Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận cao học, mon he tu tuong dưới góc độ chính trị học, phân tích sự phát triển tư tưởng về nhà nước trong dòng chảy lịch sử văn minh nhân loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.17 KB, 31 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: HỆ TƯ TƯỞNG HỌC
Câu 4: Dưới góc độ chính trị học, phân tích sự phát triển tư tưởng về
nhà nước trong dòng chảy lịch sử văn minh nhân loại


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................7
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN.................................................7
1.1. Khái niệm bộ máy Nhà nước.................................................................7
1.2. Khái niệm nhà nước pháp quyền..............................................................7
Chương 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG VỀ NHÀ NƯỚC
TRONG LỊCH SỬ VĂN MINH NHÂN LOẠI.......................................18
2.1. Sự phát triển tư tưởng về nhà nước ở các nước phương Tây...............18
2.2. Sự phát triển tư tưởng về nhà nước ở các nước ở nước ta hiện nay.....21
KẾT LUẬN................................................................................................26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................28


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Tư tưởng về xây dựng nhà nước là một giá trị phổ biến của nhân loại
trong thế giới đương đại. Nó được khởi nguồn cùng với các tư tưởng về phát
triển dân chủ được hình thành ngay từ thời cổ đại; trải qua lịch sử đấu tranh
nhằm thực hiện dân chủ của nhân loại, trở thành hiện thực và phổ biến cùng
với thời đại cách mạng tư sản, tiếp tục phát triển và dần hoàn thiện trong thời
đại ngày nay. Cốt lõi của nhà nước pháp quyền là dân chủ và thượng tôn pháp
luật - pháp luật để bảo vệ và phát triển dân chủ. Tuy mang tính phổ biến hiện
nay, nhưng với mỗi quốc gia dân tộc, với những bối cảnh riêng biệt của mình,
sẽ có những đặc thù trong xây dựng nhà nước pháp quyền.


Tại Việt Nam, trong thời đại ngày nay, những tư tưởng về xây dựng
nhà nước pháp quyền được hình thành từ sớm, được thể hiện rất rõ trong quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước. Nền móng của nhà
nước pháp quyền được xây dựng ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời (năm 1945), được bảo đảm và phát triển trong suốt lịch sử dân tộc,
thông qua quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, qua các bản Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Việt Nam.
Nhưng do các điều kiện chủ quan và khách quan khác nhau, trước thời kỳ Đổi
mới (năm 1986), quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền cịn chưa được
định hình một cách rõ nét. Đến Cương lĩnh năm 1991, quan điểm về xây dựng
nhà nước pháp quyền mang đặc thù của Việt Nam mới được đề cập rõ ràng và
đến Cương lĩnh sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì khái niệm Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành một giá trị, tính chất của nhà nước
ta, của chế độ ta và là một tiêu chí của xã hội xã hội chủ nghĩa mà cách mạng
Việt Nam hướng tới.
Tuy nhiên, với đặc thù riêng cũng đem đến những khó khăn lớn trong
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hiện thực.
1


Bởi lẽ mặc dù là giá trị phổ biến hiện nay, nhưng khơng nhiều quốc gia có
những đặc điểm địa chính trị, xuất phát điểm tương đồng với nước ta trong
xây dựng nhà nước pháp quyền; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa còn chưa sáng tỏ cả trong lý luận và thực tiễn của nhân loại nói chung
và của nước ta nói riêng. Do đó, một nhiệm vụ cấp bách, trọng tâm được Đại
hội XII của Đảng xác định là: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN”. Tức là phải khẩn trương hoàn thiện lý luận về nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và hiện thực hóa nó trong xã hội Việt Nam một cách hiệu
quả, để từ đó mới bảo đảm cho các nhiệm vụ cách mạng khác được thực hiện
thắng lợi.

Vì vậy, nhóm nghiên cứu chọn đề tài “Dưới góc độ chính trị học,
phân tích sự phát triển tư tưởng về nhà nước trong dòng chảy lịch sử văn
minh nhân loại” làm đề tài nghiên cứu, với mục tiêu nhận định những giá trị
chung, cốt lõi của nhà nước pháp quyền; so sánh một số mơ hình nhà nước
pháp quyền và làm rõ đặc thù mơ hình Việt Nam nhằm góp một phần nhỏ bé
vào nghiên cứu về nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Nhà nước pháp quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền đã có tiền lệ
gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người. Nhà nước
pháp quyền với tư cách là một kiểu nhà nước đã thể hiện được tính tiến bộ
của mình so với các kiểu nhà nước độc tài, chuyên chế... Vấn đề nhà nước
pháp quyền, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thu hút sự
quan tâm của các nhà lý luận, đặc biệt trong những năm gần đây. Các tài liệu
về vấn đề này xuất hiện ngày càng nhiều với số lượng lớn. Có thể kể đến một
số cơng trình tiêu biểu sau:
Nghiên cứu vấn đề theo hướng nêu tính tất yếu, phân tích tiền đề lý
luận, cơ sở thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam: Đề tài KH 04.01: “Cơ sở lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền
2


xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” và bài đăng trên Tạp chí Cộng sản:
“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” do GS.VS Nguyễn Duy Quý làm chủ nhiệm đã khái quát lịch sử
hình thành và phát triển của học thuyết nhà nước pháp quyền; nêu những khái
niệm, những đặc trưng cơ bản và chức năng, lý giải các yếu tố quy định và chi
phối quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
cũng như so sánh sự giống và khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền tư sản
với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Các tác giả, Lê Minh Quân trong cuốn Xây dựng nhà nước pháp quyền
đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay, (Nxb. Chính trị quốc gia, 2003), Trần Hậu Thành trong Cơ sở
lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, (Nxb Lý luận chính trị, 2005), đã trình
bày tổng quát cơ sở lý luận, điều kiện thực tiễn, tính cấp thiết xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nghiên cứu lý luận chung về nhà nước pháp quyền và xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Cơng trình do Nguyễn Văn
Yểu, Lê Hữu Nghĩa (đồng chủ biên), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, (Nxb Chính trị quốc gia, 2006) đã
đề xuất những phương án về việc đổi mới. Các công trình của: Đào Trí Úc,
Phạm Hữu Nghị, Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, (Nxb Từ điển
Bách Khoa, 2009), đã nêu vấn đề lý luận và thực tiễn mà Việt Nam cần phải
giải quyết trên từng bước đường xây dựng nhà nước pháp quyền.
Luận án tiến sĩ, Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong những năm 1996 – 2006 (Học viện hành chính
– Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), Lâm Quốc Tuấn đã tổng kết những thành
tựu, nêu lên những hạn chế và bước đầu xác định một số kinh nghiệm của
Đảng trong hơn 10 năm lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
3


nghĩa. Phạm Ngọc Quang và Ngô Thị Kim Ngân trong cuốn Phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân (Nxb. Chính trị quốc
gia, 2007) đã nêu quan điểm nâng cao vai trò của Đảng trong sự nghiệp xây
dựng nhà nước pháp quyền phải đi đôi với việc chống chủ nghĩa quan liêu, tệ
nạn tham nhũng.

Luận án tiến sĩ triết học của Đào Ngọc Tuấn: Tính phổ biến và tính đặc
thù trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam (Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2002) đã đề cập đến vấn đề điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đồng thời nêu lên một số tính
phổ biến trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Mai Thị Thanh trong luận
án tiến sĩ: Vấn đề hình thức của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay (Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2011)
đã phân tích một số nhân tố quy định điều kiện của việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nghiên cứu về những vấn đề đặt ra của việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chúng ta có thể tìm thấy trong các tài liệu:
Đồn Trọng Tuyến, Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (Nxb Tư pháp 2006); Đào Trí Úc,
Những luận cứ khoa học của việc hoàn thiện bộ máy nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
(Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11, 2001); Nguyễn Văn Yểu, Hoàn thiện
hệ thống pháp luật để phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, (Tạp chí Cộng sản, số 10, 2014); Trần Hậu Thành, Một số vấn đề lý
luận về quan hệ nhà nước, xã hội và công dân trong nhà nước pháp quyền,
(Triết học, số 6, 2005)
Các cơng trình, đề tài nghiên cứu đã nêu ở trên đều đã phân tích cơ sở lý
luận, phân tích những khái niệm, đặc trưng cơ bản, cũng như việc làm thế nào
để hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
4


Tuy nhiên, chưa có cơng trình, đề tài nào đi sâu phân tích, đi tìm sự giống và
khác nhau giữa nhà nước pháp quyền ở các quốc gia phương Tây với nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.

3.1. Mục tiêu nghiên cứu.
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề chung về nhà nước pháp quyền
phương Tây và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân, đề tài so sánh sự giống và khác biệt giữa hai kiểu nhà
nước, từ đó đưa ra giải pháp tăng cường nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhà nước pháp quyền phương
Tây và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân.
- So sánh một số kiểu nhà nước pháp quyền phương Tây và nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
- Đề xuất giải pháp tăng cường nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
4. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự giống và khác nhau giữa một số
mơ hình nhà nước pháp quyền phương Tây và nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
5. Đối tượng khảo sát, phạm vi và giới hạn nghiên cứu.
- Đối tượng khảo sát: Nhà nước pháp quyền phương Tây và Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
- Phạm vi nội dung: Nhà nước pháp quyền phương Tây (Anh, Pháp,
Mỹ) và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Giới hạn không gian: Các nước phương Tây (Anh, Pháp, Mỹ) và
Việt Nam.
5


- Giới hạn thời gian: Từ năm 2013 đến nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.

6.1. Phương pháp luận:
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước hiện nay về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
6.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Phương pháp lịch sử và logic.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp phân tích số liệu.
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cấu thành 2 chương và 5 tiết

6


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm bộ máy Nhà nước
Bộ máy Nhà nước là hệ thống các cơ quan Nhà nước từ trung ương
xuống cơ sở, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thông nhất, tạo thành
một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Hiện nay các cơ quan nhà nước trong Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam gồm:
- Các cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các
cấp (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã);
- Các cơ quan hành chính nhà nước: Chính phủ; các bộ, cơ quan ngang

bộ; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã;
- Các cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án quân sự, các Tòa
án nhân dân địa phương (cấp tỉnh, cấp huyện); Tòa án khác do luật định; Trong
tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt.
- Các cơ quan kiểm soát: Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện kiểm sát
quân sự; Viện kiểm sát nhân dân địa phương (cấp tỉnh, cấp huyện).
- Chủ tịch nước là một thiết chế nhà nước, thể hiện sự thống nhất của
quyền lưc, thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, tồn tại tương đối
độc lập với các cơ quan nhà nước khác.
1.2. Khái niệm nhà nước pháp quyền
1.2.1. Khái

niệm nhà nước pháp quyền phương Tây

Tư tưởng nhà nước pháp quyền đã có từ rất lâu trong lịch sử nhân loại.
Ở phương Đông, tư tưởng nay bắt nguồn từ tư tưởng Pháp gia của Hàn Phi Tử
(280-232 trước công nguyên) và trở thành vũ khí lý luận sắc bén của nhà Tần
(Trung Quốc) trong việc quyết định cục diện hỗn loạn xã hội, thống nhất đất
nước, phát triển chế độ phong kiến chuyên chế và có ảnh hưởng to lớn đối với
các nước phương Đông. Ở phương Tây, tư tưởng pháp quyền xuất hiện từ
7


thời cổ đại, khi mà người ta bắt đầu tìm kiếm nguyên tắc, hình thức, cơ cấu để
thiết lập quan hệ qua lại, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa pháp
luật và quyền lực.
Ở thời kỳ cổ đại, Hy Lạp và La Mã là nơi phát triển có tính điển hình về
kinh tế, chính trị, xã hội. Tại đây đã hình thành nên tư tưởng phong phú về
nhà nước pháp quyền. Những tư tưởng ấy vừa thể hiện sự biến đổi khơng
ngừng của chính trị, xã hội, vừa thúc đẩy hiện thực phát triển. Vào thế kỷ thứ

VI trước công nguyên, Sô-Lông – nhà thông thái Hy Lạp đã áp dụng tư tưởng
kết hợp sức mạnh với quyền lực trong việc tổ chức Nhà nước Ai Cập trên
những nguyên tắc dân chủ. Ông diễn đạt tư tưởng của mình rằng, phải giải
phóng tất cả mọi người bằng quyền lực pháp luật, bằng sự kết hợp giữa sức
mạnh và pháp luật.
Hêraclit (530 - 470 TCN) có câu nói bất hủ: Nhân dân phải đấu tranh
bảo vệ luật như bảo vệ chốn nương thân của mình. Vị cha đẻ của khoa học
chính trị - Aritxtot (384 – 322 TCN) nhấn mạnh đến tính tối cao của pháp luật
trong một nhà nước được tổ chức theo đúng nghĩa của nó. Ơng cho rằng nhà
nước có cơng bằng hay khơng đều phải gắn với pháp luật, chỉ có pháp luật
mới là tiêu chuẩn để điều chỉnh cho mọi giao tiếp trong xã hội, nên: Ở nơi nào
khơng có sức mạnh của luật thì nơi đó khơng có hình thức chế độ nhà nước.
Như vậy, luật được quan niệm là cần thiết cho xã hội, cho cuộc sống của mỗi
người dân, giữa luật và nhà nước phải có mối quan hệ chặt chẽ.
Platon (427 – 347TCN) thừa nhận: Những nơi mà pháp luật được định
ra vì lợi ích của một số người thì ở đó khơng có chế độ nhà nước. Chỉ có thể
gọi là nhà nước nếu như có sự cơng bằng giữ vai trò thống trị. Theo Platon, sự
cưỡng bức của nhà nước phải là sự áp đặt của lý trí phổ biến, theo đó chính trị
có mặt ở mọi nơi, nó tự phân tích thành một số hành vi, nó tự phân giải trong
cái cụ thể thành pháp lý, hành chính, tư pháp, ngoại giao. Nhưng các yếu tố
khách nhau đó phải được thống nhất khéo léo bởi chính trị. Tất cả các cá nhân
phải phục tùng tuyền uy, không một bộ phận nào được tự do thuần túy, không
8


được ỏ mặc các công dân hoạt động riêng, sự tự do tùy tiện chỉ dẫn đến hỗn
loạn, gây tai họa cho đời sống công dân.
Các quan niệm trên đã được Siseron (106 – 43TCN) phát triển thêm
một bước đáng kể. Ơng đặt vấn đề: Nhà nước là gì nếu khơng phải là trật tự
chung. Vì vậy theo ơng nhà nước đó là sự nghiệp và tài sản của nhân dân.

Nhân dân ở đây không phải là sự tập hợp bất kỳ nào của nhiều người mà nó
phải là một cộng đồng được liên kết với nhau bằng sự nhất trí về pháp luật và
quyền lợi chung. Siseron đưa ra nguyên tắc: Luật có tác động đến tất cả mọi
người, mọi người bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước và pháp luật là của
chung mọi công dân, do vậy việc bảo vệ tư do của công dân không phải là
việc của riêng ai.
Các nhà tư tưởng Hy – La cổ đại khơng chỉ dừng ở chỗ xác định vai
trị vị trí của pháp luật nhà nước trong xã hội mà các ơng cịn đưa ra các ý
kiến về việc tổ chức nhà nước có sự thống trị của pháp luật ấy như thế nào.
Platon phân biệt: Cầm quyền bởi một con người đó là chính quyền chun
chế, bởi một bộ phận người tốt đó là chính quyền q tộc, bởi những cơng
dân tự do thành thị đó là qn chủ. Aritxtot cho rằng trong bất kỳ nhà nước
nào cũng phải có ba yếu tố: Nghị luận (cơ quan làm luật, trông coi việc nước),
chấp hành (các cơ quan thị thực), xét xử (tịa án). Cách nhìn, cách lập luận
của các triết gia cổ đại tuy chỉ mới là mầm mống của tư tưởng nhà nước pháp
quyền nhưng nó đã được đánh giá “ Khơng có cái cơ sở của nền văn minh Hy
Lạp và đế chế La Mã thì khơng có châu Âu hiện đại”. Tư tưởng của các ơng
lúc bấy giờ đều đề cao sự công bằng pháp luật, coi đó là những thuộc tính vốn
có của trời đất, trái ngược với nó là bạo lực, lộng quyền, hỗn loạn cần phải
được xóa bỏ. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền của các ơng đã thể hiện rõ ý
chí chống lại sự chuyên quyền độc đoán, chống lại việc lẽ phải chỉ nằm trong
tay kẻ mạnh, vua chúa có quyền lực không hạn chế, chống lại quan điểm nhà
nước làm ra luật thì nhà nước phải đứng trên pháp luật. Đích đến của các nhà
tư tưởng lỗi lạc thời cổ đại là hướng tới xây dựng một xã hội dân chủ mà ở đó
quyền lực thuộc về nhân dân.
9


Ở thời kỳ trung đại và cận đại, các nhà tư tưởng đã tiếp nhận và phát
triển quan điểm nhà nước pháp quyền thời cổ đại lên như là một thế giới quan

pháp lý mới, biểu hiện ý thức chống lại một cách quyết liệt các quan điểm
thần học về nhà nước và pháp luật, chống lại sự chuyên quyền phong kiến và
tình trạng vơ pháp luật. Đồng thời nó khẳng định mạnh mẽ tính nhân đạo,
nguyên tắc tự do bình đẳng của cá nhân, thừa nhận những quyền của con
người không thể bị tước đoạt. Thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên chủ
nghĩa tư bản, những quan niệm mới về tự do của con người thông qua việc
tơn trọng tính tối cao của pháp luật dẫn đến việc hình thành học thuyết nhà
nước pháp quyền tư sản. Học thuyết này ngày càng hoàn thiện qua các tư
tưởng vĩ đại của G. Loccơ, Montesquieu, Kan, Hêghen, Monh ….
Người đặt nền móng cho sự ra đời của học thuyết về nhà nước pháp
quyền tư sản là G. Loccơ (1632 - 1704) – một nhà tư tưởng người Anh vào
thế kỷ XVII. Mơ hình nhà nước mà ơng đưa ra có vị trí pháp luật là cao nhất.
Luật này phải phù hợp với luật pháp tự nhiên, các quyền tự nhiên và tự do cá
nhân được ghi nhận. Trong nhà nước mà ơng thiết kế có ngun tắc: Đối với
cơng dân cho phép làm tất cả những gì mà luật không cấm, đối với những
người nắm quyền lực không được làm những gì mà luật khơng cho phép.
Tiếp tục phát triển những quan điểm của G. Loccơ về phân lập các
quyền trong bộ máy nhà nước thì Montesquieu (1689 - 1775) – luật gia người
Pháp thế kỷ XVIII đã có những khám phá mới về chế độ phân bố quyền lực.
Ông khẳng định việc phân chia quyền lực là một thuộc tính của nhà nước
pháp quyền, là điều kiện cơ bản để đảm bảo tự do chính trị. Cốt lõi tư tưởng
của ông là quyền lực nhà nước được chia thành: Quyền lập pháp, quyền hành
pháp, quyền tư pháp và ba quyền đó được giao cho ba cơ quan khác nhau.
Ông cho rằng làm như vậy các bộ phận quyền lực sẽ kiềm chế lẫn nhau và
tránh được sự lạm quyền. Tư tưởng này đã trở thành một trong những nội
dung cơ bản của học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản.
Một trong những quan điểm mới có tính sâu sắc về nhà nước pháp
quyền tư sản đã được Rutxo (1712 – 1778) đưa ra. Ông quan niệm con người
10



khi thốt khỏi trạng thái tự nhiên với tính năng tự hoàn thiện đã phải liên kết
lại với nhau thành xã hội để bảo vệ và phát triển quyền tự do vốn có của
mình. Để tạo ra sức mạnh chung nhằm bảo vệ mọi thành viên trong xã hội cần
phải có một hình thức liên kết giữa con người với con người, cần có sự thỏa
thuận giữa nhân dân và nhà nước bằng khế ước xã hội. Thơng qua đó nhân
dân thực hiện được quyền của mình bằng cách nhân dân ủy quyền cho các đại
biểu trong bộ máy nhà nước. Với sự thỏa thuận ấy con người mất đi cái tự do
tự nhiên, bị hạn chế những điều muốn làm, bù lại họ có quyền tự do dân sự và
quyền sở hữu những cái mà con người có. Nếu nhà nước không đảm bảo được
tự do cho cá nhân, khơng đem lại lợi ích cho xã hội như mục đích ban đầu thì
người ta có quyền thỏa thuận lại để giành lấy tự do cho mình. Vậy nên, nếu
quyền lực nhà nước được tách ra thành các bộ phận thì chúng vẫn phải phụ
thuộc vào nhau mới thực hiện được ý chí chung.
Đến I. Kant (1724 – 1804) – học giả người Đức, lý thuyết về nhà nước
pháp quyền tư sản với tính cách là một học thuyết triết học – chính trị tương
đối hồn chỉnh đã được xác định. Kant triệt để tán thành việc áp dụng lý
thuyết phân quyền. Theo ông, ở đâu áp dụng nguyên tắc này thì ở đó có nhà
nước pháp quyền, nếu khơng chỉ là chuyên quyền. Kant quan niệm nhà nước
là tập hợp của nhiều người cùng phục tùng các đạo luật, nhà nước phải hoạt
động với mục đích đảm bảo cho sự thắng lợi của pháp luật, đồng thời nhà
nước cũng phải phục tùng những yêu cầu của pháp luật đó.
Người đầu tiên sử dụng thuật ngữ nhà nước pháp quyền chính là Robert
Fon Mohn và Karl Teodor Valker. Hai ơng coi tính tối cao của pháp luật là
nguyên tắc hàng đầu của nhà nước pháp quyền. Tính tối cao đó thể hiện chủ
quyền của nhân dân dưới hình thức quyền lực của nghị viện. Pháp luật thuần
túy chỉ là công cụ bảo vệ quyền tự do của con người khỏi sự can thiệp từ bên
ngồi. Các ơng quan niệm trong nhà nước pháp quyền cần phải đảm bảo tiêu
chuẩn sự bình đẳng của mọi cơng dân trước pháp luật, có như vậy mới phát
huy hết quyền tự do và năng lực của mỗi thành viên trong xã hội. Như vậy,

điểm hội tụ của các nhà tư tưởng về nhà nước pháp quyền là quan điểm: Nhân
11


dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, nhà nước phải đứng dưới pháp luật,
quản lý xã hội bằng pháp luật. Ở mỗi nước đều có hệ thống luật pháp riêng
của mình với vị trí tối cao là hiến pháp, luật này phải tuân thủ theo tinh thần
cơ bản của pháp luật tự nhiên. Pháp luật tự nhiên được xem như là cái có
trước nhà nước, đứng trên mọi nhà nước, được lý trí cơng nhận, giữ vai trị
lãnh đạo cuộc sống xã hội, điều chỉnh hành vi của mọi người. Về mặt tổ chức
quyền lực nhà nước nhất định phải được chia thành ba chức năng cơ bản:
Làm luật, chấp hành pháp luật, giải quyết những vướng mắc trong quá trình
chấp hành pháp luật, xử lý và trừng trị các vi phạm pháp luật.
Từ những tư tưởng về nhà nước pháp quyền từ cổ đại đến cận đại nêu
trên, có thể thấy tư tưởng về nhà nước pháp quyền phát triển không ngừng, là
thành quả của nhân loại, nó hình thành và phát triển cùng với sự tiến bộ xã
hội và cho đến nay đã được thế giới thừa nhận về mặt lý luận như một học
thuyết về nhà nước pháp quyền.
Tại Hội nghị quốc tế về nhà nước pháp quyền được tổ chức tại Bênanh, năm 1992, các luật gia đã đưa ra nhiều khái niệm, tiêu chí về một nhà
nước pháp quyền và được đơng đảo dư luận quốc tế đồng tình, bao gồm: Sự
thừa nhận tính tối cao của pháp luật; việc xác định quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp trong bộ máy quyền lực nhà nước; việc tơn trọng quyền và lợi
ích hợp pháp của con người, tôn trọng pháp luật quốc tế v.v.. Tuy nhiên,
chúng tôi cho rằng, vấn đề nhà nước pháp quyền đề cập đến phương thức tổ
chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước dưới góc độ pháp luật, mà pháp
luật thì bao giờ cũng mang tính giai cấp và tính đặc thù của mỗi nhà nước,
mỗi dân tộc; do đó, phương thức tổ chức xây dựng và vận hành của nhà nước
pháp quyền sẽ thể hiện cụ thể khác nhau về bản chất chế độ chính trị, hệ
thống quan điểm, mục đích nhiệm vụ của từng thời kỳ phát triển hoặc điều
kiện cụ thể của mỗi nước, chứ khơng có mơ hình, tiêu chí về nhà nước pháp

quyền đồng nhất cho tất cả các nước khác nhau.
Từ những quan điểm trên, chúng tôi xin đua ra khái niêm về nhà nước
pháp quyền như sau: Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó phương
12


thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định
và thừa nhận tính tối cao của pháp luật; bao hàm việc xác định rõ ràng
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ
ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh
những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân.
1.2.2. Khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Trước đổi mới, Đảng ta chưa dùng khái niệm nhà nước pháp quyền,
mặc dù trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980 đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí
Minh trong xây dựng pháp luật và tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước
theo tinh thần nhà nước pháp quyền ở mức độ nhất định. Bắt đầu từ Hội nghị
giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1 - 1994), Đảng ta dùng khái niệm nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội IX khẳng định: “Nhà nước ta
là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, cơng chức, mọi cơng dân có nghĩa vụ chấp
hành Hiến pháp và pháp luật”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011) thông qua tại Đại
hội XI khẳng định: “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân…”.

Để hiểu về khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trước hết, cần hiểu rõ khai
niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là sự tôn trọng, thực hiện pháp luật hiện
hanh một cách nghiêm minh, bình đẳng và thống nhất của các chủ thể trong
toàn xã hội. Đây là một khái niệm rộng, bao gồm nhiều mặt:
13


Thứ nhất, pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc tổ chức hoạt động
của các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể quần chúng.
Thứ hai, pháp chế là ngun tắc địi hỏi mọi cơng dân đều phải tôn
trọng và thực hiện đúng yêu cầu của pháp luật trong các hành vi xử sự của
mình, được pháp làm những gì mà pháp luật khơng cấm.
Thứ tư, pháp chế xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
Pháp chế và pháp luật là hai khái niệm có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Chúng là những khái niệm gần gũi, nhưng không đồng nhất. Pháp luật là hệ
thống các quy phạm do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Pháp chế là một phạm trù thể hiện những yêu cầu, đòi hỏi đối với chủ
thể pháp luật, tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật. Như vậy, pháp luật là
tiền đề của pháp chế. Nhưng có pháp luật chưa hẳn đã có pháp chế. Pháp
luật ban hành ra mà không được tuân thủ, thi hành nghiêm chỉnh thì cũng
khơng có pháp chế. Ngược lại, pháp chế chỉ có thể được củng cố, tăng
cường khi xã hội có một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ,
phù hợp và kịp thời.
Nhà nước của dân, do dân và vì dân theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nhà
nước thực hiện quyền lực của nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân,
trước hết là nhân dân lao động. Nhân dân theo quan niệm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là tồn dân, là tất cả đàn ơng, đàn bà, người già ,người trẻ , không

phân biệt giai cấp, dân tộc, đảng phái, tôn giáo, Người cho rằng “trong bầu
trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực
lượng đồn kết của nhân dân”.
Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (1946) do Chủ tịch Hồ Chí
Minh soạn thảo, ngay từ Điều 1 đã khẳng định: “Tất cả quyền bính trong
nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nòi giống, gái trai,
giàu nghèo, giai cấp”. Xuất phát từ lòng tin sâu sắc vào truyền thống tốt đẹp
của nhân dân ta, cho dù trong hồn cảnh cực kỳ khó khăn sau khi cách mạng
mới thành cơng - giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm đang hoành hành;
14


Người đề nghị Chính phủ lâm thời “tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng
tuyển cử với chế độ phổ thơng đầu phiếu...”, “Tổng tuyển cử là dịp cho tồn
thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác cơng
việc Nước nhà . Trong cuộc tổng tuyển cử hễ là những người muốn lo việc
nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là cơng dân thì đều có quyền đi bầu
cử…Do bầu cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ,
Chính phủ đó thật là chính phủ của toàn dân” . Tức là Người đã thực hiện
ngay dân chủ trực tiếp, điều mà nền dân chủ tư sản phải trải qua mấy trăm
năm mới đạt được, mà khơng đợi đến lúc có đủ những điều kiện về kinh tế xã hội cho phép. Sự thành lập bộ máy nhà nước do dân cử bằng phổ thông
đầu phiếu là sự kiện đầu tiên trong lịch sử nhà nước của Việt Nam. Một
Chính phủ như vậy nhất định thể hiện được truyền thống đoàn kết dân tộc,
thể hiện ý chí thống nhất cao của tồn dân; Người nói: “Tơi có thể tun bố
trước Quốc hội rằng, Chính phủ này tỏ rõ tinh thần quốc dân liên hiệp, là
một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để tranh thủ quyền
độc lập và thống nhất lãnh thổ, cùng xây dựng một nước Việt Nam mới.
Chính phủ này là chính phủ tồn quốc có đủ tài Trung, Nam, Bắc tham gia”
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Xây dựng một Nhà nước của dân theo Bác Hồ nghĩa là: Tất cả quyền

bính đều thuộc về nhân dân, những vấn đề quan hệ đến vận mệnh quốc gia do
nhân dân phán quyết; tức là nhân dân phải là người thực hiện quyền lực, hoặc
trực tiếp, hoặc gián tiếp thơng qua các đại biểu của mình “Chính quyền từ xã
đến chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do
dân tổ chức nên” . Đó là những hình thức cơ bản của nền dân chủ; dân chủ
vừa là thành quả đấu tranh cách mạng của dân tộc, vừa là giá trị văn hóa, do
đó theo Người: Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ sinh hoạt chính trị
tồn dân... làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia vào công
việc của Nhà nước. Như vậy, nền tảng xã hội sâu rộng, ý thức chính trị và khả
năng tham gia vào đời sống chính trị của nhân dân là yếu tố đảm bảo cho nền
dân chủ mới. Người coi yếu tố đầu tiên của dân chủ là: Có việc gì thì ai cũng
15


được bàn, cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào nhiều người
theo hơn thì được, ấy là dân chủ.
Nhà nước do dân bởi vì “lực lượng bao nhiêu là nhờ dân hết”. Nhà nước
muốn điều hành quản lý xã hội có hiệu quả thì phải dựa vào dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói: “dân như nước mình như cá”; phải “đem tài dân, sức dân, của
dân làm lợi cho dân…Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động” . Vì vậy Đảng ta
ln chủ trương dựa vào dân, tạo điều kiện để nhân dân phát huy cao nhất
quyền làm chủ , tham gia tích cực vào việc quản lý Nhà nước .
Nhà nước vì dân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh có nghĩa là mọi hoạt
động của Nhà nước đều phải xuất phát và vì lợi ích của nhân dân; việc gì có
lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được ; việc gì có hại cho dân thì phải hết sức
tránh. Người chỉ rõ: chế độ ta là chế độ dân chủ, nhân dân là chủ, Chính phủ
là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đơn đốc và phê bình Chính phủ.
Chính phủ thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân
dân “Các cơng việc của chính phủ làm phải nhằm vào mục đích duy nhất là
mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên chính phủ nhân dân bao giờ

cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm.
Việc gì có hại cho dân thì tránh” . Xây dựng một Nhà nước vì dân là một
nhà nước khơng đặc quyền, đặc lợi, phục vụ nhân dân tận tụy, một nhà nước
trong sạch, chí cơng vơ tư. Bác đã dạy rằng: Phải xây dựng một nền chính trị
liêm khiết, kiên quyết đấu tranh với ba thứ giặc nội xâm là: tham ơ, lãng phí,
quan liêu. Một mặt Nhà nước phải thực hành dân chủ rộng rãi với nhân dân
mặt khác phải thực hành chuyên chính với mọi hành động xâm hại đến lợi
ích của Tổ quốc, quyền làm chủ của nhân dân. Trong hàng loạt vấn đề được
đề cập, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh vấn đề bản chất xã hội chủ
nghĩa, tính dân chủ, tính nhân dân, tính nhân đạo của Nhà nước mà nhân dân
ta xây dựng.
Nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền là khẳng định cội
nguồn quyền lực nhà nước là ở nhân dân, trong đó nhà nước là của nhân dân
chứ không phải nhân dân là của nhà nước; Nhà nước pháp quyền đề cao tính
16


hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Nhà nước chỉ
được làm những điều pháp luật cho phép, còn nhân dân được làm tất cả
những điều pháp luật không cấm. Một mặt, pháp luật bảo đảm cho sự phát
triển tự do tối đa của nhân dân, mặt khác pháp luật xây dựng và duy trì xã hội
trật tự, ổn định, trong đó khơng chỉ mỗi công dân, mỗi cá nhân, mà bản thân
nhà nước và những người đứng đầu chính quyền cũng phải tơn trọng pháp
luật . Hai mặt dân chủ và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền gắn bó hữu
cơ, làm tiền đề tồn tại cho nhau và tạo nên bản chất của Nhà nước pháp quyền
trong lịch sử nhân loại; Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhà nước bảo đảm
quyền tự do dân chủ cho công dân nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự
do dân chủ để để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân” .
Như vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước pháp quyền,
mang đậm tính dân tộc và nhân đạo; xác định mục tiêu cao nhất là vì con

người; mọi quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà
nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thơng qua các cơ quan nhà nước do
mình trực tiếp bầu ra; được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp
luật và thể hiện địa vị tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã
hội. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước mà ở đó
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thống nhất và có sự phân cơng,
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
đó; do một đảng duy nhất lãnh đạo – Đảng Cộng sản Việt Nam.

17


Chương 2
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG VỀ NHÀ NƯỚC TRONG
LỊCH SỬ VĂN MINH NHÂN LOẠI
2.1. Sự phát triển tư tưởng về nhà nước ở các nước phương Tây
Nhà nước pháp quyền gắn liền giữa tổ chức quyền lực và pháp luật,
nhưng khơng phải bất cứ nhà nước nào có hiến pháp, pháp luật và các văn bản
quy phạm pháp luật đều được coi là nhà nước pháp quyền. Trên thực tế, để
xác định một nhà nước pháp quyền, cần dựa vào 4 yếu tố.
Một là, phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước
phải do pháp luật quy định. Pháp luật là hệ thống những qui tắc xử sự mang
tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thứa nhận và đảm bảo thực
hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ
xã hội pháp triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Trong nhà nước pháp
quyền, pháp luật có vai trị, vị trí tối cao. Mọi phương thức tổ chức bộ máy
nhà nước, phân bổ quyền lực, cách thức vận hành bộ máy nhà nước đều phải
được quy định rõ ràng, thống nhất trong hiến pháp và pháp luật.
Dù theo bất kỳ hình thức nào: Chính thể qn chủ hay chính thể cộng
hịa thì hình thức tổ chức đó đều được thể hiện trong hiến pháp và pháp luật.

Pháp luật tạo nên sự hệ thống, thống nhất và xác lập trật tự cho mọi hoạt động
của một nhà nước pháp quyền trên mọi vấn đề từ giành, giữ đến thực thi
quyền lực nhà nước. Trong hiến pháp và pháp luật quy định rõ từng vị trí, vai
trị, chức năng nhiệm vụ của từng bộ phân cấu tahnhf nhà nước và mối quna
hệ giữa các bộ phận đó với nhau.
Hai là, nhà nước và cơng dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật
(đảng phái, tổ chức, tôn giáo... phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn
khổ của pháp luật). Trong nhà nước pháp quyền, Hiến pháp và pháp luật có vị
trí, vai trị hàng đầu trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Nói cách
khác, Hiến pháp và pháp luật có vai trị thống trị trong xã hội. Sự thống trị đó
địi hỏi nhà nước phải xuất phát từ những yêu cầu khách quan của xã hội mà
18



×