Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận cao học, chủ trương và nội dung đổi mới quản lý kinh tế của đảng ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.12 KB, 30 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN : HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VỚI QUẢN LÝ XÃ HỘI
Đề tài :

CHỦ TRƯƠNG VÀ NỘI DUNG ĐỔI MỚI QUẢN LÝ KINH TẾ
CỦA ĐẢNG TA


MỞ ĐẦU
Trước lịch sử phát triển kinh tế nói chung và tồn quốc nói riêng ở
Việt Nam do áp lực gay gắt của tình hình trong nước và quốc tế buộc chúng ta
khơng cịn con đường nào khác phải tiến hành đổi mới. Hoạt động đầu tiên để
tiến hành đổi mới chính là đổi mới quản lý mà trước hết là quản lý kinh
tế. Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8-1979) với chủ trương và quyết
tâm làm cho sản xuất "bung ra" là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới
ở nước ta. Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những
yếu kém trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa; điều chỉnh những
chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát
triển: ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà
nước hoặc lưu thông tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng
đất hoang hố; đẩy mạnh chăn ni gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh,
tập thể, gia đình); sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản
xuất; sửa lại chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối
phân phối theo định suất, định lượng để khuyến khích tính tích cực của người
lao động,...
Những đổi mới quản lý kinh tế trên đây là những nhận thức về sự cần
thiết phải giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần thiết phải tạo ra
động lực thiết thực cho người lao động - đó là quan tâm đến lợi ích kinh tế,
lợi ích vật chất thiết thân của người lao động. Những quản lý đổi mới về kinh
tế đó tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn
diện, nhưng lại là những bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát


triển nhảy vọt ở Đại hội VI. Trải qua 6 kỳ Đại hội vấn đề chủ trương và nội
dung đổi mới kinh tế của Đảng ngày càng được bổ sung và phát triển cho phù
hợp hơn với tình hình thực tiễn đất nước trong thời gian vừa qua.
Xuất phát từ những vấn đề trên do vậy em đã lựa chọn đề tài: “Chủ
trương và nội dung đổi mới quản lý kinh tế của Đảng ta” để làm đề tài tiểu
luận kết thúc môn với mong muốn làm rõ hơn được những vấn đề này.
1


NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM QUA
1.1. Tư duy kinh tế của Đảng qua các kỳ Đại hội
Trước những hạn chế của cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, làm
“kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội,
gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực
trong xã hội” và trước những đòi hỏi của thực tiễn, Đảng ta đã đưa ra các
quyết sách nhằm biến đổi tình hình, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
- xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, mà trước hết phải đổi mới tư duy kinh
tế, xóa bỏ tư duy cũ lỗi thời, tháo gỡ các rào cản, ràng buộc để giải phóng sức
sản xuất xã hội. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta đã “thừa nhận sự tồn tại
của kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa và kinh tế tư bản tư nhân”.
Để đảm bảo triển khai thực hiện quan điểm trên một cách nghiêm túc,
Đại hội VI của Đảng đã nhấn mạnh: “Cần sửa đổi, bổ sung và cơng bố rộng
rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế. Những quy định có
tính ngun tắc phải trở thành pháp luật để mọi người yên tâm, mạnh dạn
kinh doanh... Song, về pháp luật phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng. Những
người làm ra của cải và những việc có ích cho xã hội, thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ, chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp và chính sách đều được tơn trọng, được

hưởng thu nhập tương xứng với kết quả lao động, kinh doanh hợp pháp của
họ”.
Sau đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ban hành các
Nghị quyết như: Nghị quyết Trung ương 2, khóa VI (4-1987) về lưu thơng
phân phối; Nghị quyết Trung ương 3 khóa VI về đổi mới cơ chế quản lý Nhà
nước đối với xí nghiệp quốc doanh; Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa VI
(1988) về đổi mới cơ chế quản lý nơng nghiệp.

2


Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (ngày 276-1991) và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị khóa
VII đều kế thừa quan điểm, tư tưởng của Đại hội VI và đều nhất quán là tập
trung giải phóng sức sản xuất tồn xã hội, khuyến khích mọi người năng
động, sáng tạo, sản xuất ra nhiều của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, sử
dụng nhiều hình thức phân phối, song phân phối theo lao động vẫn là chủ yếu.
Hội nghị Đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, khẳng định
“Tăng cường quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm định hướng và chỉ đạo phát
triển toàn diện nền kinh tế - xã hội... khắc phục những tồn tại vốn có của nền
kinh tế thị trường, làm cho thị trường thật sự trở thành công cụ quan trọng
trong việc phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, phân phối và phân
phối lại thu nhập quốc dân, bảo đảm quan hệ tích lũy và tiêu dùng, điều tiết
lợi ích giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, thúc đẩy tăng trưởng
nhanh, ổn định vững chắc hơn, cơng bằng xã hội nhiều hơn”.
Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ VIII của Đảng diễn ra từ 26/6 đến
1/7/1996, báo cáo chính trị khẳng định “tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế bao gồm việc tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, hoàn chỉnh hệ thống
pháp luật về kinh tế; tiếp tục đổi mới cơng tác kế hoạch hóa; đổi mới chính
sách tài chính, tiền tệ, giá cả, nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà
nước”.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, coi đổi mới tư duy kinh tế là
nhiệm vụ cơ bản lâu dài. Đại hội nhấn mạnh “Phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
và bảo vệ môi trường”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, trong tiểu mục tiếp tục hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN có đoạn viết: “Phát triển nền
kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế”. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
3


thứ XI của Đảng, khẳng định “Ổn định kinh tế vĩ mơ, đổi mới mơ hình tăng
trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng từ chủ yếu phát triển theo chiều
rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, nâng cao chất lượng,
hiệu quả nền kinh tế, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững, nâng cao tính độc
lập, tự chủ của nền kinh tế”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, trong mục tổng quát
về phát triển kinh tế - xã hội, có đoạn viết: “Đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ
cơng cuộc đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII ban hành ngày 3-6-2017, nhấn
mạnh “Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi cho phát triển khu vực kinh
tế tư nhân thực sự trở thành động lực của nền kinh tế, thúc đẩy và hình thành
các tập đồn kinh tế tư nhân có cơng nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến,
hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ”. Đây là lần đầu tiên
Đảng ta nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh tế tư nhân.
Từ đó, cho chúng ta thấy rằng, hơn 30 năm đổi mới từ Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đến nay, Đảng ta ln kiên định và từng bước
hồn thiện tư duy kinh tế về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Q trình đó đã diễn ra, đang diễn ra và sẽ tiếp tục hoàn thiện. Trên
cơ sở tổng quan các tư tưởng, quan điểm cơ bản của đảng ta từ Đại hội VI đến
Đại hội XII, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
Một là, Đảng ta ln có nhận thức nhất qn về mối quan hệ giữa kinh
tế và chính trị, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Do đó, đổi mới tư
duy kinh tế luôn đi trước một bước và được kết hợp chặt chẽ với đổi mới tư
duy chính trị
Hai là, Đảng ta chủ trương lấy đổi mới tư duy kinh tế làm trung tâm,
đồng thời từng bước đổi mới tư duy chính trị cho phù hợp. Đổi mới tư duy
4


kinh tế và tư duy chính trị đều cùng mục tiêu là tăng trưởng kinh tế nhanh,
bền vững gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ mơi trường,
mà mục đích cuối cùng là dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh. Đổi mới kinh tế đi đơi với đổi mới chính trị, khơng chỉ phù hợp với
hồn cảnh, điều kiện nước ta, mà cịn phù hợp với quy luật về sự phù hợp
giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở.
Mặc dù, cách tiếp cận và ngôn từ sử dụng trong các Văn kiện của các
kỳ Đại hội có khác nhau, song nội dung cốt lõi, cơ bản của đổi mới tư duy
kinh tế là khơng thay đổi. Các Nghị quyết, chính sách đều nhất quán từ tư duy
lý luận đến hành động thực tiễn và biện pháp thực hiện. Sự nhất quán đó
chính là tiền đề cho mọi thành cơng của nước ta trong hơn 33 năm qua.
1.2. Những kết quả đạt được sau 33 năm đổi mới kinh tế ở Việt
Nam
Trong thời gian qua những thành tựu đã đạt được về đổi mới kinh tế
được thể hiện qua những nội dung sau đây:
Thứ nhất, về tốc độ tăng trưởng kinh tế

Trong hơn 30 năm qua (1986-2017), tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta,
tuy có sự dao động nhất định, song vẫn ở mức cao hơn trung bình khu vực và
thế giới với mức tăng bình quân cả thời kỳ gần 7%/năm. Nếu như giai đoạn
1986-1990, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta chỉ đạt 4,4%/năm, thì đến giai
đoạn 1991-1995 là 8,2%/năm; giai đoạn 1996-2000 là 7,6%/năm; giai đoạn
2001-2005 là 7,34%; giai đoạn 2006-2010 là 6,32%/năm; năm 2016 là 6,21%
và năm 2017 là 6,81%
Chất lượng tăng trưởng từng bước được cải thiện, trình độ cơng nghệ
trong sản xuất được nâng lên. Đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng
hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP giai đoạn 2001-2005 đạt 21,4%, giai đoạn
2006-2010 đạt 17,2%, đến giai đoạn 2011-2015 tăng lên 28,94%. Kinh tế vĩ
mô ổn định, lạm phát được kiểm sốt, nợ cơng có xu hướng giảm dần, dự trữ
ngoại tệ tăng, đạt mức an toàn. Thu nhập bình quân đầu người từ khoảng 100
5


USD/người/năm vào năm 1986, lên 471 USD/người/năm vào năm 2003. Năm
2018, quy mô nền kinh tế nước ta đạt 204 tỷ USD, bình quân đầu người 2300
USD/người/năm. Năm 2017, quy mơ nền kinh tế theo giá hiện hành đạt
5.007,9 nghìn tỷ đồng, tương ứng hơn 220 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu
người khoảng 2385 USD/người/năm11.
Thứ hai, về kết quả huy động nguồn vốn đầu tư
Giai đoạn 1986-2017, để tạo nguồn lực tài chính cho phát triển, Đảng
và Nhà nước ta đã khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức chính trị, xã hội, các
thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển kinh tế. Kết quả là tổng vốn đầu
tư toàn xã hội của nước ta ngày càng tăng. Nếu như giai đoạn 1998-2000,
tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 117,9 nghìn tỷ đồng, đến năm 2017 đạt
1667,4 nghìn tỷ đồng, tăng gấp hơn 14 lần so với giai đoạn 1998-2000. Cơ
cấu vốn đầu tư theo thành phần kinh tế cũng có sự dịch chuyển theo hướng
tích cực, thể hiện ở chỗ: vốn đầu tư phát triển của khu vực nhà nước đã giảm

xuống; khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn ĐTNN tăng lên.
Nếu như giai đoạn 1986-2000, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà
nước chiếm 54,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; khu vực kinh tế là 24,1%; khu
vực kinh tế có vốn ĐTNN là 21,6% thì đến năm 2017, cơ cấu vốn đầu tư theo
thành phần lần lượt là: 35,6%; 40,6% và 23,8%.
Thứ ba, về tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu
Từ năm 1986, nước ta thực hiện mô hình nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, mở cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế, nhờ đó sức sản xuất
trong nước được giải phóng, các thành phần kinh tế phát triển, đầu tư trực tiếp
nước ngoài ngày càng tăng. Nhu cầu tiêu thụ, trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong
nước và quốc tế không ngừng mở rộng. Do đó, xuất nhập khẩu hàng hóa tăng
đột biến, nếu năm 1986 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu mới đạt 2.944 triệu
USD, trong đó, xuất khẩu đạt 789 triệu USD, nhập khẩu 2.155 triệu USD, thì
năm 2017, tức là sau 31 năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới 425 tỷ

6


USD, trong đó xuất khẩu đạt 213,96 tỷ USD, nhập khẩu đạt 211,04 tỷ USD,
xuất siêu hơn 2,9 tỷ USD.
Thứ tư, về các vấn đề an sinh xã hội
Với mục tiêu định hướng XHCN, Đảng ta luôn thống nhất quan điểm
tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và cơng bằng xã hội. Do đó, các
vấn đề về an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo, hệ thống an sinh xã hội và
phúc lợi cho mọi người đều phát triển khá đồng bộ và ngày càng được cải
thiện. Vấn đề lao động việc làm, năng suất lao động và tỷ lệ thất nghiệp đều
phát triển theo hướng tích cực. Cụ thể: Số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên
đang làm việc trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, tăng từ 37.975 nghìn
người vào năm 2000, lên 53.718 nghìn người vào năm 2017 tăng 41,4%, bình
quân mỗi năm tăng 2,4%/năm; năng suất lao động xã hội năm 2005 đạt 21,4

triệu đồng/người, đến năm 2017 đạt 93,2 triệu đồng/người.
Như vậy, trong vòng 12 năm, năng suất lao động xã hội tăng 3,35 lần,
bình quân tăng 27,9%/năm; tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta thấp và có xu hướng
giảm dần từ 2,88% năm 2010, xuống 2,24% vào năm 2017. Vấn đề xóa đói,
giảm nghèo là một trong nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước, các cấp
chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội và của toàn dân, được tổ chức thực
hiện nghiêm túc, chu đáo, từ khâu xác định chuẩn nghèo cho từng giai đoạn
phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và mức sống bình quân của
dân cư. Các chương trình, dự án đầu tư nhằm tạo điều kiện cho các hộ nghèo,
vùng đặc biệt khó khăn để mọi người tham gia sản xuất kinh doanh vươn lên
thoát nghèo và trở thành hộ khá giả, nên hộ nghèo cả nước đã giảm dần qua
các giai đoạn phát triển.
Nếu xét theo chuẩn nghèo qua các giai đoạn từ 1993-1995 và 19972000 thì tỷ lệ hộ nghèo năm 1993 là 58%, giảm xuống 37,4% vào năm 1998.
Áp dụng chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005, năm 2002 tỷ lệ hộ nghèo là
28,9%, năm 2004 là 23,2%. Theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010, năm
2007 tỷ lệ hộ nghèo là 14,8%, năm 2009 là 11% và năm 2010 là 9,45%. Căn
7


cứ chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015, tỷ lệ hộ nghèo năm 2011 là 11,76%,
năm 2014 là 8,4%, năm 2015 là 7,1%. Năm 2015, Chính phủ có quyết định số
59/2015/QĐ-TTg về chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn
2016-2020, theo tiêu chuẩn đó thì tỷ lệ hộ nghèo năm 2016 là 8,93%, năm
2017 là 6,72%.
Chương trình xóa đói giảm nghèo ở nước ta được các tổ chức quốc tế
đánh giá là thành cơng và đó là do sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước, chính
quyền các cấp, các đồn thể chính trị, xã hội, của tồn dân và đặc biệt là nỗ
lực thoát nghèo của bản thân các hộ nghèo. Lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe
nhân dân ngày càng được quan tâm như: Tích cực triển khai nhiều giải pháp
giảm quá tải bệnh viện; Tập trung đầu tư xây dựng hệ thống các bệnh viện

tuyến huyện, tuyến tỉnh và tuyến cuối. Đội ngũ cán bộ y tế phát triển cả về số
lượng và chất lượng đối với cả y tế công lập và tư nhân. Riêng đối với y tế
công lập, số cơ sở khám chữa bệnh năm 1986 là 11.600 cơ sở, năm 2016 là
13.591 cơ sở, đạt tốc độ tăng bình quân giai đoạn 1986-2016 là 0,6%/năm; số
giường bệnh tăng bình quân 47,2%/năm; số bác sĩ tăng bình quân 9,8%/năm.
Tuổi thọ trung bình của nước ta tăng, đạt 73,3 tuổi vào năm 2015; năm
2016 là 73,4 tuổi; năm 2017 là 73,5 tuổi, vượt xa các nước có thu nhập thấp
(58 tuổi) và cao hơn các nước có thu nhập trung bình (71 tuổi). Số trẻ em
dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng, theo báo cáo của Viện dinh dưỡng trước cơ quan
truyền thông ngày 12-10-2018 thì suy dinh dưỡng thể thấp cịi là 23,8%, thể
nhẹ cân là 13,4% và đang có xu hướng giảm dần.
1.3. Những vấn đề đặt ra về kinh tế trong giai đoạn hiện nay
Những kết quả đạt được sau hơn 30 năm đổi mới của nước ta là rất to
lớn, toàn diện, song cũng còn nhiều vấn đề đặt ra cần nghiên cứu hồn thiện:
Đổi mới chính trị đơi khi chưa bắt kịp đổi mới kinh tế, nên tạo ra nhiều
khoảng trống pháp lý; nhiều cơ chế, chính sách cịn thiếu, chưa đáp ứng kịp
nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Nhiều chính sách hiện khơng cịn phù hợp,
thậm chí cản trở sự phát triển.
8


Tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta cao hơn mức trung bình của khu
vực và thế giới, song chất lượng tăng trưởng chưa cao, tỷ lệ đóng góp của
TFP vào tăng trưởng GDP còn thấp.
Mặc dù Đảng, Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi, ban hành nhiều
chính sách hỗ trợ về cơ sở vật chất, đào tạo nghề, hướng nghiệp để các hộ
nghèo, hộ cận nghèo, các hộ kinh tế cá thể, doanh nghiệp vừa và nhỏ vươn lên
làm giàu, xích lại gần với nhóm trung lưu, giầu có trong xã hội. Song, khoảng
cách giữa nhóm người giầu và nhóm người nghèo về thu nhập vẫn khơng
giảm, mà có xu hướng ngày càng tăng. Năm 2002, mức chênh lệch về thu

nhập giữa nhóm người giầu và nhóm người nghèo là 8,1 lần, năm 2004 là 8,3
lần, năm 2006 là 8,4 lần, năm 2008 là 8,9 lần và năm 2010 là 9,4 lần18. Như
vậy, mức độ bất bình đẳng về thu nhập ở nước ta có xu hướng tăng dần.
Giáo dục - đào tạo và chăm sóc y tế không được Nhà nước bao cấp
như cơ chế cũ, nên phần đông số người nghèo không đủ tiền chữa bệnh, con
em khơng có tiền đóng học phí phải bỏ học. Như vậy, sẽ dẫn đến tình trạng
một bộ phận khá lớn lực lượng lao động trong tương lai sẽ không đủ sức
khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chun mơn nghiệp vụ, sẽ rất khó tham gia
vào các hoạt động kinh tế - xã hội, gây áp lực lớn đối với vấn đề giải quyết
việc làm.

9


Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ NỘI DUNG ĐỔI MỚI
QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA ĐẢNG TA HIỆN NAY
2.1. Chủ trương đổi mới quản lý các vấn đề kinh tế của Đảng
Thứ nhất, về đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế
Đổi mới mơ hình và cơ cấu lại nền kinh tế là một chủ trương lớn, quan
trọng xuyên suốt từ Đại hội XI của Đảng. Đại hội XI đã xác định: một trong
những nhiệm vụ chủ yếu của nhiệm kỳ là “Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mơ
hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng hiệu quả, phát triển
bền vững”. Về mô hình tăng trưởng, Đại hội XI chủ trương “chuyển đổi mơ
hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý
giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chủ trương nâng cao
chất lượng, hiệu quả tính bền vững. Về cơ cấu lại nền kinh tế, Đại hội xác
định “Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu các ngành sản
xuất, dịch vụ, phù hợp với từng ngành”.
Tiếp tục chủ trương đó, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh có những

phát triển về định hướng và giải pháp đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế.
Về mục tiêu tăng trưởng, Đại hội XII chỉ rõ: “...Kết hợp có hiệu quả
phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, nâng
cao chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh”. Về mơ hình tăng trưởng, Đại hội
xác định: “Đổi mới mơ hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào
xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển, đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư xuất
khẩu và thị trường trong nước”.
Như vậy, định hướng đổi mới mơ hình tăng trưởng trong Văn kiện Đại
hội XII của Đảng được hiểu là lấy năng suất, hiệu quả sử dụng các nguồn lực
và sức cạnh tranh của nền kinh tế làm mục tiêu hàng đầu để vừa phát triển
kinh tế bền vững, vừa gắn với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
10


Đối với định hướng cơ cấu lại nền kinh tế gắn với mơ hình tăng trưởng,
Đại hội XII khẳng định: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ
tổng thể nền kinh tế và các ngành, các lĩnh vực, gắn với đổi mới mơ hình tăng
trưởng, tập trung vào các lĩnh vực quan trọng”. Với tinh thần đó, Đại hội xác
định nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm tới là: “Tiếp tục thực hiện đồng bộ hiệu
quả đề án tổng thể cơ cấu lại nền kinh tế và cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực”.
Cụ thể là cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh
lại cơ cấu công nghiêp tạo nền tảng cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đẩy mạnh các ngành dịch vụ...Đây là một quá trình liên tục, thường
xuyên, vừa cấp bách trước mắt, vừa lâu dài; theo phương hướng cơ cấu kinh
tế vừa khai thác lợi thế cạnh tranh hiện có, vừa tạo điều kiện để hình thành và
xây dựng các lợi thế cạnh tranh trong tương lai ở một số ngành công nghệ
cao, công nghiệp hiện đại, ngành dịch vụ có tiềm năng để đưa nền kinh tế của
nước ta đạt trình độ phát triển cao hơn.
Thứ hai, Về nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa

Trên cơ sở tổng kết toàn diện 30 năm đổi mới, Đại hội lần thứ XII của
Đảng đã nêu rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là
nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường,
đồng thời đảm bảo định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự
quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo”. Đây là quan điểm khái quát, đầy đủ và rõ ràng nhất của Đảng ta về nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN từ khi đổi mới đến nay. Vì vậy, trong
giai đoạn phát triển mới cần phải thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị
trường XHCN. Đó là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật
của kinh tế thị trường đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước. Luận giải vấn đề này, theo chúng tôi
nên tập trung một số nội dung như sau:

11


Để thực hiện một nền kinh tế thị trường đầy đủ, cần phải tạo ra một môi
trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, thuận lợi cho mọi loại hình doanh
nghiệp. Thị trường đầy đủ đó phải là, thứ nhất, tính minh bạch - bảo đảm cho
các nhà đầu tư thấy được sự minh bạch trong môi trường đầu tư kinh doanh.
Thứ hai, tuân thủ pháp luật đề ra. Thứ ba, phải có đồng tiền ổn định. Thứ tư,
đối xử cơng bằng giữa các khu vực doanh nghiệp, không phân biệt doanh
nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp nước ngồi.
Thứ năm, khơng có các khoản chi phi chính thức.
Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường nhất thiết phải
tuân thủ theo nguyên tắc thị trường.
Để hội nhập quốc tế thành công, nền kinh tế nước ta phải hướng tới đạt
trình độ kinh tế thị trường hiện đại của các nước phát triển trên thế giới. Vì
vậy, phải tơn trọng xu hướng vận động khách quan của các mối quan hệ kinh

tế - xã hội trong nền kinh tế thị trường, chứ khơng hình thành từ ý chí chủ
quan về chính trị. Ở nước ta hiện nay, việc xây dựng pháp quyền XHCN là
điều kiện tiên quyết để định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường
nhưng phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì hội nhập
quốc tế mới thành cơng.
Hiện nay, có những quan niệm khác nhau về kinh tế thị trường hiện đại,
có thể khái quát một số đặc trưng cơ bản: Đó là nền kinh tế thị trường hỗn
hợp, trong đó sở hữu cổ phần phải chiếm ưu thế; cơ cấu kinh tế thị trường
hiện đại, công nghệ nông nghiệp, thị trường các ngành dịch vụ cao cấp, hệ
thống kết cấu hạ tầng...phát triển ở trình độ cao. Phát triển dựa trên khoa học cơng nghệ hiện đại và kinh tế tri thức có nguồn nhân lực có chất lượng cao;
thể chế thị trường đồng bộ phù hợp với luật lệ quốc tế. Có hệ thống an sinh xã
hội hiện đại và một hệ thống phúc lợi vì mục tiêu phát triển tồn diện của con
người.
Thứ ba, về quan điểm cơng nghiệp hóa, hiện đại gắn với phát triển kinh
tế tri thức
12


Công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN của đất nước đã tạo ra những trình độ mới, cách thức mới cho q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam. Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là tiếp tục thực hiện đẩy mạnh thừa kế
mơ hình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế định
hướng XHCN và hội nhập quốc tế gắn với phát triển tri thức, lấy khoa học,
công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu,
huy động có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển”.
Đây là sự phát triển mới về nhận thức của Đảng tại Đại hội XII. Vì vậy,
khi luận giải vấn đề này cần tập trung làm rõ nội hàm nước công nghiệp hiện
đại theo quan điểm của Đảng tại của Đại hội XII đó là những tiêu chí phản

ánh trình độ phát triển của nền kinh tế, các chỉ tiêu phát triển xã hội, những
tiêu chí phản ánh về vấn đề chất lượng mơi trường. Các tiêu chí định tính này
đã được thể hiện bằng các chỉ tiêu quan trọng về kinh tế, xã hội và mơi
trường. Để đạt được những tiêu chí đó, Đảng ta đã xác định về cơ bản phải
hồn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN theo các
tiêu chuẩn phổ biến của các nền kinh tế thị trường hiện đại.
Thực hiện được nhiệm vụ trên, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng nguồn
nhân lực chất lượng cao, bảo đảm cho quá trình thực thi nhiệm vụ cho từng
ngành, từng lĩnh vực. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yêu tố cơ bản
của giáo dục đào tạo; đào tạo phải đảm bảo gắn với quy hoạch phát triển kinh
tế - xã hội, gắn với quy hoạch xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, do đó
phải có sự đầu tư thích đáng. Song song với việc xây dựng nguồn nhân lực
chất lượng cao thì việc đẩy mạnh phát triển khoa học cơng nghệ thực sự phải
là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế, bảo vệ mơi trường, bảo đảm quốc phịng an ninh.
Vì vậy, đầu tư cho khoa học - cơng nghệ phải có trọng tâm trọng điểm để tạo
13


bước đột phá có tác động tích cực đến nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả
của nền kinh tế.
Đối với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, cần phải đẩy mạnh và huy
động sử dụng nguồn lực xã hội để tiếp tục đầu tư, hình thành hệ thống kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội tương đối đồng bộ với một số cơng trình hiện đại. Ưu
tiên và đa dạng hóa đầu tư cho các lĩnh vực trọng tâm; hạ tầng giao thơng
đồng bộ, có trọng điểm, kết nối giữa các trung tâm kinh tế lớn và giữa các
trục giao thông đầu mối.
Để sẵn sàng cho cơng cuộc đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
thì phải kết hợp giữa vốn trong nước và ngoài nước, do vậy, vấn đề hiện nay

không chỉ là thu hút được bao nhiêu vốn vào nền kinh tế mà cần phải huy
động được các nguồn vốn trong dân thành những nguồn đầu tư có hiệu quả.
Chính những đầu tư ở trên có đem lại một cuộc cách mạng thực sự trong sản
xuất và hiện đại hóa được nền kinh tế hay khơng, thì CNH, HĐH phải dựa
trên nền kinh tế thị trường hiện đại sẽ có một hệ thống tín dụng, ngân hàng,
tài chính hiện đại giúp cho các nguồn vốn trong nước được tập trung và phân
bổ cho các lĩnh vực đầu tư có hiệu quả.
Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước phải tiến hành qua ba bước: Tạo tiền đề, điều kiện để tiến hành cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng
cao chất lượng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa...trong năm tới cần chú trọng
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh bền
vững; phấn đấu cơ bản đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại”.
2.2. Nội dung đổi mới quản lý kinh tế của Đảng
Có thể khái quát một số bước chuyển đổi mới quản lý kinh tế của Đảng
trong giai đoạn qua như sau:
Đổi mới quản lý kinh tế theo mơ hình kinh tế hiện vật, phi thị trường
sang quản lý sản xuất theo mơ hình kinh tế hàng hố, kinh tế thị trường định
14


hướng XHCN, gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng và tiến bộ xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách. Trong đó, quản lý kinh tế về
bản chất kinh tế thị trường và những nội hàm của tính định hướng XHCN,
được xác định và ngày càng cụ thể hóa trong các kỳ đại hội Đảng, đã thực sự
trở thành quản lý lý luận có sức sáng tạo, không chỉ làm sáng rõ con đường đi
lên CNXH ở Việt Nam mà còn là sự bổ sung cho kho tàng lý luận về CNXH.
Đổi mới quản lý kinh tế đơn sở hữu sang quản lý đa sở hữu, đa thành
phần kinh tế. Các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh, bình đẳng trước

pháp luật. Có thể nói, bước chuyển đổi mới quản lý này thực sự là khâu đột
phá trong nhận thức lý luận kinh tế, cởi trói quản lý và tạo động lực cho cơng
cuộc đổi mới thực hiện thuận lợi, có hiệu quả.
Đổi mới quản lý kinh tế theo cơ chế tập trung bao cấp, làm cho con
người ỷ lại, thụ động sang quản lý quản lý theo cơ chế thị trường, đòi hỏi tính
năng động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của con người.
Đổi mới quản lý kinh tế phân phối bình qn, cào bằng, khơng thừa
nhận đến thừa nhận đa dạng hóa hình thức phân phối mà phân phối theo lao
động là chủ yếu, gắn với phân phối theo vốn, tài sản.
Đổi mới quản lý kinh tế không chấp nhận bóc lột, khơng chấp nhận
phân hố giàu nghèo, sang quản lý chấp nhận bóc lột, chấp nhận phân hố
giàu nghèo ở mức độ nhất định.
Đổi mới quản lý kinh tế đảng viên không làm kinh tế tư nhân sang đảng
viên được làm kinh tế tư nhân.
Đổi mới quản lý kinh tế kinh tế “khép kín” sang quản lý mở, chủ động
hội nhập quốc tế, chấp nhận kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đổi mới quản lý kinh tế “Nhà nước làm thay thị trường”, “Nhà nước
làm tất cả”, độc quyền sang quản lý nhà nước chủ yếu thực hiện vai trò kiến
tạo phát triển, khắc phục các khuyết tật của thị trường, đa dạng hóa các chủ
thể làm kinh tế, giảm độc quyền nhà nước, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp.

15


Đổi mới quản lý kinh tế Nhà nước đóng vai trò phân bổ các nguồn lực
là chủ yếu, sang thị trường đóng vai trị phân bổ các nguồn lực là chủ yếu.
Đổi mới quản lý kinh tế cơng nghiệp hố bằng con đường “Ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ”, sử dụng vốn của nhà nước sang quản lý cơng
nghiệp hố, hiện đại hố gắn với kinh tế tri thức và phát triển rút ngắn, sử

dụng nguồn vốn xã hội hoá theo cơ chế thị trường.
Đổi mới quản lý kinh tế mơ hình kinh tế tăng trưởng theo chiều rộng
với năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp, sang mơ hình kinh tế tăng trưởng
chủ yếu theo chiều sâu với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, phát triển
nhanh, bền vững gắn với bảo vệ môi trường.
Những đặc trưng đổi mới quản lý kinh tế nêu trên là nền tảng tiền đề
nhận thức lý luận của quản lý đổi mới hiện nay trên các lĩnh khác về chính trị,
văn hố, xã hội, an ninh- quốc phịng, đối ngoại.
2.3. Những thành tựu vè hạn chế
2.3.1. Những thành tựu
Một là, quá trình đổi mới và phát triển tư duy quản lý kinh tế của Đảng
là xuyên suốt nhất quán, ngày càng đạt được tính hệ thống, đồng bộ cao; đảm
bảo sự thống nhất, hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, giữa phát triển và hội
nhập trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tư
duy lý luận kinh tế của Đảng thực sự đi trước, có vai trị dẫn đường và định
hướng q trình đổi mới và phát triển kinh tế trên thực tế. Thực tế quá trình
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đã trải qua
nhiều giai đoạn cả khó khăn và thuận lợi, đặc biệt là trong bối cảnh sự tan rã
của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu ở thời kỳ đầu đổi mới; khủng hoảng tài
chính và suy thối kinh tế tồn cầu…Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước ta vẫn
kiên trì tư duy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và cho đến
nay, thực tế đã chứng minh đây là con đường đi đúng đắn bằng những thành
tựu phát triển kinh tế-xã hội mà nước ta đã đạt được trong gần 30 năm qua.
16


Hai là, đã hình thành tư duy nhất qn có tính chiến lược về chế độ sở
hữu và các thành phần kinh tế. Đây là một bước đột phá trong đổi mới tư duy
kinh tế, giúp giải phóng sức sản xuất vốn bị kìm hãm trong nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung trước kia. Đã thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều

hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác ngoài sở hữu nhà nước và
kinh tế nhà nước, trên cơ sở đó đã có những chủ trường, định hướng đúng đắn
về phát triển nền kinh tế hàng hố nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, từ đó huy động được tổng hợp các nguồn lực để xây dựng đất nước.
Ba là, đã có sự thay đổi cơ bản trong nhận thức về vai trò, chức năng
của Nhà nước trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
Nhà nước vừa xây dựng chế độ, chính sác vừa thực hiện mọi hoạt động của
nền kinh tế, vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước vừa thực hiện chức
năng sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước
đã được xác định rõ, đó là xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo dựng và cải
thiện môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh, can thiệp vào nền
kinh tế với mục tiêu sửa chữa những khuyết tật của thị trường và đảm bảo an
sinh xã hội. Đồng thời, Nhà nước cũng đóng vai trị là một chủ thể kinh tế
trên thị trường thông qua việc đầu tư vốn và quản lý tài sản công.
Bốn là, chính sách thị trường thơng thương giữa các vùng trong cả
nước và giữa trong nước và nước ngoài là một bước tiến lớn trong nhận thức
và xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta. Chính sách “cởi trói” để hàng
hóa được tự do lưu thơng cùng với chính sách mở cửa nền kinh tế đã giúp đổi
mới tư duy trong sản xuất và phân phối, chuyển Việt Nam từ một nền kinh tế
tự cấp tự túc sang một nền kinh tế sản xuất hàng hóa, từ một nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp trở thành một nền kinh tế thị trường
được nhiều nước trên thế giới công nhận.
Năm là, quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN đã chuyển dịch từ chỗ coi Nhà nước là chủ thế quyết định phân phối
(phân phối lần đầu và phân phối lại) sang việc coi thị trường quyết định phân
17


phối lần đầu và vai trò của Nhà nước trong việc phân phối lại. Cơ chế phân bổ
nguồn lực bằng hiện vật và cào bằng chuyển sang phân bổ dựa trên các

nguyên tắc và tiêu chí hiệu quả, tập trung vào những ngành, lĩnh vực trọng
tâm đã góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong phân bổ ngân
sách nói riêng và nguồn lực xã hội nói chung. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển
biến tích cực để phát huy tiềm năng của từng ngành, từng vùng trong sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Tạo dựng được những tiền đề cần thiết
cho sự phát triển kinh tế thị trường và sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước; cải thiện một bước kết cấu hạ tăng kinh tế xã hội, tạo điều kiện
thúc đẩy phát triển kinh tế và đời sống nhân dân; hệ thống giáo dục, khoa học
công nghệ phát triển khá, thể chế kinh tế thị trường đã từng bước được hình
thành và phát triển.
Sáu là, cơ chế giá chuyển từ quản lý mệnh lệnh hành chính, khơng phản
ánh đúng quy luật giá trị, là một trong những nguyên nhân gây lạm phát cao
sang quản lý theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã khắc phục
nhưng bất cập, hạn chế về giá, giá cả hàng hoá phản ánh giá trị hàng hoá,
khắc phục được những mặt trái về giá trong KTTT, đảm bảo ổn định và an
sinh



hội.

Bẩy là, khuyến khích phát triển đồng bộ các loại thị trường, trong đó thị
trường tài chính đã được chú trọng, đặc biệt là thị trường vốn để tạo kênh dẫn
vốn quan trọng cho nền kinh tế. Phát triển thị trường không chỉ bao gồm thị
trường hàng hóa và dịch vụ mà cịn cả thị trường các yếu tố sản xuất như vốn,
tài sản, tiền tệ và sức lạo động.
Tám là, nhận thức được vai trị tích cực của cơ chế thị trường và đa
dạng hoá các chủ thể tham gia thị trường. Trong đó, Nhà nước quản lý thị
trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách, cơng cụ địn bảy kinh tế
và bằng nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước. Từng bước tách chức năng

kinh doanh của doanh nghiệp và chức năng quản lý, giám sát của cơ quan
quản lý Nhà nước, chủ sở hữu, hình thành các định chế tài chính trung gian để
18


thực hiện nhiệm vụ tín dụng chính sách của nhà nước cũng như đầu tư kinh
doanh vốn nhà nước.
3.2.2. Những hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên, quá trình đổi mới tư duy
quản lý kinh tế của Đảng về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta trong gần 30 năm qua vẫn cịn một số hạn chế.
Một là, Q trình đổi mới tư duy quản lý kinh tế, tư duy lý luận của
Đảng trong những năm qua vẫn còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của
công cuộc đổi mới cũng như chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của
thực tiễn, nhất là việc cụ thể hóa thành cơ chế, chính sách, cộng với sự lúng
túng, chậm trễ trong lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN, đã cản
trở sự đổi mới trên thực tế. Một số vấn đề lý luận cơ bản về định hướng chủ
nghĩa xã hội trên các lĩnh vực ngoài kinh tế, chưa thật sự sáng rõ. Những khái
niệm, nội hàm về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN... còn chậm được
luận giải dẫn đến lúng túng trong áp dụng vào thực tiễn. Cần nghiên cứu làm
rõ “mối quan hệ giữa các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường với các
nguyên tắc kinh tế của CNXH trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN”. Thậm chí trong giới học thuật và trong xã hội, cũng khơng ít ý kiến
cịn nghi ngờ sự “đồng hành” giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN.
Hai là, các vần đề về quan hệ sở hữu, vai trò của các thành phần kinh
tế, đặc biệt là vấn đề sở hữu đất đai, cũng là vấn đề cần tiếp tục làm rõ. Trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phải chăng “sở hữu nhà nước” về
tư liệu sản xuất chủ yếu, đồng nhất với “chế độ công hữu”? Kinh tế nhà nước
thế nào là “chủ đạo” trong nền kinh tế thị trường? Làm thế nào để nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của các DNNN, làm thế nào để kinh tế tập thể

cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng vững chắc trong nền kinh tế?
Ba là, tăng trưởng kinh tế khơng ổn định, có xu hướng chững lại trong
gần 10 năm trở lại đây; khối lượng tăng trưởng vẫn dựa nhiều vào các yếu tố
phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Việc
19



×