái niệm và nguyên tắc hoạt động du lịch theo pháp luật việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.57 KB, 13 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI.

TIỂU LUẬN: MÔN LUẬT DU LỊCH
Chủ đề tiểu luận: Khái niệm và nguyên tắc hoạt động du lịch theo pháp luật
Việt Nam hiện hành.

Giáo viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện : Hoàng Quốc Hùng
Lớp: DL24-01
MSV : 16121194


Mở đầu
Bất kỳ hoạt động có mục đích nào trong cuộc sống cũng đều phải dựa trên cơ sở
nguyên tắc nhất định. Đây chính là tư tưởng và định hướng chủ đạo giúp các chủ
thể thực hiện hiệu quả công việc trong một lĩnh vực cụ thể.
Nguyên tắc là luận điểm gốc của học thuyết nào đó, tư tưởng chỉ đạo của quy
tắc hoạt động hay là niềm tin, quan điểm đối với sự vật và chính quan điểm,
niềm tin đó xác định quy tắc hành vi, đồng thời cũng có thể là nguyên lý cấu
trúc hoạt động của bộ máy dụng cụ thiết bị nào đó.
Ngồi ra, ngun tắc có thể là tư tưởng chủ đạo và định hướng cơ bản được thể
hiện xuyên suốt toàn bộ hoặc một giai đoạn nhất định đòi hỏi các cơ quan, tổ
chức, cá nhân phải tuân theo.
Nguyên tắc của mỗi ngành luật là những tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt trong
quá trình xây dựng và áp dụng của ngành luật đó.
Nội dung của nguyên tắc là gì? trong mỗi ngành luật bất kỳ trong hệ thống
pháp luật phụ thuộc vào đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó.
Vì vậy trong nội dung bài tiểu ngày hơm nay em xin được trình bày về khái
niệm nội hàm và nguyên tắc trong hoạt động du lịch theo pháp luật Việt Nam.



Nội dung
1. Tổng quát chung về du lịch , 1.1.Khái niệm du lịch .
Ngày nay du lịch trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến. Hiệp hội lữ hành
quốc tế đã công nhận du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới vượt lên cả ngành
sản xuất ô tô, thép điện tử và nông nghiệp. Vì vậy, du lịch đã trở thành một ngành kinh
tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới. Thuật ngữ du lịch đã trở nên khá thơng
dụng, nó bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là đi một vịng. Du lịch gắn liền với
nghỉ ngơi, giải trí, tuy nhiên do hoàn cảnh, thời gian và khu vực khác nhau, dưới mỗi
góc độ nghiên cứu khác nhau nên khái niệm du lịch cũng không giống nhau. Luật Du
lịch Việt Nam 2005 đã đưa ra khái niệm như sau: “Du lịch là các hoạt động liên quan
đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng
nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất
định”. Theo liên hiệp Quốc các tổ chức lữ hành chính thức( International Union of
Official Travel Oragnization: IUOTO): Du lịch được hiểu là hành động du hành đến
một nơi khác với điạ điểm cư trú thường xun cuả mình nhằm mục đích không phải
để làm ăn, tức không phải để làm một nghề hay một việc kiếm tiền sinh sống... Tại hội
nghị LHQ về du lịch họp tại Roma - Italia ( 21/8 – 5/9/1963), các chuyên gia đưa ra
định nghĩa về du lịch: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt
động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú cuả cá nhân hay tập thể ở bên
ngoài nơi ở thường xuyên cuả họ hay ngồi nước họ với mục đích hồ bình. Nơi họ
đến lưu trú khơng phải là nơi làm việc cuả họ. Theo các nhà du lịch Trung Quốc: họat
động du lịch là tổng hoà hàng loạt quan hệ và hiện tượng lấy sự tồn tại và phát triển
kinh tế, xã hội nhất định làm 7 cơ sở, lấy chủ thể du lịch, khách thể du lịch và trung
gian du lịch làm điều kiện. Theo I.I pirôgionic, 1985: Du lịch là một dạng hoạt động
cuả dân cư trong


thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường
xuyên nhằm nghĩ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ

nhận thức văn hố hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh
tế và văn hoá. Theo nhà kinh tế học người Áo Josep Stander nhìn từ góc độ du khách:
khách du lịch là loại khách đi theo ý thích ngồi nơi cư trú thường xun để thoả mãn
sinh họat cao cấp mà khơng theo đuổi mục đích kinh tế. Nhìn từ góc độ thay đổi về
khơng gian cuả du khách: du lịch là một trong những hình thức di chuyển tạm thời từ
một vùng này sang một vùng khác, từ một nước này sang một nước khác mà khơng
thay đổi nơi cư trú hay nơi làm việc. Nhìn từ góc độ kinh tế: Du lịch là một ngành kinh
tế, dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ cho nhu cầu tham quan giải trí nghĩ ngơi, có hoặc
khơng kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu
cầu khác. Theo Bản chất du lịch Nhìn từ góc độ nhu cầu của du khách: Du lịch là một
sản phẩm tất yếu của sự phát triển kinh tế - xã hội của loài người đến một giai đoạn
phát triển nhất định. chỉ trong hoàn cảnh kinh tế thị trường phát triển, gia tăng thu nhập
bình quân đầu người, tăng thời gian rỗi do tiến bộ cuả khoa học - công nghệ, phương
tiện giao thông và thông tin ngày càng phát triển, làm phát sinh nhu cầu nghĩ ngơi,
tham quan du lịch cuả con người. Bản chất đích thực của du lịch là du ngoạn để cảm
nhận những giá trị vật chất và tinh thần có tính văn hố cao. Xét từ góc độ các quốc
sách phát triển du lịch: Dựa trên nền tảng của tài nguyên du lịch để hoạch định chiến
lược phát triển du lịch, định hướng các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. lựa
chọn các sản phẩm du lịch độc đáo và đặc trưng từ nguốn nguyên liệu trên, đồng thời
xác định phương hướng qui hoạch xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và cơ sở hạ tầng
dịch vụ du lịch tương
8 ứng Xét từ góc độ sản phẩm du lịch: sản phẩm đặc trưng cuả du lịch là các chương
trình du lịch, nội dung chủ yếu cuả nó là sự liên kết những di tích lịch sử, di tích văn
hố và cảnh quan thiên nhiên nổi tiếng cùng với cơ sở vật chất - kỹ thuật như cơ sở lưu
trú, ăn uống, vận chuyển. Xét từ góc độ thị trường du lịch: Mục đích chủ yếu


của các nhà tiếp thị du lịch là tìm kiếm thị trường du lịch, tìm kiếm nhu cầu cuả
du khách để “ mua chương trình du lịch”.
1.2. Khái niệm Khách du lịch

là đối tượng trực tiếp tham gia vào quá trình hướng dẫn du lịch của hướng dẫn viên,
là đối tượng của các đơn vị phục vụ và kinh doanh du lịch. Để trở thành một khách
du lịch, con người cần phải có các điều kiện như: có thời gian rỗi, có khả năng
thanh tốn và có nhu cầu cần được thỏa mãn. Theo luật Du lịch Việt

Nam, khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp
đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến (Khoản 2 Điều 4
Luật Du lịch của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số
44/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005).
1.3. Hoạt động du lịch
là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng
dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch (Điều 4 Luật Du
lịch của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 44/2005/QH11
ngày 14 tháng 06 năm 2005).
1.4. Tài nguyên du lịch
là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử – văn hố, cơng trình
lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử
dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du
lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch (Điều 4 Luật Du lịch của Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 44/2005/QH11 ngày 14 tháng
06 năm 2005).


1.5. Điểm và Khu du lịch
có những yếu tố giống nhau như: gắn liền với nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn,
có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết để đáp ứng nhu cầu của khách du
lịch, tạo công ăn việc làm cho cộng đồng địa phương và đem lại nguồn thu và
quảng bá cho đất nước và cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, khái niệm giữa
Điểm du lịch và Khu du lịch có sự phân biệt với nhau. Điểm du lịch là nơi có tài
nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch. Trong

khi đó, Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên
du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa
dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế – xã hội và môi trường
(Điều 4 Luật Du lịch của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
số 44/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005). Như vậy, nếu điểm du lịch đáp
ứng nhu cầu tham quan của khách du lịch là chủ yếu thì khu du lịch lại đáp ứng
nhu cầu đa dạng của khách du lịch. Khu du lịch có quy mơ và thu hút lượng
khách du lịch lớn hơn gấp nhiều lần so với điểm du lịch.
1.6. Du lịch bền vững
là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn
hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai (Điều 4 Luật Du
lịch của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số
44/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005).

Du lịch trên thế giới và du lịch Việt Nam


Du lịch được coi là một ngành công nghiệp không khói và được chú trọng phát
triển ở nhiều quốc gia. Ngành cơng nghiệp này có tác động khơng nhỏ (cả ưu
điểm và khuyết điểm) đến các lĩnh vực của đời sống như kinh tế, xã hội, môi
trường… Ngày nay, du lịch đang dần trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội
phổ biến ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Có thể kể đến các
quốc gia có thế mạnh về du lịch như Hoa Kỳ (châu Mỹ), các quốc gia châu Âu,
Singapore, Nhật Bản (châu Á)…
Nhận định được tiềm năng du lịch của đất nước và lợi ích mà du lịch mang lại,
hoạt động du lịch ở nước ta đã có từ lâu đời. Dân tộc Việt Nam với “rừng vàng
biển bạc”, tạo nên bức tranh “sơn thủy hữu tình” lơi cuốn bao người muốn khám
phá. Ngay từ giai đoạn mở mang bờ cõi của nhà nước phong kiến Việt Nam,
hoạt động này đã được phát triển với các chuyến du lịch của vua quan và các
học giả. Đến thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, việc khai thác tài nguyên phục vụ du

lịch và nghỉ dưỡng càng trở nên rõ nét hơn. Hoạt động du lịch được tiếp tục phát
triển qua các thời kỳ Nam Bắc phân chia. Tuy nhiên, ngành du lịch Việt Nam
chính thức được hình thành khi Quốc trưởng Bảo Đại cho lập Sở Du lịch Quốc
gia ngày 5 tháng 6 năm 1951. Đặc biệt, đến năm 1960, với sự ra đời của công ty
du lịch đầu tiên, Nhà nước Việt Nam đã đánh dấu sự phát triển nền du lịch của
một quốc gia độc lập. Theo đó, Việt Nam tập trung phát triển ngành du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn. Nền kinh tế Việt Nam được chú trọng chuyển đổi
từ nông nghiệp sang nền kinh tế dịch vụ.
2.

Nguyên tắc hoạt động theo du lịch theo pháp luật Việt Nam hiện hành.

Phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng,
an ninh của đất nước; chiến lược phát triển ngành du lịch và các quy hoạch
khác đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo từng thời kỳ.


Khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên du lịch và bảo tồn các di tích
lịch sử - văn hóa, di sản thiên nhiên hướng tới mục tiêu phát triển bền vững gắn
với bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Bảo đảm tính liên kết giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng trong cả
nước; khai thác, sử dụng tối đa kết cấu hạ tầng hiên‚ có; phát huy tối ưu tiềm
năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương để phát triển sản phẩm du lịch.
Giảm thiểu các tác động tiêu cực do phát triển du lịch đến kinh tế - xã hội và
môi trường.
. Bảo đảm sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư và cá nhân trong
q trình lập quy hoạch; kết hợp hài hịa giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của
cộng đồng, giữa lợi ích của vùng và địa phương.
Bảo đảm tính khoa học, ứng dụng công nghệ hiện đại trong quá trình lập quy
hoạch; đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn và phù hợp với yêu cầu phát triển kinh

tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.
Điều 21. Nội dung quy hoạch về du lịch
Xác định vị trí, vai trò và lợi thế của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội
của quốc gia, vùng và địa phương.
Phân tích, đánh giá tiềm năng, hiện trạng tài nguyên và môi trường du lịch,
thị trường du lịch; khả năng thu hút đầu tư, nguồn lực phát triển du lịch.
Xác định quan điểm, mục tiêu phát triển du lịch; dự báo các chỉ tiêu và luận
chứng các phương án phát triển du lịch.
Định hướng tổ chức không gian du lịch, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.
Định hướng phát triển sản phẩm du lịch, thị trường du lịch.
Định hướng đầu tư phát triển du lịch; xác định danh mục các khu vực, các dự
án ưu tiên đầu tư, vốn đầu tư.
Định hướng bảo vệ tài nguyên du lịch và môi trường theo quy định của pháp luật.

Đề xuất chính sách, giải pháp quản lý, phát triển du lịch theo quy hoạch.
Điều 22. Lập, quản lý và thực hiện quy hoạch về du lịch
Việc lập quy hoạch về du lịch phải tuân thủ nguyên tắc, nội dung lập quy hoạch
về du lịch quy định tại Điều 20 và Điều 21 của Luật này và quy định khác của
pháp luật có liên quan.
Chính phủ quy định việc lập, quản lý và thực hiện quy hoạch về du lịch.


Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp du lịch vượt qua khó khăn, giúp ngành vượt qua
khủng hoảng do COVID-19, tại Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp, đại diện
doanh nghiệp du lịch đã đề xuất với Thủ tướng Chính phủ hàng loạt các

giải pháp cấp bách.Tại đầu cầu trực tuyến TP. Đà Nẵng, Tổng Giám đốc
Viettravel Nguyễn Quốc Kỳ thay mặt cộng đồng các doanh nghiệp du lịch cảm
ơn Thủ tướng đã cho phép các dịch vụ kinh doanh không thiết yếu được mở cửa
trở lại bình thường. Có thể nói, chưa bao giờ, ngành du lịch gặp phải khó khăn

như thời điểm này và ngành du lịch khi được mở cửa trở lại sẽ quyết tâm, nỗ lực
để vực lại được sự phát triển.
Theo ông Nguyễn Quốc Kỳ, bên cạnh khó khăn, vẫn cịn cơ hội cho ngành du lịch khi
Việt Nam được coi là điểm sáng phòng chống dịch COVID-19. Tuy nhiên, theo ơng
Kỳ, ngồi sự cố gắng của bản thân ngành du lịch, rất cần sự chung tay góp sức của
các cấp, các ngành để du lịch thực hiện được các mục tiêu đề ra.

Tổng Giám đốc Viettravel đề nghị toàn ngành du lịch tận dụng ngay cơ hội,
đẩy mạnh truyền thông, xúc tiến, mở rộng thị trường du lịch, triển khai có
hiệu quả Chương trình “Du lịch Việt Nam an tồn”.
Nếu chúng ta làm tốt chương trình “Du lịch Việt Nam an tồn” thì với những thị
trường đã có sự phục hồi phục, chuyển giai đoạn sau dịch bệnh, Việt Nam sẽ có
thể thu hút được khách quốc tế từ quý 4. Ông Nguyễn Quốc Kỳ cho rằng từ
tháng 10 đã có thể có khách từ những thị trường Đông Bắc Á với khách du lịch
từ các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan, Hongkong (Trung
Quốc) và tồn bộ thị trường Đơng Nam Á.
Tăng cường xúc tiến, quảng bá, phát triển các sản phẩm mới để thu hút khách
du lịch quốc tế, nhất là khách du lịch từ các vùng không chịu ảnh hưởng bởi
dịch bệnh, đồng thời tập trung phát triển mạnh du lịch nội địa ở các vùng, miền
của đất nước.
Theo ông Nguyễn Quốc Kỳ, cần tập trung vào thị trường du lịch trong nước, để
giữ khách nội địa, giữ nhân sự cho ngành du lịch.Khuyến khích các ngành, các
cấp, các cơng ty, xí nghiệp… hưởng ứng chương trình kích cầu du lịch “Người
Việt Nam đi du lịch Việt Nam” để khôi phục thị trường du lịch Việt Nam.
Trong du lịch nội địa, rất cần sự vào cuộc của chính quyền địa phương. Cần thực
hiện các tam giác du lịch để kích cầu cho các địa phương. Ví dụ ở miền Bắc là tam
giác Hà Nội-Ninh Bình-Quảng Ninh. Ở miền Trung là Huế-Quảng Nam-Đà NẵngĐăk Lăk-Phú Yên-Quy Nhơn. Ở miền Nam là TPHCM với ĐBSCL.


Ông Kỳ đề nghị các địa phương giảm 50% chi phí tham quan di tích danh

lam thắng cảnh để thu hút khách.
Vì 85% du lịch được di chuyển bằng đường hàng khơng, đại diện ngành Du lịch
đề nghị Chính phủ nghiên cứu có chọn lọc mở lại các đường bay trong nước, bỏ
hạn ngạch như hiện nay.
Đại diện ngành du lịch cũng đề xuất Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ,
ngành, địa phương tạo điều kiện thuận lợi thu hút khách du lịch quốc tế đến
Việt Nam sau khi kết thúc dịch COVID-19. Nghiên cứu miễn phí cấp thị thực
nhập cảnh cho khách du lịch quốc tế đến Việt Nam.
Chỉ đạo các hãng hàng không Việt Nam phối hợp với các doanh nghiệp du lịch
nghiên cứu tăng tần suất, mở thêm đường bay đến các thị trường quốc tế tiềm
năng cũng như tích cực tham gia Chương trình kích cầu du lịch nội địa, quốc tế
với các địa phương và doanh nghiệp sau khi hết dịch.
Ngoài ra, doanh nghiệp du lịch đã mất nguồn thu trong mùa cao điểm và có thể
cần thêm nhiều thời gian mới vực lại được. Chính phủ nên xem xét giảm thuế
thu nhập doanh nghiệp 6 tháng hay cả năm 2020, hỗ trợ lãi suất để doanh nghiệp
có hi vọng đủ nguồn lực phục hồi khi dịch đi qua.
Cụ thể, miễn thuế giá trị gia tăng (VAT) cho tiêu dùng du lịch và các doanh
nghiệp du lịch trong vòng một năm; giảm 50% thuế VAT cho tiêu dùng du lịch
và các doanh nghiệp du lịch trong Qúy IV năm 2020 và Quý I năm 2021; giảm
chi phí mơi trường cho các doanh nghiệp du lịch, giảm thuế khoán đối với các
hộ kinh doanh du lịch cá thể trong năm 2020.
Ông Nguyễn Quốc Kỳ cũng đề nghị ngành du lịch được tiếp cận ngay các gói
hỗ trợ của Chính phủ. Với các gói bảo hiểm, các doanh nghiệp cần được trực
tiếp thụ hưởng, tránh đưa về các địa phương, sẽ gây khó khăn đến tay người lao
động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp du lịch mong muốn cho phép doanh nghiệp du lịch và hướng dẫn
viên du lịch chậm nộp thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá
nhân, bảo hiểm xã hội năm 2019, năm 2020 đến hết tháng 6 năm 2021; chi trả
bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động phải nghỉ việc do COVID-19.
Đại diện ngành du lịch đề nghị Chính phủ thành lập tổ công tác liên ngành do Thủ

tướng hoặc Phó Thủ tướng cùng các lãnh đạo địa phương để lập tức thúc đẩy du lịch
phát triển. Trong thời gian tới cần có chính sách kích cầu du lịch, đảm bảo sự tham
gia hiệu quả của toàn ngành du lịch cũng như các bộ, ngành liên quan. Các


bộ, ngành, địa phương xây dựng chính sách kịp thời và đồng bộ hỗ trợ doanh
nghiệp du lịch giảm thiểu khó khăn, thiệt hại, giúp doanh nghiệp du lịch phục
hồi, góp phần đưa ngành du lịch dần trở lại với hoạt động bình thường.
Đồng thời, đại diện ngành du lịch đề nghị thử nghiệm áp dụng mức giá điện
theo đơn giá điện sản xuất cho các cơ sở kinh doanh nhà hàng, dịch vụ lưu trú
du lịch thay vì áp dụng mức giá dịch vụ trong một năm. Bên cạnh đó,giảm tiền
thuế đất, tiền thuê sử dụng đất và cho phép doanh nghiệp du lịch chậm nộp
thuế đất, tiền thuê đất 2019, năm 2020 đến hết tháng 6 năm 2021 nhằm tạo điều
kiện cho doanh nghiệp phục hồi kinh doanh.
Bên cạnh đó, ngành du lịch mong muốn Ngân hàng Nhà nước giảm các loại phí,
lãi suất thị trường mở (OMO), lãi suất tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại
mà không ảnh hưởng đến mục tiêu kiềm chế lạm phát; xem xét cho ngân hàng
thương mại gia tăng nợ xấu quá hạn, nợ xấu của nhóm các ngành kinh tế bị ảnh
hưởng trực tiếp để cơ cấu lại nợ tại các ngân hàng thương mại, đồng thời có
những khoản vay ưu đãi không lãi suất hoặc lãi suất thấp để có chi phí trả lương
cho đội ngũ cán bộ cơng nhân viên.
Triển khai gói hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh dịch vụ
du lịch - nhà hàng, khách sạn, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành, vận
tải du lịch, khu du lịch, vui chơi giải trí...
Ơng Nguyễn Quốc Kỳ cho biết, hiện nay, công nợ giữa các doanh nghiệp, hàng
không với lữ hành, hàng khơng gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, đại diện ngành
du lịch đề nghịNgân hàng Nhà nướcvà hệ thống ngân hàng các địa phương vào
cuộc làm trung gian, để lữ hành có thể nhận được những khoản tiền đã chuyển
cho hàng không…
Ngành du lịch cũng đề xuất Bộ GD&ĐT nghiên cứu thời gian nghỉ hè cho học

sinh vì dịp nghỉ hè là thời điểm vàng để thúc đẩy du lịch trong nước phát triển.


KẾT LUẬN
Năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, du lịch Việt Nam chịu tổn thất
nặng nề nhất. Nhưng trước những khó khăn, thách thức, du lịch Việt Nam đã nỗ lực
chủ động thích ứng, phát huy nội lực và khơi phục hoạt động trong tình hình mới. ể
đáp ứng nhu cầu thực tế hiện nay, các địa phương, doanh nghiệp cần quan tâm nhiều
hơn đến xu hướng du lịch mới để có những thay đổi cho phù hợp. Nhu cầu của khách
hàng hoàn toàn thay đổi sau dịch COVID-19, khách đi ngắn ngày, đi nhiều lần, đi
nhóm nhỏ, quan tâm nhiều hơn đến sức khỏe, sản phẩm combo (máy bay và phịng
khách sạn)… Chính vì vậy, năm 2021, các nhà đầu tư và doanh nghiệp cũng sẽ thay
đổi theo xu hướng của khách hàng. Những điểm đến từng “hot” tập trung đơng
khách, có những khách sạn và khu nghỉ dưỡng hàng nghìn phịng sẽ khơng cịn hấp
dẫn các nhà đầu tư. Họ bắt đầu tìm đến các điểm đến mới, bắt đầu phân ra các khu
riêng biệt, đa dạng hóa dịch vụ chun biệt. Họ khơng đầu tư theo quy mô lớn mà
nhỏ, phân tán nhưng kết nối với nhau.

Các sản phẩm du lịch hướng đến sức khỏe con người, các loại hình du lịch thể
thao, chữa bệnh, sinh thái, yoga, du lịch gần gũi với thiên nhiên sẽ lên ngôi và
ngày càng trở nên quan trọng hơn sau đại dịch COVID-19. Bên cạnh đó, các
sản phẩm du lịch cũng sẽ đi vào có chiều sâu bởi du khách hướng vào các loại
hình du lịch có chất lượng. Các doanh nghiệp sẽ tập trung vào những hoạt động
coi trọng nền tảng văn hóa bản địa.
Nhận định về kịch bản phục hồi du lịch Việt Nam trong năm 2021, Tổng cục
trưởng Tổng cục Du lịch Nguyễn Trùng Khánh cho rằng, ngành Du lịch định
hướng tiếp tục khai thác mạnh thị trường nội địa, chú trọng phát huy liên kết
giữa các địa phương, doanh nghiệp theo phương châm "Liên kết, hành động và
phát triển". Ngoài ra, năm 2021, ngành Du lịch đề ra 5 nhiệm vụ chính, trong đó
tiếp tục tập trung tăng cường truyền thông và triển khai ứng dụng các tiêu chí du

lịch an tồn; tiếp tục đề xuất và phối hợp triển khai có hiệu quả các chính sách
hỗ trợ của Chính phủ đối với doanh nghiệp du lịch; đẩy mạnh chuyển đổi số và
ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch; tăng cường xúc tiến thị
trường du lịch trong nước, duy trì quảng bá ra thị trường du lịch nước ngoài;
tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch…




×