Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

kỹ thuật chuyển mạch đề tài công nghệ chuyển mạch atm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 49 trang )

BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN HỮU NGHỊ VIỆT - HÀN
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ỨNG DỤNG
============================
ĐỒ ÁN MÔN HỌC
KỸ THUẬT CHUYỂN MẠCH
ĐỀ TÀI: CÔNG NGHỆ CHUYỂN MẠCH ATM
Giảng viên: Trần Thị Trà Vinh
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Bình
Trần Văn Thời
Nguyễn Phước Thiện
Đà Nẵng, tháng 10 năm 1012
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, hạ tầng viễn thông đã và đang phát triển nhanh chóng
cả về công nghệ và chất lượng dịch vụ. Trong đó, các hệ thống chuyển mạch là thành
phần cốt lõi với độ phức tạp bậc nhất, công nghệ hiện đại.Các hệ thống chuyển mạch
như công nghệ chuyển mạch kênh, chuyển mạch gói, công nghệ IP/ATM hay công
nghệ PMLS. Mỗi loại công nghệ có chức năng và đăc điểm riêng tương thích với từng
hệ thống mạng viễn thông khác nhau. Trong đó chuyển mạch ATM được đánh giá là
nền tản kỹ thuật mới, kỹ thuật truyền tải không đồng bộ có thể truyền băng rộng tốc độ
cao với các loại hình dịch vụ thoại và phi thoại.
Học tập và nghiên cứu môn học kỹ thuật chuyển mạch mạng lại cho sinh viên
ngành điện tử viễn thông có kiến thức sơ sở của lĩnh vực chuyển mạch cũng như tiếp
cận các giải pháp kỹ thuật và công nghệ chuyển mạch mới. đó là lý do em chọn đề tài
cho đồ án này là: “công nghệ chuyển mạch ATM”.
Nội dung đồ án gồm 3 chương:
Chương 1: Trình bày các khái niệm và lý thuyết cơ bản của kỹ thuật chuyển mạch
và khái quát về tổng đài SPC
Chương 2:Tìm hiểu về công nghệ chuyển mạch ATM, trình bày các kiến thức cơ
bản về chuyển mạch ATM, sự ra đời, đặc điểm công nghệ và xu thế phát triển ứng
dụng của công nghệ này trong tương lại.


Chương 3: Nguyên cứu các ứng dụng và dịch vụ, đánh giá ưu nhược điểm, thị
trường của công nghệ chuyển mạch ATM.
Nhóm em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới cô Trần Thị Trà Vinh đã hướng
dẫn nhóm em trong quá trình thực hiện đề tài này.
i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AAA
Authentificaton, Authorization
and Accounting
Nhận thực, cấp phép, tính cước
ATM Asynchronous Transfer Mode
Phương thức truyền tải không đồng
bộ
ATDM
Asynchronous Time Divission
Multiplexing
Ghép kênh phân chia theo thời gian
đồng bộ
B-ISDN
Integrated Service Digital
Network
Mạch số tích hợp đa dịch vụ băng
rộng
CLP Cell Loss Prioryti Ưu tiên tổn thất tế bào
CoS Class Of Service Lớp dịch vụ
CS Call Server Máy chủ cuộ gọi
DSLAM
Digital Subcriber Line Access
Mutiplexer
Bộ ghép kênh truy nhập DSL

FCS Fast Circuit Switching Chuyển mạch tốc độ cao
GFC General Flow control Điều khiển luồng chung
GMPLS
Generalized MultiProtocol Label
Switch
Chuyển mạch nhãn đa giao thức
tổng quát
HEC Heacler Error Check Trường kiểm tra lỗi phần tiêu đề
IP Internet Protocol Giao thức internet
ISO
Internatinal Organization For
Standardization
Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế
LAN Local Area Network Mạng nội hạt
NGN Next Generation Mạng thế hệ sau
OSI Open System Interconnection Mô hình kết nối mở
PCI Protocol Control Information Giao thức điều khiển thông tin
PSTN
Public switched telephone
network
Mạng chuyển mạch điện thoại
công cộng
PT Payload Type Kiểu tải tin
PVC Permanent virtual circuit Kênh ảo cố định
QoS Quality Of Service Chất lượng dịch vụ
RIT Routing Information Table Bảng định tuyến
STDM
Synchronous Time Divission
Multiplexing
Ghép kênh theo thời gian đồng bộ

SVC Switched virtual circuit Chuyển mạc kênh ảo
TE Kỹ thuật lưu lượng
VC Virtual Channel Kênh ảo
VCI Virtual Channel Identifier Nhận dang kênh ảo
VPI Virtual Path Identyfier Luồng ảo
VoiP Voice Over IP Thoại trên nền giao thức internet
WDM
Wavelength Division
Multiplexing
Ghép kênh thao bước sóng
ii
DANH MỤC HÌNH VẼ VÀ BẢNG BIỂU
Hình 1.1: Các kiểu chuyển mạch cơ bản
Hình 1.2: Xu hướng hội tụ công nghệ mạng công cộng
Hình 1.3: Các thiết bị chuyển mạch trong mô hình mạng công cộng điển hình
Hình 2.1: Chuyển mạch kênh
Hình 2.2: Mô hình phân lớp OSI RM
Hình 2.3: Các phương pháp chuyển mạch cơ bản
Hình 2.4: Đóng gói dữ liệu theo mô hình OSI
Hình 2.5: Chuyển mạch datagram và chuyển mạch kênh ảo
Hình 3.1 Mô tả sự biến đổi trễ của tế bào
Hình 3.2 Cấu trúc một tế bào ATM
Hình 3.3 Cấu trúc phân cấp ATM
Hình 3.4 Cấu trúc tiêu đề tế bào ATM
Hình 3.5 So sánh STDM và ATDM
Hình 3.6 Cấu trúc nguyên lý dạng tế bào
Hình 3.7 Mô hình phân lớp OSI
Hình 3.8 Mối quan hệ giữa các thực thể và các lớp trong OSI
Hình 3.9 Các kiểu đơn vị số liệu và quan hệ giữa chúng
Hình 3.10: Nguyên tắc tự định tuyến

Hinh 3.11: Nguyên tắc bảng điều khiển
Hình 3.12 PVC Mạng ATM
Hình 3.13 SVC mạng ATM
Hình 3.14: Chuyển mạch VP và VC
Hình 3.15: Nguyên lý chuyển mạch ATM
Bảng 2.1 So sánh một số đặc điểm của dịch vụ thoai và dữ liệu
Bảng 3.1 Sự phân loại của các dịch vụ ứng dụng truyền thông
Bảng 3.2 Sự phân loại của các dịch vụ ứng dụng phân phối
iii
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KỸ THUẬT CHUYỂN MẠCH
1.1. Các khái niệm cơ bản.
1.1.1. Định nghĩa chuyển mạch:
Chuyển mạch là một quá trình thực hiện đấu nối và chuyển thông tin cho người sử
dụng thông qua hạ tầng mạng viễn thông. Chuyển mạch trong mạng viễn thông bao
gồm chức năng định tuyến cho thông tin và chức năng chuyển tiếp thông tin. Như vậy,
theo khía cạnh thông thường khái niệm chuyển mạch gắn liền với lớp mạng và lớp liên
kết dữ liệu trong mô hình OSI của Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO.
1.1.2. Hệ thống chuyển mạch:
Quá trình chuyển mạch được thực hiện tại các nút chuyển mạch, trong mạng
chuyển mạch kênh thường gọi là hệ thống chuyển mạch (tổng đài) trong mạng chuyển
mạch gói thường được gọi là thiết bị định tuyến (bộ định tuyến).
1.1.3. Phân loại chuyển mạch:
Xét về mặt công nghệ, chuyển mạch chia thành hai loại cơ bản: chuyển mạch
kênh và chuyển mạch gói. Mặt khác, chuyển mạch còn được chia thành bốn kiểu:
chuyển mạch kênh, chuyển mạch bản tin, chuyển mạch gói và chuyển mạch tế bào.
Các khái niệm cơ sở về công nghệ chuyển mạch được thể hiện trong hình 1.1(a,
b, c)dưới đây.
a) Chuyển mạch kênh: hai dòng thông tin trên hai mạch khác nhau
b) Chuyển mạch gói: các tuyến đường độc lập trên mạng chia sẻ tài nguyên
1

c) Chuyển mạc gói kênh ảo: các gói tin đi trên kênh ảo
Hình 1.1: Các kiểu chuyển mạch cơ bản
Mạng chuyển mạch kênh thiết lập các mạch (kênh) chỉ định riêng cho kết nối
trước khi quá trình truyền thông thực hiện. Như vậy, quá trình chuyển mạch được chia
thành 3 giai đoạn phân biệt: thiết lập, truyền và giải phóng. Để thiết lập, giải phóng và
điều khiển kết nối (cuộc gọi) mạng chuyển mạch kênh sử dụng các kỹ thuật báo hiệu
để thực hiện. Đối ngược với mạng chuyển mạch kênh là mạng chuyển mạch gói, chia
các lưu lượng dữ liệu thành các gói và truyền đi trên mạng chia sẻ. Các giai đoạn thiết
lập, truyền và giải phóng sẽ được thực hiện đồng thời trong một khoảng thời gian và
thường được quyết định bởi tiêu đề gói tin.
1.1.4. Kỹ thuật lưu lượng TE
Kỹ thuật lưu lượng TE (Traffic Engineering) được coi là một trong những vấn đề
quan trọng nhất trong khung làm việc của hạ tầng mạng viễn thông. Mục đích của kỹ
thuật lưu lượng là để cải thiện hiệu năng và độ tin cậy của các hoạt động của mạng
trong khi tối ưu các nguồn tài nguyên và lưu lượng. Nói cách khác, TE là công cụ sử
dụng để tối ưu tài nguyên sử dụng của mạng bằng phương pháp kỹ thuật để định
hướng các luồng lưu lượng phù hợp với các tham số ràng buộc tĩnh hoặc động. Mục
tiêu cơ bản của kỹ thuật lưu lượng là cân bằng và tối ưu các điều khiển của tải và tài
nguyên mạng thông qua các thuật toán và giải pháp kỹ thuật.
1.1.5. Báo hiệu trong viễn thông
Báo hiệu sử dụng các tín hiệu để điều khiển truyền thông, trong mạng viễn thông
báo hiệu là sự trao đổi thông tin liên quan tới điều khiển , thiết lập các kết nối và thực
hiện quản lý mạng. Các hệ thống báo hiệu có thể phân loại theo đặc tính và nguyên tắc
hoạt động gồm: Báo hiệu trong băng và báo hiệu ngoài băng, báo hiệu đường và báo
hiệu thanh ghi, báo hiệu kênh liên kết và báo hiệu kênh chung, báo hiệu bắt buộc. Các
thông tin báo hiệu được truyền dưới dạng tín hiệu điện hoặc bản tin. Các hệ thống báo
hiệu trong mạng chuyển mạch điện thoại công cộng PSTN (Public Switched
Telephone Network) được đánh số từ No1-No7.
1.1.6. Mạng tích hợp dịch vụ số băng rộng B-ISDN
Cung cấp các cuộc nối thông qua chuyển mạch, các cuộc nối cố định (Permanent)

hoặc bán cố định (Semi-Permanent), các cuộc nối từ điểm tới điểm tới điểm hoặc từ
điểm tới đa điểm và cung cấp các dịch vụ yêu cầu, các dịch vụ dành trước hoặc các
2
dịch vụ yêu cầu cố định. Cuộc nối trong B-ISDN phục vụ cho cả các dịch vụ chuyển
mạch kênh, chuyển mạch gói theo kiểu đa phương tiện (Multimedia), đơn phương tiện
(Monomedia), theo kiểu hướng liên kết (Connection-Oriented) hoặc phi liên kết
(Connectionless) và theo cấu hình đơn hướng hoặc đa hướng.
1.2. Quá trình phát triễn kỹ thuật chuyển mạch
Vào khoảng thập niên 60 của thế kỷ 20, xuất hiện sản phẩm tổng đài điện tử số là
sự kết hợp giữa công nghệ điện tử với kỹ thuật máy tính. Tổng đài điện tử số công
cộng đầu tiên ra đời được điều khiển theo chương trình ghi sẵn SPC (Stored Program
Control),được giới thiệu tại bang Succasunna, Newjersey, USA vào tháng 5 năm 1965.
Trong những năm 70 hàng loạt các tổng đài thương mại điện tử số ra đời. Một trong
những tổng đài đó là tổng đài E10 của CIT –Alcatel được sử dụng tại Lannion (Pháp).
Và tháng 1 năm 1976 Bell đã giới thiệu tổng đài điện tử số công cộng 4ESS. Hầu hết
cho đến giai đoạn này các tổng đài điện tử số đều sử dụng hệ thống chuyển mạch là số
và các mạch giao tiếp thuê bao thường là Analog, các đường trung kế là số. Một
trường hợp ngoại lệ là tổng đài DMS100 của Northern Telecom đưa vào năm 1980
dùng toàn bộ kỹ thuật số đầu tiên trên thế giới. Hệ thống 5ESS của hãng AT&T được
đưa vào năm 1982 đã cải tiến rất nhiều từ hệ thống chuyển mạch 4ESS và đã có các
chức năng tương thích với các dịch vụ mạng số tích hợp dịch vụ ISDN (Integrated
Service Digital Network). Sau đó hầu hết các hệ thống chuyển mạch số đều đưa ra các
cấu hình hỗ trợ cho các dịch vụ mới như ISDN, dịch vụ cho mạng thông minh và các
tính năng mới tương thích với sự phát triển của mạng lưới.
Khoảng năm 1996 khi mạng Internet trở thành bùng nổ trong thế giới công nghệ
thông tin, nó đã tác động mạnh mẽ đến công nghiệp viễn thông và xu hướng hội tụ các
mạng máy tính, truyền thông, điều khiển. Hạ tầng mạng viễn thông đã trở thành tâm
điểm quan tâm trong vai trò hạ tầng xã hội. Một mạng có thể truyền băng rộng với các
loại hình dịch vụ thoại và phi thoại, tốc độ cao và đảm bảo được chất lượng dịch vụ
QoS (Quality Of Service) đã trở thành cấp thiết trên nền tảng của một kỹ thuật mới:

Kỹ thuật truyền tải không đồng bộ ATM (Asynchronous Transfer Mode). Các hệ
thống chuyển mạch điện tử số cũng phải dần thay đổi theo hướng này cùng với các chỉ
tiêu kỹ thuật, giao thức mới. Một ví dụ điển hình là các hệ thống chuyển mạch kênh
khi cung cấp các dịch vụ Internet sẽ có độ tin cậy khác so với các cuộc gọi thông
thường với thời gian chiếm dùng cuộc gọi lớn hơn rất nhiều, và cũng như vậy đối với
các bài toán lưu lượng. Sự thay đổi của hạ tầng mạng chuyển đổi sang mạng thế hệ kế
tiếp NGN đã và đang tác động rất lớn tới các hệ thống chuyển mạch, dưới đây trình
bày một số vấn đề liên quan tới mạng NGN và các đặc điểm của quá trình hội tụ mạng
của hạ tầng mạng công cộng. Mạng chuyển mạch kênh công cộng PSTN và IP
(Internet Protocol) đang dần hội tụ tới cùng một mục tiêu nhằm hướng tới một hạ tầng
mạng tốc độ cao có khả năng tương thích với các ứng dụng đa phương tiện tương tác
và đảm bảo chất lượng dịch vụ. Hình 1.2 dưới đây chỉ ra xu hướng hội tụ trong hạ tầng
mạng công cộng:
Sự khác biệt này bắt đầu từ những năm 1980, PSTN chuyển hướng tiếp cận sang
phương thức truyền tải bất đồng bộ ATM để hỗ trợ đa phương tiện và QoS, sau đó
chuyển hướng sang công nghệ kết hợp với IP để chuyển mạch nhãn đa giao thức hiện
nay. Trong khi đó Internet đưa ra một tiếp cận hơi khác với PSTN qua giải pháp triển
khai kiến trúc phân lớp dịch vụ CoS (Class Of Service) và hướng tới đảm bảo chất
lượng dịch vụ QoS thông qua mô hình tích hợp dịch vụ IntServ và phân biệt dịch vụ
3
DiffServ, các chiến lược của Internet theo hướng tương thích với IP, mạng quang và
hướng tới mạng chuyển mạch nhãn đa giao thức tổng quát GMPLS (Generalized
MultiProtocol Label Switch). Công nghệ chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS ra đời
vào năm 2001 là sự nỗ lực kết hợp hai phương thức chuyển mạch hướng kết nối
(ATM, FR) với công nghệ chuyển mạch phi kết nối (IP), công nghệ chuyển mạch
nhãn đa giao thức MPLS định nghĩa khái niệm nhãn (Label) nằm trên một lớp giữa lớp
2 và lớp 3 trong mô hình OSI, với mục tiêu tận dụng tối đa các ưu điểm của chuyển
mạch phần cứng (ATM, FR) và sự mềm dẻo, linh hoạt của các phương pháp định
tuyến trong IP. Một số quốc gia có hạ tầng truyền tải cáp quang đã phát triển tốt có xu
hướng sử dụng các kỹ thuật chuyển mạch quang và sử dụng các công nghệ trên nền

quang như GMPLS, IP qua công nghệ ghép bước sóng quang WDM (Wavelength
Division Multiplexing), kiến trúc chuyển mạch trong mạng thế hệ kế tiếp NGN.
Hình 1.2: Xu hướng hội tụ công nghệ mạng công cộng
Trong môi trường mạng hiện nay, sự phân cấp hệ thống thiết bị biên(nội hạt), thiết
bị quá giang và thiết bị lõi trong mạng cung cấp các dịch vụ PSTN vẫn đang tồn tại.
Các mạng bao trùm như FR, ATM và Internet đang được triển khai song song và tạo
ra nhu cầu kết nối liên mạng. Các truy nhập cộng thêm gồm cáp đồng, cáp quang và
truy nhập không dây đang được triển khai làm đa dạng và tăng mật độ truy nhập từ
phía mạng truy nhập.
Sự tăng trưởng của các dịch vụ truy nhập đã tạo nên sức ép và đặt ra 3 vấn đề
chính đối với hệ thống chuyển mạch băng rộng đa dịch vụ: Truy nhập băng thông
rộng, sự thông minh của thiết bị biên và truyền dẫn tốc độ cao tại mạng lõi. Các thiết
bị truy nhập băng thông rộng bao gồm các thiết bị hạ tầng mạng truyền thống (tổng đài
PSTN nội hạt) và các module truy nhập đường dây số DSLAM (Digital Subcriber Line
Access Mutiplexer) phải truyền tải và định tuyến một số lượng lớn các lưu lượng thoại
và dữ liệu tới thiết bị gờ mạng. Các thiết bị gờ mạng hiện có rất nhiều dạng gồm VoiP
Các cổng truy nhập cho thiết bị VoiP (Voice Over IP), cổng trung kế, chuyển mạch
ATM, bộ định tuyến IP và các thiết bị mạng quang. Các thiết bị biên cần phải hỗ trợ
các chức năng nhận thực, cấp quyền và tài khoản AAA (Authentificaton,
Authorization và Accounting) cũng như nhận dạng các luồng lưu lượng từ phía khách
hàng, vì vậy việc quản lý và điều hành thiết bị biên là một vấn đề rất phức tạp.
4
Hình 1.3: Các thiết bị chuyển mạch trong mô hình mạng công cộng điển hình
Với môi trường mạng PSTN trước đây, các thiết bị lõi mạng chịu trách nhiệm
chính trong điều hành và quản lý và điều này được thay đổi chức năng cho các thiết bị
gờ mạng trong môi trường NGN. Các hệ thống chuyển mạch đa dịch vụ cần phải hỗ
trợ các chuyển mạch lớp 3 trong khi vẫn phải duy trì các chuyển mạch lớp 2 nhằm hỗ
trợ các dịch vụ ATM và FR truyền thống, có độ tin cậy cao và phải tích hợp tốt với các
hạ tầng có sẵn.
Hơn nữa, các hệ thống chuyển mạch phải có độ mềm dẻo lớn nhằm tương thích

và đáp ứng các yêu cầu tăng trưởng lưu lượng từ phía khách hàng. Vì vậy, cơ chế điều
khiển các hệ thống chuyển mạch đã được phát triển theo hướng phân lớp và module
hoá nhằm nâng cao hiệu năng chuyển mạch và đảm bảo QoS từ đầu cuối tới đầu cuối.
Hướng tiếp cận máy chủ cuộc gọi CS (Call Server) và hướng triển khai phân hệ đa
dịch vụ IP (IMS) được trình bày dưới đây chỉ ra những sự thay đổi lớn trong lịch sử
phát triển hệ thống chuyển mạch.
5
CHƯƠNG II. GIỚI THIỆU TỔNG ĐÀI ĐIỆN TỬ SPC
1. Nhiệm vụ quan trọng của một tổng đài
Là cung cấp một đường truyền dẫn tạm thời, để truyền dẫn tiếng nói đồng thời
theo hai hướng giữa các loại đường dây thuê bao sau, từ đó ta có các loại chuyển
mạch.
1.1.Chuyển mạch nội hạt
Là chuyển mạch để tạo tuyến nối trong các cặp thuê bao trong cùng một tổng
đài.
1.2. Chuyển mạch gọi ra
Là chuyển mạch để tạo tuyến nối cho các đường dây thuê bao của tổng đài tới
các đường dây thuê bao của tổng đài.
1.3. Chuyển mạch gọi vào
Là chuyển mạch để tạo tuyến nối cho các đường trung kế từ tổng đài khác tới
các đường dây thuê bao của tổng đài.
1.4. Chuyển mạch nối tiếp
Là chuyển mạch để tạo tuyến nối cho các đường trung kế và từ một tổng đài tới
các đường trung kế ra tới một tổng đài khác.
Các nhiệm vụ trên của một tổng đài được thiết bị chuyển mạch của tổng đài
thực hiện thông qua quá trình trao đổi báo hiệu với mạng ngoài. Một tổng đài nào đó
thực hiện được 3 loại chuyển mạch 1,2,3 vừa nêu trên được gọi là tổng đài nội hạt.
Còn một tổng đài mà chỉ thực hiện được thao tác chuyển mạch thứ tư nêu trên
gọi là tổng đài chuyển tiếp. Ngoài hai tổng đài nêu trên còn có tổng đài cơ quan
(thường gọi là PABX) và tổng đài cửa quốc tế. Tổng đài cơ quan PABX cùng để tổ

chức liên lạc điện thoại trong một cơ quan (liên lạc nội bộ) và đầu nối cho các thuê bao
của nó ra mạng công cộng.
Tổng đài cửa quốc tế (còn gọi là tổng đài gateway) dùng để tạo tuyến cho các
cuộc gọi của các thuê bao trong nước ra mạng quốc tế.
2. Đặc điểm của tổng đài điện tử SPC
6
Ở các tổng đài điện tử làm việc theo nguyên lý điều khiển theo các chương trình
ghi sẵn SPC (Store Program Controlled), người ta sử dụng các bộ xử lý giống như các
máy tính để điều khiển hoạt động của tổng đài. Tất cả các chức năng điều khiển được
đặc trưng bởi một loạt các lệnh đã ghi sẵn ở trong các bộ nhớ.
Ngoài ra các số liệu trực thuộc tổng đài như số liệu về thuê bao, các bảng phiên
dịch địa chỉ, các thông tin về tạo tuyến, tính cước, thống kê… cũng được ghi sẵn trong
các bộ nhớ dữ liệu. Qua mỗi bước xử lý gọi sẽ nhận được một sự quyết định tương
ứng với các loại nghiệp vụ, số liệu đã ghi sắn để đưa tới thiết bị xử lý nghiệp vụ đó.
Nguyên lý chuyển mạch như vậy gọi là chuyển mạch điều khiển theo chương trình ghi
sẵn SPC.
Các chương trình và số liệu ghi trong các bộ nhớ có thể thay đổi được khi cần
thay đổi nguyên tắc điều khiển hay tính năng của hệ thống. Nhờ vậy người quản lý có
thể linh hoạt trong quá trình điều hành tổng đài.
Như ta đã biết, máy tính hay bộ vi xử lý có số năng lực xử lý hàng chục nghìn
tới hàng triệu lệnh mỗi giây. Vì vậy khi ta sử dụng nó vào chức năng điều khiển tổng
đài thì ngoài công việc điều khiển chức năng chuyển mạch thì cũng một bộ xử lý số có
thể điều hành các chức năng khác. Vì các chương trình điều khiển và số liệu ghi trong
các bộ nhớ có thể thay đổi dễ dàng, mang tính tức thời, nên công việc điều hành dễ
đáp ứng nhu cầu của thuê bao trở nên dễ dàng. Cả công việc đưa vào dịch vụ mới cho
thuê bao và thay đổi các dịch vụ cũ đều dễ dàng thực hiện thông qua các lệnh trao đổi
người máy. Chẳng hạn như khôi phục lại các nghiệp vụ cho thuê bao quá hạn thanh
toán cước hoặc thay đổi từ phương thức chọn số xung thập phân sang phương thức
chọn số đa tần… ta chỉ việc đưa vào hồ sơ thuê bao các số liệu thích hợp thông qua
thiết bị vào ra dùng bàn phím.

3. Cấu trúc chức năng tổng đài điện tử SPC
Cũng giống như các tổng đài điện tử khác hiện đang sử dụng trên thế giới, tổng
đài SPC tuy có khác so với các tổng đài điện tử khác nhưng về cơ cấu phân bố các
khối chức năng của chúng thì tương đối giống nhau. Sơ đồ khối đơn giản của tổng đài
SPC được mô tả ở hình 1.
- Thiết bị kết cuối bao gồm các mạch điện thuê bao, mạch trung kết, thiết
bị tập trung và xử lý tín hiệu…
7
Hình 1 : Sơ đồ khối tổng đài SPC
- Thiết bị chuyển mạch: Bao gồm các tầng chuyển mạch thời gian và không
giang hoặc ghép hợp.
Thiết bị
chuyển
mạch
Thiết bị
đo thử
trạng thái
đường
dây
Thiết bị
điều
khiển
đầu nối
Thiết
bị phân
phối
Báo
hiệu
kênh
riêng

Báo
hiệu
kênh
chung
BUS ĐIỀU KHIỂN
Thiết bị trao
đổi người
máy
Bộ xử lý
trung tâm
Các bộ nhớ
Đường dây
thuê bao
Trung kế
tương tự
Trung kế số
Thiết bị kết cuối
8
- Thiết bị ngoại vi và kênh riêng hợp thành thiết bị ngoại vi báo hiệu. Thông
thường thiết bị báo hiệu kênh chung để xử lý thông tin báo hiệu liên tổng đài theo
mạng báo hiệu kênh chung. Còn thiết bị báo hiệu kênh riêng để xử lý thông tin báo
hiệu kênh riêng.
- Ngoại vi chuyển mạch: các thiết bị phân phối báo hiệu, thiết bị đo thử, thiết bị
điều khiển đầu nối hợp thành thiết bị ngoại vi chuyển mạch. Đây là thiết bị ngoại vi
cho hệ thống điều khiển.
- Thiết bị điều khiển trung tâm: Bộ xử lý trung tâm cùng với các bộ nhớ của nó
tạo thành bộ điều khiển trung tâm.
- Thiết bị trao đổi người-máy: là các loại máy hiện hình có bàn phím máy in…
để trao đổi thông tin vào-ra, và ghi lại các bản tin cần thiết phục vụ công tác điều hành
và bảo dưỡng tổng đài.

Ngoài ra ở các tổng đài khu vực của mạng công cộng, các tổng đài chuyển tiếp
và các tổng đài quốc tế còn có các khối chức năng khác như tính cước, đồng bộ mạng,
trung tâm xử lý tin, thiết bị giao tiếp thuê bao xa…
4. Hệ thống điều khiển trong tổng đài điện tử SPC
4.1. Nhiệm vụ điều khiển
Trong tổng đài SPC các nhiệm vụ điều khiển do các bộ xử lý thực hiện để tạo
tuyến nối cho các cuộc gọi cũng như trong công tác vận hành, bảo dưỡng khác. Những
công việc này thực hiện nhờ quá trình trao đổi báo hiệu thông tin báo hiệu được tách ra
ở khối giao tiếp thuê bao hoặc giao tiếp trung kế được đưa đến ở thiết bị xác định báo
hiệu. Các mạch thu thông tin báo hiệu thuê bao và trung kế đảm nhận công việc này
dưới sự điều khiển của cấp xử lý khu vực mạch giao tiếp thuê bao hoặc trung kế.
Khối mạch
giao tiếp
trung kế
Các mạch
trung kế
nối
Máy thu phát
báo hiệu trung
kế
Điều khiển
chuyển mạch
Điều khiển
trung tâm
Thiết bị
xác định
báo hiệu
Khối
mạch giao
tiếp thuê

bao
Máy thu
phát báo
hiệu thuê
bao
Thiết bị phân
phối báo hiệu
hoặc điều khiển
9
Hình 2: Báo hiệu và điều khiển trong tổng đài SPC
Để thực hiện được các cuộc đấu nối, thì bộ điều khiển trung tâm phải nhận
được các thông tin báo hiệu từ các thiết bị ngoại vi, thông qua thiết bị báo hiệu này để
đưa ra các lệnh thích hợp. Các lệnh này được đưa đến các bộ điều khiển chuyển mạch,
để điều khiển tạo tuyến nối hoặc đưa đến thiết bị phân phối bó hiệu, để cung cấp các
dạng báo hiệu cần thiết cho thuê bao hoặc mạch trung kế, thông qua các thiết bị phân
phối báo hiệu.
Bộ điều khiển trung tâm gồm một bộ xử lý công suất lớn cùng các bộ nhớ trực
thuộc. Bộ xử lý này thiết kế tối ưu để xử lý cuộc gọi và các công việc liên quan trong
một tổng đài. Nó có chức năng khi:
- Nhận xung mã hay chọn số.
- Chuyển các tín hiệu địa chỉ đi trong trường hợp chuyển tiếp gọi.
- Trao đổi các loại báo hiệu cho thuê hay tổng đài khác.
- Phiên dịch và tạo tuyến cho các đường chuyển mạch.
Thiết bị phối hợp
Bộ xử lý trung tâm
Bộ nhớ
phiên dịch
Bộ nhớ
chương trình
Bộ nhớ

số liệu
10
Hình 3: Sơ đồ khối bộ xử lý chuyển mạch
Bộ xử lý chuyển mạch bao gồm một đơn vị xử lý trung tâm, bộ nhớ chương
trình, bộ nhớ số liệu, bố nhớ phiên dịch cùng thiết bị vào, ra làm nhiệm vụ phối hợp để
đưa các thông tin vào và lấy các lệnh ra. Đơn vị xử lý trung tâm là bộ vi xử lý tốc độ
cao có công suất xử lý tuỳ thuộc vào các vị trí chuyển mạch của nó. Nó làm nhiệm vụ
điều khiển thao tác thiết bị chuyển mạch.
Bộ nhớ chương trình để ghi lại các chương trình điều khiển các thao tác chuyển
mạch. Các chương trình được gọi ra và xử lý cùng với số liệu cần thiết.
Bộ nhớ số liệu ghi lại tạm thời các số liệu cần thiết trong các quá trình xử lý
cuộc gọi như chữ số chỉ thuê bo, trạng thái bận, rỗi của đường dây thuê bao hay trung
kế.
4.2. Cấu tạo tổng quát của thiết bị điều khiển
Cấu trúc tổng quát của hệ thống điều khiển như mô tả ở hình 4
Bộ phận phối lệnh
Ghi - phát
lệnh
Ghi - phát thao
tác
Bộ nhớ
chương trình
Bộ nhớ số liệu
và phiên dịch
Thiết bị giao tiếp
vào - ra
Từ các thiết bị điều khiển
đưa tới. (Thiết bị ngoại vi)
Ra Vào
11

Hình 4 - Cấu tạo tổng quát của hệ thống điều khiển
- Bộ phân phối lệnh: Bộ phận này làm nhiệm vụ phân phối các lệnh thích hợp
để thực thi trên cơ sở thiết bị ngoại vi chuyển mạch, thứ tự ưu tiên của chúng và các
thông tin đưa vào. Bộ phân phối lệnh đưa tới bộ nhớ chương trình địa chỉ cần thiết
phải xử lý theo nguyên tắc "ghi đệm", tức là trong thời gian thực thi lệnh trước thi địa
chỉ số liệu cần thiết liên quan tới từng lệnh cũng được gửi đi từ dây tới bộ nhớ số liệu
và phiên dịch.
-Bộ ghi phát lệnh: Khối này làm nhiệm vụ ghi đệm các lệnh cần thực hiện.
- Bộ nhớ chương trình: Bộ nhớ này ghi lại tất cả các chương trình cần thiết cho
nhiệm vụ điều khiển mà thiết bị điều khiển này đảm nhận. Bộ nhớ này thường có cấu
trúc kiểu ROM. Các chương trình này là các chương trình xử lý gọi hoặc các chương
trình điều hành bảo dưỡng.
- Bộ nhớ số liệu: Bộ nhớ số liệu làm nhiệm vụ ghi lại các số liệu cần thiết phục
vụ cho quá trình thực thi các lệnh. Ngoài số liệu thuê bao, trung kê… ở các hệ thống
xử lý trong tổng đài điện tử như xử lý điều hành bảo dưỡng (DMP) có bộ nhớ số liệu
phục vụ công việc điều hành và bảo dưỡng, bộ xử lý chuyển mạch thì có bộ nhớ phiên
dịch và tạo tuyến đề nghị lại các bảng trạng thái tuyến nói, hồ sơ thuê bao…
- Bộ ghi phát thao tác: Thiết bị này làm nhiệm vụ thực thi các thao tác logic và
số học theo các lệnh và số liệu thích hợp để đưa ra các lệnh điều khiển tương ứng qua
thiết bị giao tiếp vào-ra tới các thiết bị ngoại vi cần điều khiển, nên lệnh này chỉ thị kết
quả một công việc.
- Thiết bị giao tiếp vào ra: Thiết bị này làm việc đệm và truyền các thông tin từ
thiết bị ngoại vi vào bộ điều khiển và truyền các lệnh từ bộ điều khiển tới các thiết bị
ngoại vi.
* Quá trình làm việc:
Ở các tổng đài điện tử SPC thường có cấu trúc điều khiển phân bố, vì vậy có
thể có 2 hoặc 3 cặp điều khiển. Ở mỗi cặp điều khiển cũng được tổ chức thành nhiều
bộ xử lý theo chức năng của chúng. Vì mỗi bộ xử lý đảm nhiệm một số công việc
riêng nên chúng có khác nhau về công suất xử lý, tốc độ làm việc, dung lượng nhớ…
tuy nhiên về cấu trúc khối tổng quát thì giống như mô tả ở hình 1.5

12
* Thiết bị giao tiếp vào ra:
Thiết bị giao tiếp vào-ra làm nhiệm vụ giao tiếp giữa thiết bị ngoại vi và thiết bị
điều khiển. Chúng bao gồm một bộ giải mã địa chỉ A/D và hệ thống dẫn tin vào.
Thông tin từ các thiết bị ngoại vi đưa tới ở dạng các tổ hợp mã 16 bits. Các tổ hợp mã
này mang các thông tin cần thiết phải xử lý, chúng được truyền qua hệ thống các mạch
"và" vào các thiết bị xử lý nhờ lệnh bộ xử lý đưa ra thông tin qua bộ giải mã địa chỉ
A/D. Các thông tin sau khi được xử lý ở bộ xử lý trung tâm đưa ra các dạng tổ hợp mã
16 bits hay 32 bits. Sau khi giải mã tổ hợp mã nhị phân được dịch sang dạng thập phân
và qua đầu ra của bộ giải mã để đưa tới thiết bị điều khiển tương ứng.
4.3. Các phương pháp dự phòng cho hệ thống điều khiển
4.3.1. Dự phòng cặp đồng bộ:
Hai bộ xử lý P
A
, P
B
hoạt động đồng bộ với nhau, quá trình xử lý xảy ra ở P
A
, P
B
.
Kết quả xử lý được so sánh kiểm tra. Nếu có sai khác, chương trình chuẩn đoán lỗi sẽ
loại bỏ bộ xử lý hỏng. Phương pháp này không kiểm tra được lỗi phần mềm do cả hai
giống nhau.
Ta cần xử lý
P
A
P
B
M

A
M
B
Bộ so sánh
13
Hình 5. Hệ thống dự phòng cặp đồng bộ
4.3.2. Dự phòng phân tải
Hai bộ xử lý PA và PB tiếp cận được với tất cả các nguồn tải nhưng mỗi bộ xử
lý phần tải nó đảm nhiệm cơ cấu Ex không cho phép hai bộ xử lý cùng xử lý chung
một tải.

Ex: Cơ cấu bảo dưỡng tự động
Hình 6- Dự phòng phân tải
Toàn bộ quá trình hoạt động, mỗi bộ xử lý tự giám sát mình và giám sts bộ xử
lý kia. Khi lỗi xảy ra, tài đang xử lý được giao cho bộ xử lý còn lại. Ưu điểm là tận
dụng được công suất của bộ vi xử lý trong thời gian cao điểm.
4.3.3. Dự phòng nóng
Phương pháp dự phòng nóng là phương pháp dự phòng đơn giản nhất. Hệ thống
điều khiển dùng phương pháp dự phòng này cũng dùng hai bộ xử lý P
A
và P
B
cùng với
Ta cần xử lý
P
A
P
B
M
A

M
B
Ex
Bộ so sánh
14
các bộ nhớ riêng của nó là M
A
và M
B
. Trong đó một trong hai bộ làm việc còn bộ kia
để dự phòng. Hai bộ xử lý này độc lập với nhau, mỗi bộ xử lý cần có đủ công suất để
xử lý toàn bộ tải của khu vực nó đảm nhiệm.
CM: Bộ nhớ chung
Hình 7 - Nguyên lý dự phòng nóng
Tuy nhiên phương pháp dự phòng này có nhược điểm là một số công việc đang
thực hiện trước khoảng chu kỳ sao chép của bộ nhớ chung sẽ bị xoá nếu sự cố xảy ra.
Một tổng đài có dung lượng trung bình và nhỏ hay sử dụng phương pháp dự phòng
này cho hệ thống điều khiển như TDX-1B.
4.3.4. Dự phòng N+1:
Ở hệ thống dự phòng này có N+1 bộ xử lý, trong đó N bộ xử lý từ P
1
tới P
n
làm
nhiệm vụ xử lý tải tức thời cho hệ thống; một bộ phận xử lý P
n+1
làm nhiệm vụ dự
phòng. Ở trạng thái bình thường bộ xử lý này có thể đảm nhiệm một phần tải để xử lý.
Như vậy tổng thể N+1 bộ xử lý có năng lực xử lý lớn hơn giá trị tải phát sinh theo thiết
kế kỹ thuật.

Trường hợp có sự cố xảy ra ở một bộ xử lý nào đó thì bộ xử lý dự phòng nhận
toàn bộ tải của bộ xử lý có sự cố đảm nhiệm.
Ta cần xử lý
P
A
P
B
M
A
M
B
CM
Tải cần xử lý
P
1
P
n+1
M
2
M
n+1
M
n
P
2
P
n
M
M
1

15
Hình 8 - Hệ thống điều kiện dự phòng N+1
Phương thức dự phòng này có ưu điểm dễ dàng cấu trúc hệ thống theo kiểu
Modular, thuận tiện để phát triển dung lượng của hệ thống. Mặt khác ở giờ cao điểm,
tải lớn N+1 bộ xử lý có thể đảm nhiệm xử lý lượng tải lớn hơn bình thường. Như vậy
khắc phục được hiện tượng ứ tải (quá tải) cho các bộ xử lý tờ thời gian cao điểm.
Trong các tổng đài điện tử SPC hiện đại, hệ thống điều khiển là một tổ hợp của
các hệ thống khác nhau tuỳ thuộc vào kiểu và tính phức tạp của công việc mà nó đảm
nhiệm và yêu cầu của trường chuyển mạch. Vì vậy người ta cấu trúc nó theo hệ thống
nhiều cấp.
4.5. Xử lý cuộc gọi
Trong tổng đài SPC xử lý gọi được phần mềm thao tác điều khiển thực hiện.
Công việc xử lý gọi bao gồm:
- Phát hiện khởi xướng cuộc gọi
- Xử lý và trao đổi thông tin báo hiệu
- Xác lập tuyến nối cho trường chuyểnmạch
- Phiên dịch các chữ số và địa chỉ
- Giám sát cuộc gọi
- Giải toả cuộc gọi
* Đặc điểm
Bộ tập trung thuê bao có trường chuyển mạch trong SLC không hoạt động. Hai
thuê bao trong bộ tập trung, muốn liên hệ với nhau thì bắt buộc qua bộ chuyển mạch
tổng đài.
16
Tuyến truyền dẫn bị hỏng thì chuyển mạch trong SLC hoạt động và thực hiện
cho chuyển mạch cho thuê bao nội hạt.
Hình 9: Các chương trình xử lý gọi
4.6. Phân loại và chức năng báo hiệu
4.6.1. Phân loại báo hiệu
Phân phối chương trình

Các chương trình
đo thử
Các chương trình định
cuộc gọi
Các chương trình điều
khiển cuộc gọi
Các bộ đệm
trạng thái
Các bộ đệm ghi
phát
Các hàng
nhớ
D\S
lệnh
Nhớ số liệu bán
cố định
Nhớ số liệu tạm
thời
Nhớ số liệu
cố định
Báo hiệu
(Signalling)
Báo hiệu thuê bao
(Suber signalling)
Báo hiệu tổng đài
Báo hiệu kênh
riêng (CAS)
Báo hiệu kênh
chung (CCS)
17

Hình 10 - Cấu trúc chức năng báo hiệu
4.6.2. Chức năng báo hiệu
a) Báo hiệu đường thuê bao
Để bắt đầu cuộc gọi, thuê bao nhấc máy tạo ra tín hiệu xin quay số gửi đến tổng
đài. Khi đó tổng đài phát tín hiệu mới quay số đến thuê bao, thuê bao có thì bắt đầu
quay số đến thuê bao bị gọi. Nếu thuê bao bị gọi rỗi thì tổng đài sẽ gửi dòng chuông
cho thuê bao bị gọi này, đồng thời tín hiệu hồi chương gửi trở lại thuê bao bị gọi. Nếu
thuê bao bị gọi bận thì tín hiệu báo bận gửi đến thuê bao chủ gọi.
b) Báo hiệu liên tổng đài
Báo hiệu liên tổng đài có thể được truyền đi theo mỗi đường trung kế liên tổng
đài riêng. Các tín hiệu này có tần số nằm trong băng tần tiếng nói hoặc băng tần tiếng
nói gọi là tín hiệu ngoài băng. Các tín hiệu này có dạng sau:
- Dạng xung: Tín hiệu được truyền đi là dạng xung.
- Dạng liên tục: Tín hiệu báo hiệu liên tục về thời gian nhưng thay đổi về trạng
thái đặc trưng như tần số.
- Dạng áp chế: Tương tự như truyền đi bằng dãy xung nhưng khoảng cách
truyền dẫn tín hiệu không ổn định trước mà kéo dài cho tới khi nào xác nhận của phía
thu thông qua tín hiệu xác định nhận truyền từ đầu tư tới đầu phát. Phương thức báo
hiệu này có độ tin cậy cao vì tạo điều kiện cho việc truyền dẫn các tín hiệu báo hiệu
phức tạp.
* Báo hiệu kênh riêng (CAS)
Báo hiệu kênh riêng là hệ thống báo hiệu trong đó có các tín hiệu được truyền
trên một đường báo hiệu riêng biệt.
18
Hình 11 - Luồng tín hiệu cơ bản
Có nhiều hệ thống CAS khác nhau được sử dụng: Hệ thống báo hiệu xung thập
phân gọi là xung đơn tần.
Hệ thống báo hiệu hai tần số: (Ví dụ: hệ thống báo hiệu số 4 của CCITT).
ex ex
Đường thuê

bao
Đường trung kế
Thuê bao
 
Nhấc máy
Âm mời quay số
Quay số
Tín hiệu chiếm
Tín hiệu cho phép truyền
Tín hiệu lựa chọn
Tín hiệu chuông
Tín hiệu
hồi chuông
Trả lời (nhấc máy)
Tín hiệu ACK
Đàm thoại
Yêu cầu ngắt
Tín hiệu kết thúc
Đặt máy
Tín hiệu xoá về
Tín hiệu xoá đi
Tín hiệu giữa các
tổng đài
Tín hiệu đường
thuê bao
Tín hiệu
thuê bao
19
Hệ thống báo hiệu kênh đa tần: (Ví dụ hệ thống báo hiệu số 5 và hệ thống báo
hiệu mã R

1
của CCITT).
Tóm lại: Kênh của hệ thống báo hiệu này hầu hết cách phát tín hiệu phổ biến là
8 dạng xung hoặc dạng tone. Đặc trưng của loại báo hiệu này là đói với mỗi kênh thoại
có một đường tín hiệu báo hiệu rõ ràng. Tuy nhiên hệ thống báo hiệu này chậm, dung
lượng nhỏ.
* Báo hiệu kênh chung CCS:
Để khắc phục những hạn chế của báo hiệu kênh riêng. Trong những năm 1960
khi tổng đài điện tử được đưa vào sử dụng thì phương thức báo hiệu kênh chung CCS
cũng ra đời với những đặc tính vượt trội.
Trong phương thức báo hiệu này, những đường số liệu cao giữa các bộ xử lý
của tổng đài SPC được sử dụng để mang các thông tin báo hiệu. Các đường số liệu này
tách rời với đường trung kế tiếng, mỗi đường số liệu này có thể mang thông tin báo hiệu
cho vài trăm kênh tiếng gọi là kiểu báo hiệu kênh chung.
Trong báo hiệu CCS thông tin báo hiệu cần chuyển được tạo thành các đơn vị
tín hiệu gọi là các gói số liệu.
Ngoài ra các thông tin về báo hiệu còn có các chỉ thị về kênh tiếng và các thông
tin địa chỉ, thông tin về điều khiển lỗi.
* Các khái niệm về mạng báo hiệu số 7:
Trong báo hiệu CCS các tinh báo hiệu được định hướng qua mạng để thực hiện
các chức năng thiết lập, duy trì giải phóng cuộc gọi và quản lý mạng. Các bản tin này
các gói bản tin được định tuyến qua mạng, mặc dù mang thoại là chuyển mạch kênh
nhưng báo hiệu được điều khiển bằng kỹ thuật chuyển mạch gói. Mạng báo hiệu bao
gồm các điểm báo hiệu và các điểm báo hiệu được kết nối với nhau qua đường báo
hiệu.
Điểm báo hiệu (SP) là nút chuyển mạch hoặc nút xử lý trong một mạng báo
hiệu được cài đặt chức năng báo hiệu số 7 của CCITT.
Một tổng đài điện thoại hoạt động như một nút báo hiệu phải là tổng đài SPC và
báo hiệu số 7 là dạng thông tin số liệu giữa các bộ vi xử lý. Một điểm báo hiệu trong
một mạng báo hiệu đều được xác định bằng một mã riêng biệt 14 bits còn gọi là mã

điểm báo hiệu.
20
Điểm chuyển tiếp báo hiệu (STP) là điểm báo hiệu có khả năng định tuyến cho
các bản tin, chuyển bản tin báo hiệu từ đường này đến đường khác mà không có khả
năng xử lý các bản tin này. Một STP có thể là một nút định tuyến, báo hiệu thuần tuý
hoặc có thể gồm cả chức năng của một điểm kết cuối.
Để nâng cao độ tin cậy của mạng báo hiệu số 7 các STP thường phải có cấu
trúc kép.
* Các kiểu báo hiệu:
- Kiểu kết hợp: Các bản tin báo hiệu và các đường tiếng giữa hai điểm, được
truyền trên một tập hợp đường đầu nối trực tiếp hai điểm này với nhau.
- Kiểu không kết hợp: Các bản tin báo hiệu liên quan đến các đường tiếng giữa
hai điểm báo hiệu được truyền trên một hoặc nhiều đường qua một hoặc nhiều điểm
chuyển tiếp báo hiệu.
- Kiểu bán kết hợp: Là trường hợp đặc biệt của kiểu báo hiệu không kết hợp,
các đường đi của bản tin báo hiệu được xác định trước và cố định trừ trường hợp định
tuyến lại có lỗi.
Hệ thống báo hiệu số 7 được thiết kế cho mạng viễn thông sử dụng các trung kế
số, tốc độ đường truyền đạt 64 Kb/s với hệ thống giao tiếp mở OSI và giải pháp phân
lớp mô hình OSI này được ứng dụng trong hệ thống báo hiệu số 7. Ngoài những đặc
trưng trên hệ thống báo hiệu số 7 có những ưu điểm sau:
- Tốc độ cao (thời gian thiết lập nhỏ hơn 1 s).
- Dung lượng lớn (mỗi đường báo hiệu có thể mang đến hàng trăm cuộc gọi
đồng thời)
- Độ tin cậy cao (có tuyến báo hiệu dự phòng)
- Tính kinh tế (kết cấu đơn giản)
- Tính mềm dẻo, có nhiều loại báo hiệu do đó sử dụng với nhiều mục đích khác
nhau, thoả mãn nhu cầu thuê bao theo nhịp độ phát triển xã hội như:
Mạng điện thoại công cộng, mạng số liên kết đa dịch vụ, mạng thông tin di
động…

- Có thể sử dụng được trên cả đường tương tự.
Tính ưu việt của CCS so với CAS là:
- CCS thoả mãn được những dịch vụ cao đòi hỏi tốc độ cao, dung lượng lớn.
- CCS xử lý thông minh.
21

×