Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận cao học, đảng lãnh đạo lĩnh vực quốc phòng và sự vận dụng của đảng bộ thành phố cần thơ trong công tác quốc phòng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.99 KB, 34 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ QUẢN LÝ XÃ HỘI
Đề tài:
VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH NGHỆ AN ĐỐI VỚI
LĨNH VỰC QUỐC PHÒNG, AN NINH HIỆN NAY


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
CHƯƠNG I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO LĨNH VỰC
QUỐC PHÒNG, AN NINH – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN.........................3
1.1. Một số vấn đề lý luận.................................................................................3
1.1.1. Khái niệm Quốc phịng, An ninh.............................................................3
1.1.2. Vị trí, vai trị của Quốc phòng.................................................................3
1.1.3. Sự lãnh đạo tất yếu của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng...................5
1.2. Nội dung Đảng lãnh đạo quốc phòng.........................................................6
1.3. Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng..................10
1.4. Phương thức lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực quốc phịng...................12
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CƠNG TÁC LÃNH ĐẠO LĨNH VỰC QUỐC
PHÒNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY................................................................................................................15
2.1. Giới thiệu chung về tỉnh Nghệ An...........................................................15
2.2. Thực trạng công tác lãnh đạo lĩnh vực quốc phòng của đảng bộ tỉnh Nghệ
An....................................................................................................................16
2.3. Một số giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh Nghệ An đối
với lĩnh vực quốc phòng..................................................................................24
KẾT LUẬN....................................................................................................30
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................32



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dựng nước phải đi đơi với giữ nước. Đó lả quy luật tồn tại và phát triển
của dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm lịch sử. Khi có giặc ngoại xâm
cũng như đất nước hịa bình thịnh trị, ơng cha ta ln chăm lo kế sách lâu dài
lâu, “sâu rễ bền gốc” luyện binh lúc thư nhàn: “thái bình nên gắng sức, non
nước ấy ngàn thu”. Hay quân ở trong dân “ngụ binh ư nông” sẵn sàng làm
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta được phát huy cao độ trong chiến lược phát
triển đất nước: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Sự gắn bó có tính lịch sử,
biện chứng tất yếu này khẳng định quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta
luôn luôn gắn liền hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Ngày nay, khi đất nước đã được độc lập hòa nhập vào xu thế chung của
thế giới hịa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển. Bên cạnh những thời cơ thì
mỗi quốc gia ln phải đối mặt với những biến động trong khu vực và quốc tế
ngày càng phức tạp, sự phát triển mạnh mẽ của khoa hoc- kĩ thuật và cơng
nghệ tiên tiến làm cho vũ khí, trang bị quân sự liên tục đổi mới và phát triển
làm thay đổi tổ chức quân đội các nước, thay đổi phương thức tiến hành chiến
tranh, phương thức bảo vệ Tổ quốc và nghệ thuật quân sự.
Yêu cầu mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc địi hỏi mỗi quốc gia phải
khơng ngừng giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các
lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực quốc phòng, an ninh, nhằm nâng
cao hiệu quả lãnh đạo trong việc thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội, ổn
định chính trị, trật tự an tồn xã hội của đất nước nói chung và từng khu vực,
tỉnh, thành phố nói riêng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra những nội dung,
quan điểm và giải pháp nào nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo trong lĩnh vực

1



quốc phòng và sự vận dụng của Đảng bộ Tỉnh Nghệ An trong việc thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng hiện nay. Đó là lý do em chọn đề tài “Vai trò lãnh đạo
của Đảng bộ tỉnh Nghệ An đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh hiện nay”
làm đề tài tiểu luận cho mơn học hệ thống chính trị quản lý xã hội của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích.
- Nghiên cứu nội dung, quan điểm của Đảng lãnh đạo lĩnh vực quốc
phòng.
- Làm rõ quá trình vận dụng quan điểm của Đảng trong việc phát huy
vai trò lãnh đạo quốc phòng của Đảng bộ tỉnh Nghệ An.
2.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu, tìm hiểu nội dung Đảng lãnh đạo cơng tác quốc phịng,
an ninh.
- Nghiên cứu quá trình vận dụng của Đảng bộ Tỉnh Nghệ An trong
cơng tác lãnh đạo quốc phịng, an ninh.
3. Đối tượng và phạm vị nghiên cứu
Tiểu luận chủ yếu nghiên cứu nội dung vai trò lãnh đạo của Đảng bộ
Tỉnh Nghệ An trong cơng tác quốc phịng, an ninh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương
pháp logic, đồng thời sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng
hợp, so sánh để nghiên cứu.
5. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, tiểu luận có kết cấu
gồm 3 chương và tiết.

2



NỘI DUNG
CHƯƠNG I
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO LĨNH VỰC QUỐC
PHÒNG, AN NINH – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Một số vấn đề lý luận
1.1.1. Khái niệm Quốc phòng, An ninh
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Quốc phịng 2018 (Có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/2019) thì khái niệm quốc phịng được quy định cụ thể
như sau:
- Quốc phịng là cơng cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của tồn
dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân
làm nòng cốt.
- Quốc phòng là tổng thể các hoạt động đối nội và đối ngoại về quân
sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học của Nhà nước và nhân dân để phòng
thủ đất nước, tạo nên sức mạnh tồn diện, cân đối. Trong cơng tác quốc
phịng, sức mạnh quân sự là đặc trưng nhằm giữ đươc hòa bình, đẩy lùi, ngăn
chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến thắng
xâm lược dưới mọi hình thức và quy mơ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và nhân dân.
1.1.2. Vị trí, vai trò của Quốc phòng
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là vấn đề xuyên suốt quyết định đến sự tồn
tại và phát triển của của mỗi một quốc gia. Thực tiễn lịch sử khẳng định
rằng :một chế độ xã hội (khi còn giai cấp và đấu tranh giai cấp) tất yểu phải
có khả năng, có sức mạnh để bảo vệ mình.Tầm quan trọng của quốc phịng
ln ln được các nhà tiền bối, các nhà khoa hoc, nhà quân sự nghiên cứu

3



và phát triển.Khái quát kinh nghiệm lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng
định: “....bạo lực còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã
hội mới”. Hai ông là người đầu tiên đưa ra luận điểm nổi tiếng, giai cấp
công nhân phải vũ trang bảo vệ thành quả cách mạng của mình,những
người vơ sản phải tổ chức chặt chẽ và nghiêm túc cơng cuộc bảo vệ chính
quyền bằng vũ trang tồn dân, đó là u cầu tồn tại và phát triển của cách
mạng vô sản.
Kế thừa quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin là người đầu tiên đã trình
bày một cách hệ thống học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bao hàm
những vấn đề cốt lõi nhất về mục tiêu, nhiệm vụ, phương thức bảo vệ Tổ quốc.
Lênin cho rằng: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ”.
Tiếp thu những quan điểm, kinh nghiệm của các vị tiền bối đi trước, Hồ
Chí Minh vĩ lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, người là một nhà quân sự thiên tài đã
chỉ rõ: “Trong đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc,
cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng”. Đó là tất
yếu khách quan. Người cũng nhắc nhở: “Dù nhân dân đã nắm chính quyền,
nhưng giai cấp đấu tranh trong nước và mưu mơ đế quốc xâm lược vẫn cịn”.
Ngày nay, khi nước nhà được độc lập nhưng những quan điểm, tư
tưởng quý báu của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc
phịng ln được Đảng kế thừa, phát triển phù hợp với tình hình, nhiệm vụ
mới và coi đó là một nội dung lãnh đạo của Đảng, một nhiệm vụ quan trọng
của cách mạng Việt Nam.Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: Phát huy mạnh mẽ sức
mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu,
nhiệm vụ quốc phịng-an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN); giữ
vững ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất
bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng


4


ứng phó với các mối đe doạ an ninh phi truyền thống mang tính tồn cầu,
khơng bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
1.1.3. Sự lãnh đạo tất yếu của Đảng đối với lĩnh vực quốc phịng.
Sau thắng lợi hồn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cả nước bước
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong tình hình mới, Đảng ta xác
định xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta. Chiến thắng
30-4-1975, cả nước độc lập, thống nhất, cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội, với
những thuận lợi cơ bản, đồng thời cũng có những khó khăn, thử thách mới.
Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh bị tàn phá nặng nề, hậu quả
nghiêm trọng, các thế lực phản động trong nước và quốc tế chưa từ bỏ âm
mưu và hành động chống phá cách mạng nước ta, tình tình thế giới biến động
phức tạp. Cách mạng khoa học và cơng nghệ phát triển mãnh mẽ, điều đó dẫn
đến sự biến đổi to lớn trong lực lượng quân sự, làm thay đổi sâu sắc vũ khí,
trang bị, tổ chức lực lượng và nghệ thuật quân sự của nhiều nước trên thế
giới.Điều đó tạo điều kiện cho các nước có khả năng tăng cường sức mạnh
quân sự để bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời cũng tạo ra những điều kiện làm cho
các nước bị phụ thuộc vào nhau hơn, nhất là các nước có trình độ khoa học,
cơng nghệ kém phát triển.
Tồn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia. Chủ nghĩa tự bản, trước hết là các nước tư bản lớn,
đứng đầu là Mỹ, muốn thơng qua tồn cầu hóa để thực hiện chiến lược của
mình, làm cho các nước khác phụ thuộc vào kinh tế dẫn đến phụ thuộc vào
chính trị, trong đó có Việt Nam.Cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp sẽ
tiếp tục diễn ra gay gắt và quyết liệt, đe dọa độc lập, chủ quyền và an ninh
nhiều quốc gia dân tộc


5


Bối cảnh chung trên thế giới và khu vực Đông Nam Á nói riêng trong
những năm trước mắt cho thấy, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới,
nhưng xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, khủng
bố tiếp tuc diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp.Đại hội Đảng
(1-1994) xác định bốn nguy cơ, thách thức đối với nước ta đến nay vẫn tồn
tại và có sự phát triển mới, đan xen lẫn nhau, diễn biến phức tạp: “Các thế lực
thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diến biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ,
sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ
chính trị ở nước ta”. Gần đây, tình hình Biển Đơng xuất hiện nhiều vấn đề
phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến nhiều nước, đe dọa đến chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán của nước ta. Hoạt động thăm dị và khai thác dầu
khí, một trong những hoạt động kinh tế mũi nhọn trong vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa 200 hải lý, thuộc chủ quyền nước ta, được luật pháp quốc tế
thừa nhận, cũng có lúc bị nước ngồi ngăn chặn, xâm hại. Vấn đề đáng quan
ngại là, lợi dụng những vấn đề mới phát sinh ở Biển Đông, các lực lượng cơ
hội, phản động ở trong và ngoài nước ra sức xuyên tạc, nói xấu, phá hoại
cơng cuộc bảo vệ, xây dựng đất nước và đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà
nước ta, những yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, mâu thuẫn trong nội
bộ nhân dân diễn ra ở một số nơi nếu không được khắc phục kịp thời sẽ là
nguy cơ tiềm ẩn đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi Đảng phải tranh
thủ cơ hội, vượt qua thách thức, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tạo ra
những tiền đề cần thiết để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
1.2. Nội dung Đảng lãnh đạo quốc phòng.
1.2.1. Xác định đường lối, nhiệm vụ quốc phòng
Xác định đường lối, nhiệm vụ quốc phòng là bước tiền đề dẫn dắt hoạt

động quốc phòng theo đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta, là cơ sở phân biệt sự khác nhau giữa ta với các nước anh em.

6


Trong mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng đã kịp thời nắm bắt và phân tích khoa học
tình hình thế giới và trong nước để đề ra đường lối, nhiệm vụ quốc phòng-an
ninh phù hợp với thực tiễn đất nước.
Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của đất nước khi bước vào thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV của Đảng (12-1976) đã xác định đường lối chung cách mạng xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta là: “Nắm vững chun chính vơ sản, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thường xun củng cố
quốc phịng, giữa gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội
Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV xác
định: “Xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất nước”.
Bước vào thời kì đổi mới, giai đoạn cách mạng mới, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng cũng chỉ rõ: “Trong giai đoạn mới, chúng ta
phải thấu suốt và thực hiện đường lối quốc phịng tồn dân, tồn diện, dựa
vào sức mình là chính; gắn kết kinh tế với quốc phịng, quốc phòng với kinh
tế, gắn quốc phòng với an ninh, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực
lượng vũ trang nhân dân. Đáp ứng yêu cầu cách mạng trong tình hình mới,
Hội nghị lần thứ 8 (khóa IX) ban hành Nghị quyết về "Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới”. Đây là Nghị quyết chuyên đề về nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc, thể hiện rõ nét sự phát triển tư duy mới của Đảng về quốc phòng và
an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới. Trên cơ sở
đánh giá và dự báo tình hình trong nước và thế giới, Nghị quyết Trung ương 8
khóa IX tiếp tục khẳng định những quan điểm nhất quán, tư duy mới của
Đảng ta về mục tiêu, nhiệm vụ, sức mạnh và lực lượng của sự nghiệp bảo vệ

Tổ quốc hiện nay.
Đại hội XII của Đảng đã xác định: Việt Nam thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát triển. Nguyên
tắc trên tiếp tục được cụ thể hoá trong từng lĩnh vực. Trong lĩnh vực quốc

7


phịng - an ninh, ngày 25-11-2019, Bộ Quốc phịng cơng bố Sách trắng Quốc
phòng Việt Nam năm 2019, vơi những điểm mới từ chính sách "ba khơng"
trước đây, nay có thể được hiểu một cách đầy đủ và chính xác hơn thành "bốn
không" là: Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không
liên kết với nước này để chống nước kia; khơng cho nước ngồi đặt căn cứ
quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử
dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Ngồi ra Việt
Nam sẽ tăng cường hợp tác quốc phịng với các nước để nâng cao khả năng
bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung.
Quán triệt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa do Đại hội XII
của Đảng xác định là bảo vệ vũng chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị,
trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe
dọa an ninh phi truyền thống mang tính tồn cầu, khơng để bị động, bất ngờ
trong mọi tình huống. Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực quốc phòng, an ninh.
Để thực hiện được mục tiêu của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới, cần thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc,
trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc

phịng, an ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động
trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới như: chiến tranh
bằng vũ khí cơng nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời, “diễn
biến hịa bình”, bạo loạn chính trị, khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội
phạm xuyên quốc gia.

8


Tăng cường sức mạnh quốc phòng cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng
khu vực phòng thủ, xây dựng thế trận lòng dân vũng chắc. Kết hợp chặt chẽ
kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế, chú trọng
vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo.
Xây dựng Quân đội nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Hoàn thiện các chiến lược quốc phịng kết hợp với an ninh trong điều kiện
mới, hồn thiện hệ thống các văn bản pháp luật, các quy chế phối hợp quân
đội, công an và các tổ chức chính trị xã hội
1.2.2. Lãnh đạo xây dựng lực lượng quốc phòng
Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng quốc phòng đảm bảo trên các mặt:
xây dựng lực lượng chính trị tồn dân; xây dựng lực lượng quốc phịng
thường trực; xây dựng tiềm lực quốc phòng để huy động để tạo thành sức
mạnh vật chất phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, đảm bảo nguồn dự trữ sức
người, sức của. Ngoài nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng qn đơi, Đảng cịn phải
lãnh đạo lực lượng dân quân tự vệ đều khắp ở tất cả các địa phương, xây dựng
lực lượng dự bị động viên, không ngừng nâng cao chất lượng của quân đôi
phục vụ cho nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng lãnh đạo xây dựng tiềm lực quốc phòng đảm bảo sức mạnh vật
chất và tinh thần
Trong thời bình, tiềm lực quốc phịng được thể hiện một phần ở lực
lượng thường trực, trực tiếp và thường xuyên làm nhiệm vụ quân sự; còn một

phần ở dạng tiềm tàng, nằm trong moi đời sống xã hội, mọi hoạt động của đất
nước để xây dựng tiềm lực quốc phòng được tạo ra trên các lĩnh vực chính trịtinh thần; xây dựng tiềm lực kinh tế; xây dựng tiềm lực khoa học- công nghê;
xây dựng tiềm lực quân sự nhằm nâng cao sức mạnh tổng hợp, sức mạnh
chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tô quốc trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội.

9


1.2.3. Lãnh đạo toàn dân tham gia bảo vệ quốc phòng, an ninh
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, của dân, do dân và
vì dân. Vì thế, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn thể
nhân dân. Nghị quyết 02 của Bộ chính trị (7-1987) xác định: Phát huy sức
mạnh của cả nước, toàn dân đánh thắng kiểu chiến tranh xâm lược phá hoại
nhiều mặt của kẻ thù.Trong thời đại ngày nay, nước ta mở cửa hôi nhập kinh
tế quốc tế, xu thế tồn cầu hóa, hợp tác giữa các quốc gia càng diễn biến phức
tạp. Vì vậy, mà Đảng phải thường xuyên truyên truyền đường lối, chủ trương,
quan điểm về quốc phòng, an ninh đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số
nhằm nâng cao trình độ nhận thức của tồn dân về vị trí, tầm quan trọng của quốc
phòng, cánh giác trước âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, quyết tâm bảo vệ
thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước. Hoạt động đối ngoại có vai trò
quan trọng, mỗi sự kiện, quan hệ quốc tế của các quốc gia đều có ảnh hưởng đến
nước ta. Vì vậy mà Đảng phải chủ động nắm bắt, phân tích, nhận định tình hình
để có biến pháp đối phó kịp thời thông qua các hoạt động ngoại giao, mở rộng
quan hệ với các quốc gia trên các lĩnh vực đặc biệt là kinh tế, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ.
1.2.4. Tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng quốc phòng.
Tổng kết kinh nghiệm, rút ra bài hoc kinh nghiêm trong quá trình lãnh
đạo là một nội dung quan trọng khơng chỉ trong lĩnh vực quốc phòng mà trên
tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, là trách nhiệm của toàn Đảng từ Trung

ương đến cơ sở.Qua đó, Đảng phân tích, nhận định lại những chủ trương, biện
pháp đã triển khai và kết quả đạt được để từ đó có sự đánh giá một cách khách
quan, tổng kết lai những mặt ưu điểm và những hạn chế còn tồn tại, quy rõ
trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức, cơ quan, tìm ra những vướng mắc, đề
ra phương hướng, biện pháp giải quyết phù hợp với thực tiễn đặt ra nâng cao
năng lực, uy tín của Đảng được dân tin, dân u, dân ủng hơ hồn thành sứa
mệnh lịch sử được giao.

10


1.3. Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng.
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống
nhất của Nhà nước là yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh chiến đấu của qn đội
ta, đó cịn là vấn đề đảm bảo cho qn đội ln là lực lượng chính trị trung
thành, lực lượng chiến đấu sắc bén bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và công cuộc lao động hịa bình của nhân dân. Chiến dịch mùa Xuân
1975 đại thắng , đất nước thống nhất cùng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN, Đảng ta luôn khẳng định nhất quán những nguyên tắc chiến lược:
Tăng cường quốc phịng, giữ vững an ninh quốc gia và tồn vẹn lãnh thổ là
nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng và Nhà nước, của toàn dân và
toàn quân ta; Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lĩnh vực
quốc phòng, an ninh và lực lượng nhân dân.
Trong thời kì mới,xu thế tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra
nhiều thời cơ nhưng cũng khơng ít thách thức dự báo những nguy cơ liên
quan đến quốc phòng bảo vệ Tổ quốc XHCN, đáng chú ý là sự điều chỉnh
chiến lược của các thế lực thù địch cho thấy “Diễn biến hịa bình” là vấn đề
chủ yếu nổi lên trong chiến lược chống phá độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội(CNXH) ở Việt Nam. Đồng thời những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ,
về tài nguyên và các vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia dân tộc tiếp tục

diễn ra gay gắt và phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang và
chiến tranh cục bộ gây phương hại đến lợi ích của dân tộc Việt Nam. Do đó,
nhiệm vụ quốc phịng bảo vệ Tổ quốc XHCN của chúng ta trong thời kì mới cần
tập trung đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hịa bình” của
các thế lực thù địch đồng thời chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu
những yếu tố bất lợi có thể dẫn đến xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ và sẵn
sàng đối phó thắng lợi với chiến tranh xâm lược kiểu mới của địch.
Tình hình và nhiệm vụ mới hiện nay, Đảng phải khơng ngường nâng
cao vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự

11


nghiệp quốc phịng. Đó là nhân tố chủ yếu quyết định trong cơ chế vận hành
của nền quốc phịng tồn dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Có thực hiện
tốt nguyên tắc chiến lược đó mới bảo đảm cho đất nước ln chủ động về
chiến lược trong mọi tình huống và phát triển bền vững.Đại hội XI của Đảng
đã chỉ rõ “Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng
đối với sự nghiệp quốc phòng- an ninh.
1.4. Phương thức lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực quốc phòng
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống
nhất của Nhà nước là yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh chiến đấu của qn đội
ta, đó cịn là vấn đề đảm bảo cho quân đội luôn là lực lượng chính trị trung
thành, lực lượng chiến đấu sắc bén bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và cuộc sống hịa bình của nhân dân. Quốc phịng và an ninh là hai lĩnh
vực, hai mặt công tác đặc thù. Mỗi lĩnh vực có tính độc lập tương đối, có mục
đích, u cầu, nội dung, phương thức hoạt động, xây dựng và đối tượng đấu
tranh cụ thể, nhưng hai lĩnh vực có mối liên hệ tương tác, gắn kết chặt chẽ với
nhau và thống nhất ở mục tiêu chung: bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, trước hết

phải kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối
với Quân đội nhân dân Việt Nam..Đảng Cộng sản Việt Nam không những đề
ra đường lối quân sự, xác định phương hướng phát triển tiềm lực quân sự,
quốc phòng của đất nước, xác định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và các chủ
trương, giải pháp nâng cao sức chiến đấu của quân đội, Đảng còn lãnh đạo
việc tổ chức hiện thực hóa quan điểm, đường lối vào xây dựng quân đội cách
mạng, bảo đảm cho Đảng nắm chắc quân đội trong mọi tình huống.
Hai là, nhà nước quản lý quân đội trên cơ sở thể chế hố đường lối,
nghị quyết về qn sự, quốc phịng bảo vệ Tổ quốc. Muốn quản lý, tổ chức và
xây dựng qn đội có hiệu lực, hiệu quả thì phải có hệ thống pháp luật phù
hợp với thực tiễn. Bên cạnh đó cần cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy

12


hành chính của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước đối với quân đội, xác định rõ nguyên tắc làm việc và
quy chế phối hợp vận hành của bộ máy lãnh đạo, quản lý, chỉ huy ở các đơn
vị quân đội
Ba là, tăng cường sự phối hợp giữa quốc phòng và an ninh quan hệ chặt
chẽ với nhau có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng quân đội theo hướng
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. An ninh và quốc phòng là hai
thành tố biểu trưng cho sức mạnh của Tổ quốc XHCN, nhằm mục tiêu đánh
thắng thù trong, giặc ngồi, giữ vững ổn định chính trị, mơi trường hồ bình
để xây dựng và phát triển đất nước. Kết hợp an ninh với quốc phòng là yêu
cầu khách quan và trở thành quy luật tất yếu đối với công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới, khu vực
cịn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; nước ta tiếp tục hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế ngày càng sâu,
rộng; các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hồ

bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực
hịng xố bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ XHCN
của nhân dân ta.
Vì vậy, kết hợp an ninh với quốc phòng nhằm phát huy tối đa sức mạnh
tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược, quyết định
tới thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc về
mặt chủ quyền, lãnh thổ và bảo vệ chế độ XHCN luôn gắn chặt với nhau, tác
động, bổ sung cho nhau trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và được
thể hiện một cách đầy đủ, sâu sắc ở mối quan hệ giữa an ninh với quốc phòng.
Đây là hai thành tố trọng yếu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, biểu trưng
sức mạnh của Tổ quốc Việt Nam XHCN, tuy có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, nhưng an ninh và quốc phịng vẫn là hai thực thể khác nhau, ln tồn
tại, phát triển độc lập tương đối với nhau. Trước đây, trong chiến tranh giải

13


phóng, các thế lực xâm lược, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc bao giờ cũng là nhà nước ngoại bang, nên đối tượng
đấu tranh chủ yếu của nhân dân ta lúc đó là đội quân xâm lược nước ngoài.
Tất nhiên, để thực hiện hành động gây hấn hoặc xâm lược, chúng cũng phải
thu thập thông tin về ta từ nhiều nguồn; trong đó, có các lực lượng tay sai làm
nội ứng ở bên trong, nhưng lực lượng này thường chỉ đóng vai trò hỗ trợ thứ
yếu, còn chủ yếu vẫn là đội quân xâm lược. Ngày nay, trước bối cảnh tình
hình thế giới, khu vực và trong nước còn nhiều diễn biến phức tạp, mặc dù
các thế lực bên ngoài vẫn giữ vai trị quan trọng trong các cuộc đảo lộn chính
trị ở các nước, nhưng ở những thời điểm, địa bàn và thời cơ nhất định, các lực
lượng chống đối bên trong cũng rất nguy hiểm và là lực lượng trực tiếp tạo ra
các cuộc bạo loạn chính trị, lật đổ chế độ. Vì thế, sự kết hợp giữa an ninh và
quốc phịng càng có ý nghĩa rất quan trọng.

Tại Đại hội XII, Đảng ta đã xác định: Bố trí thế trận quốc phịng, an
ninh phù hợp với tình hình mới. Kết hợp quốc phòng với an ninh. Kết hợp
chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế-xã hội trên từng địa bàn
lãnh thổ. Đây là những chủ trương rất đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đòi hỏi
của thực tiễn. Tuy nhiên, do đối tượng đấu tranh khác nhau, việc sử dụng
chiến thuật, nghệ thuật của quốc phòng và an ninh trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ cũng có nhiều điểm khác nhau.

14


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO LĨNH VỰC QUỐC PHÒNG
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Giới thiệu chung về tỉnh Nghệ An
Tỉnh Nghệ An nằm ở trung tâm khu vực Bắc Trung Bộ, đất rộng, người
đơng. Với diện tích 16.490,25 km², lớn nhất cả nước; dân số hơn 3,037 triệu
người (tính đến năm 2014), đứng thứ tư cả nước; là quê hương của Chủ tịch
Hồ Chí Minh; hội tụ đầy đủ các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường
hàng không, đường biển, đường thủy nội địa; điều kiện tự nhiên phong phú,
đa dạng như một Việt Nam thu nhỏ...với vị trí địa lý nằm, giáp tỉnh Thanh
Hóa ở phía bắc, tỉnh Hà Tĩnh ở phía nam, nước Cộng hịa dân chủ nhân dân
Lào ở phía tây với 419 km đường biên giới trên bộ; bờ biển ở phía đơng dài
82 km. Vị trí này tạo cho Nghệ An có vai trị quan trọng trong mối giao lưu
kinh tế - xã hội Bắc - Nam, xây dựng và phát triển kinh tế biển, kinh tế đối
ngoại và mở rộng hợp tác quốc tế. Nghệ An nằm trên các tuyến đường quốc
lộ Bắc - Nam (tuyến quốc lộ 1A dài 91 km đi qua các huyện Quỳnh Lưu,
Diễn Châu, Nghi Lộc, Hưng Nguyên và thành phố Vinh; đường Hồ Chí
Minh chạy song song với quốc lộ 1A dài 132 km đi qua các huyện Quỳnh
Lưu, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Anh Sơn, Thanh Chương và thị xã Thái Hịa; quốc

lộ 15 ở phía tây dài 149 km chạy xuyên suốt tỉnh); các tuyến quốc lộ chạy
từ phía đơng lên phía tây, nối với nước bạn Lào thông qua các cửa khẩu
(quốc lộ 7 dài 225 km, quốc lộ 46 dài 90 km, quốc lộ 48 dài trên 160 km).
Tỉnh có tuyến đường sắt Bắc -Nam dài 94 km chạy qua.
Tỉnh Nghệ An có 1 thành phố loại 1 (TP. Vinh), 2 thị xã (Cửa Lò,
Thái Hòa) và 17 huyện: 10 huyện miền núi (Thanh Chương, Kỳ Sơn, Tương
Dương, Con Cuông, Anh Sơn, Tân Kỳ, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp,

15


Nghĩa Đàn) và 7 huyện đồng bằng (Đô Lương, Nam Đàn, Hưng Nguyên,
Nghi Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành).
Nghệ An nằm trong hành lang kinh tế Đông - Tây nối liền Mianma Thái Lan - Lào - Việt Nam - biển Đơng theo đường 7 đến cảng Cửa Lị. Nằm
trên các tuyến du lịch quốc gia và quốc tế (tuyến du lịch xuyên Việt; tuyến
du lịch Vinh - Cánh đồng Chum – Luôngprabang - Viêng Chăn - Băng Cốc
và ngược lại qua Quốc lộ 7 và đường 8).
Với vị trí như vậy, Nghệ An đóng vai trị quan trọng trong giao lưu
kinh tế, thương mại, du lịch, vận chuyển hàng hóa với cả nước và các nước
khác trong khu vực, nhất là các nước Lào, Thái Lan và Trung Quốc, là điều
kiện thuận lợi để kêu gọi đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
2.2. Thực trạng công tác lãnh đạo lĩnh vực quốc phòng của đảng bộ
tỉnh Nghệ An
Nghệ An là tỉnh có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng - an ninh của cả nước. Nhận rõ vấn đề đó, Tỉnh ủy, Ủy
ban nhân dân Tỉnh ln coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, tạo nền tảng vững chắc để giữ vững ổn định
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Tuy vậy, chất lượng công tác quân sự,
quốc phòng ở một số địa phương, ban, ngành trong Tỉnh vẫn chưa tương xứng
với yêu cầu ngày càng cao của tình hình nhiệm vụ; đời sống của nhân dân,
nhất là ở khu vực biên giới, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, ven biển cịn nhiều

khó khăn; thời tiết khắc nghiệt, diễn biến thất thường; các thế lực thù địch lợi
dụng các vấn đề về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo,… tăng cường hoạt động
chống phá với tính chất ngày càng tinh vi, thâm độc. Thực tiễn đó địi hỏi
Đảng bộ Tỉnh phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt nhiệm
vụ quân sự, quốc phòng địa phương, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật
tự, an tồn xã hội, tạo mơi trường thuận lợi để Tỉnh phát triển nhanh và bền
vững trên mọi lĩnh vực.

16


Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng
cao nhận thức cho nhân dân, cán bộ, đảng viên về mục tiêu, quan điểm,
phương châm bảo vệ Tổ quốc của Đảng; trọng tâm là Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng, “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Nghị quyết 28NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc, Nghị quyết 26-NQ/TW của
Bộ Chính trị về “Phương hướng, nhiệm vụ phát triển tỉnh Nghệ An đến năm
2020”, Nghị quyết Đại hội của Đảng bộ tỉnh Nghệ An nhiệm kỳ 2015 - 2020;
Nghị quyết 04-NQ/TU của Tỉnh ủy về “Lãnh đạo cơng tác quốc phịng - an
ninh trong tình hình mới”, v.v. Đồng thời, tập trung quán triệt các chương
trình, đề án của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh về tăng cường quốc phòng, an
ninh, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; về xây dựng khu vực phòng thủ vững
chắc; về hợp tác giúp đỡ địa phương có chung đường biên giới với nước bạn
Lào, v.v. Trên cơ sở đó, các cấp ủy, tổ chức đảng ra nghị quyết, xây dựng
chương trình, kế hoạch thực hiện; gắn tuyên truyền, giáo dục, thống nhất nhận
thức, đề cao trách nhiệm với phát động phong trào quần chúng, động viên mọi
nguồn lực cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng nền quốc phịng tồn
dân, thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.
2.2.1. Những kết quả đạt được
Xây dựng nền quốc phịng tồn dân vững mạnh là quan điểm cơ bản,

xuyên suốt của Đảng ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN. Nhưng dưới
sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Hội đồng giáo dục quốc phòng-an ninh
Trung ương, Bộ quốc phòng và Quân khu, Đảng bộ tỉnh nghệ Nghệ An triển
khai thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và đã đạt được những kết quả như sau:
Một là, tăng cường giáo dục và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an
ninh cho các đối tượng theo qui định, có nhiều đổi mới và sáng tạo, góp phần
nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các ngành, các cấp và các tầng lớp

17


nhân dân, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh tại địa
phương cụ thể:
Ủy ban nhân dân tỉnh đã tổ chức quán triệt và triển khai Chỉ thị số 62 –
CT/TW ngày 12 tháng 02 năm 2001 của Bộ Chính trị (khóa VIII); Chỉ thị số
12 – CT/TW ngày 03 tháng 5 năm 2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác giáo dục quốc phịng-an ninh trong tình
hình mới. Thực hiện Nghị định số 15/2001/NĐ-CP ngày 01 tháng 5 năm
2001; Nghị định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2007 của Chính
phủ về giáo dục quốc phịng – an ninh; kế hoạch hướng dẫn của Hội đồng
giáo dục quốc phòng-an ninh Trung ương, Quân khu đến cán bộ chủ chốt các
cấp, các ngành nhằm tạo sự thống nhất trong tổ chức thực hiện. Trên cơ sở đó,
Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Hội đồng giáo dục quốc
phòng-an ninh tỉnh đã xây dựng và ban hành 36 văn bản lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện.
Từ đó cơng tác GDQP của tỉnh từng bước đi vào nề nếp, đúng qui định,
các đại phương tổ chức quán triệt, thực hiện nghiêm túc, đồng bộ đạt kết quả
cao. Cơ quan quân sự các cấp luôn phát huy tốt vai trị làm tham mưu cho cấp
ủy, chính quyền địa phương chỉ đạo kịp thời, đồng thời chủ động phối hợp
chặt chẽ với các cơ quan, ban ngành có liên quan thực hiện tốt công tác bồi

dưỡng, giáo dục cho các đối tượng; nhất là mở rộng thêm nhiều đối tượng
như Giảng viên các trường Đại học, các nhà Khoa học, phóng viên Báo đài,
Văn nghệ sỹ, Giáo viên, Y tế, Điện lực, doanh nghiệp tư nhân kể cả đồng bào
có đạo trong các tơn giáo và tồn dân.
Hai là, cơng tác Giáo dục quốc phịng cho lực lượng Dân quân tự vệ
Dự bị động viên.
Thực hiện Chỉ thị số 62-CT/TW, Chỉ thị số 12-CT/TW của Bộ Chính
trị về cơng tác giáo dục quốc phịng – an ninh; Đảng ủy – Bộ chỉ huy quân sự
TP đã tham mưu cho Thành ủy triển khai thực hiện Kết luận số 41 của Bí thư

18



×