Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

nh giá tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.58 KB, 26 trang )

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
MỤC LỤC
Lời mở đầu……………………………………………………………………… 2
Nội dung………………………………………………………………………… 4
Phần thứ nhất: Cơ sở lý luận về tăng trưởng kinh tế………………………………4
I. Khái niệm và phương pháp đo lường tăng trưởng kinh tế…………… 4
1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế…………………………………………… 4
2. Đo lường tăng trưởng kinh tế………………………………………………4
II. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế………………………………………… 7
III. Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế……………………………………9
1. Nhân tố kinh tế …………………………………………………………….9
2. Nhân tố phi kinh tế……………………………………………………… 10
Phần thứ hai: Thực trạng quá trình tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-
2010………………………………………………………………………………11
I. Những kết quả đạt được trong tăng trưởng kinh tế ……………………………11
1. Tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao và ổn định trong nhiều năm……………11
2. Đóng góp của các ngành vào tăng trưởng kinh tế………………………… 14
3. Hiệu quả đầu tư…………………………………………………………… 15
4. Năng suất lao động có xu hướng tăng cao hơn…………………………… 17
II. Những hạn chế trong thực hiện mục tiêu tăng trưởng……………………… 18
1. Những hạn chế…………………………………………………………… 18
a, Tăng trưởng theo chiều rộng là chủ yếu……………………………………18
b, Hiệu quả kinh tế thấp……………………………………………………….19
c, Tăng trưởng dựa vào khai thác quá mức nguồn vốn tài nguyên……………19
2. Những nguyên nhân chủ yếu……………………………………………… 20
III. Định hướng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới………………22
1. Duy trì tốc độ tăng trưởng cao………………………………………………23
2. Thay đổi tư duy về mô hình tăng trưởng……………………………………23
3. Nâng cao hiệu quả các chỉ tiêu tăng trưởng…………………………………23
4. Phải có tầm nhìn dài hạn trong thực hiện mục tiêu tăng trưởng…………….24
5. Gắn tăng trưởng với việc tạo tác động lan tỏa tích cực đến các đối tượng ảnh


hưởng…………………………………………………………………………… 24
6. Nâng cao năng lực cạnh tranh……………………………………………….25
Phần thứ ba: Kết luận…………………………………………………………… 25
1
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm 1986.
Kể từ đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy
kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện
mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh
được tình trạng nghèo đói, bước đầu xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, đạt
được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng tương đối trong xã
hội.
Bước vào giai đoạn đổi mới kinh tế, từ một vị trí nằm ở trong tốp sau cùng của
kinh tế thế giới, Việt Nam đã đặt ra 3 “cửa ải” lớn cần phải vượt qua, đó là: (1)
Thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế; (2) Đưa nước ta ra khỏi danh sách các nước có
thu nhập thấp nhất thế giới; (3) Phấn đấu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào
năm 2020. Để vượt qua tuần tự các cửa ải, chính phủ Việt Nam đã lựa chọn con
đường phát triển toàn diện. Theo đó: thực hiện việc kết hợp tăng trưởng kinh tế
nhanh với công bằng xã hội ngay từ đầu và trong toàn tiến trình phát triển. Hướng
lựa chọn này nhằm đảm bảo cho chúng ta đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giầu
có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã
hội, sự hài hòa giữa con người với tự nhiên.
Trên thực tế, nhiều văn kiện mang tính thể chế hóa lựa chọn này được ban hành,
trong đó có “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010” thông qua đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX. Chiến lược này đã khẳng định một nội dung mang tính
nguyên tắc trong quá trình phát triể của Việt Nam là: Phát triển kinh tế nhanh, hiệu
quả, bền vững. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ xã hội và bảo vệ

môi trường.
Nằm trong chiến lược phát triển toàn diện, trong giai đoạn 2001 – 2010, mục
tiêu tăng trưởng nhanh được nhấn mạnh và coi là trung tâm của sự ưu tiên. Việc
nhấn mạnh mục tiêu tăng trưởng nhanh trong giai đoạn hiện nay của Chính phủ
Việt Nam là điều hoàn toàn phù hợp với nhu cầu và khả năng thực hiện… Về nhu
cầu, đó là xuất phát từ mục tiêu cải thiện vị trí trong bảng xếp loại về thu nhập
bình quân đầu người, nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi danh sách các nước nghèo
trên thế giới và chiến lược dài hạn là rượt đuổi các nước phát triển. Về mặt khả
năng, nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế của ta còn khá lớn, Việt Nam vẫn còn khá
nhiều tiềm lực về tự nhiên, tài nguyên khoáng sản, nguồn lao động để tạo ra nhiều
lợi thế so sánh trong quá trình thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh. Trước kia
chúng ta không có khả năng tăng trưởng nhanh do còn thiếu khá nhiều yếu tố, xem
như là những rào cản cho thực hiện mục tiêu này như: sự thiếu hụt nguồn vốn cả
về mặt tài chính lẫn nguồn vốn vật chất; sự hạn chế về lực lượng lao động có tay
2
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
nghề cao và công nghệ hiện đại. Hiện nay những rào cản đó đã được tháo gỡ khi
chúng ta đã gia nhập các tổ chức thương mại quốc tế và khu vực. Sự hội nhập
ngày càng đầy đủ này đã giúp chúng ta thực hiện lợi thế các nước đi sau để thực
hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh.
Chính vì thế nhóm nghiên cứu đã lựa chọn đề tài Đánh giá thực trạng tăng
trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2001-2010 để cùng phân tích những kết
quả đạt được và chỉ ra những hạn chế để từ đó nêu ra định hướng cho sự phát triển
của nền kinh tế trong giai đoạn mới.
Nội dung của đề tài gồm có ba phần:
♦ Phần thứ nhất: Cơ sở lý luận về tăng trưởng kinh tế trong đó đề cập
đến cách đo lường tăng trưởng kinh tế thông qua những chỉ tiêu tổng
quát và công thức đo lường, đồng thời làm rõ về nguồn gốc tăng
trưởng kinh tế.
♦ Phần thứ hai: Đánh giá thực trạng quá trình tăng trưởng kinh tế Việt

Nam giai đoạn 2001 – 2010, bao gồm những thành tựu đạt được,
những khó khăn và hạn chế của việc tăng trưởng, từ đó đưa ra những
định hướng cho tăng trưởng kinh tế của Việt nam trong giai đoạn
tiếp theo.
♦ Phần thứ ba: Kết luận.
3
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
NỘI DUNG
PHẦN THỨ NHẤT : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I. Khái niệm và phương pháp đo lường tăng trưởng kinh tế
1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập
bình quân đầu người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể
hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức
độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu
người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ.
Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó bao
gồm tăng trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế
(như phúc lợi xã hội, tuổi thọ, v.v.) và những thay đổi về cơ cấu kinh
tế (giảm tỷ trọng của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế
tạo và dịch vụ). Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn thiện về mọi mặt
của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời
gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ
hạnh phúc hơn.
2. Đo lường tăng trưởng kinh tế
2.1.Các chỉ tiêu tổng quát
2.1.1.Tổng giá trị sản xuất
Là tổng giá trị sản xuất vật chất và dịch vụ được tạo ra trên phạm vi lãnh
thổ của một quốc gia trong một thời kì nhất định (thường là một năm).
Cách tính: GO = ∑ICi + ∑VAi

Trong đó: IC là chi phí trung gian
VA là giá trị gia tăng của sản phẩm vật chất và dịch vụ
2.1.2.Tổng sản phẩm quốc nội
Tổng sản phẩm quốc nội hay GDP (viết tắt của Gross Domestic Product).
GDP là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra
trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một
năm).
Phương pháp tính GDP:
Phương pháp chi tiêu:
Tổng sản phẩm quốc nội:
GDP=C+G+I+NX
Trong đó:
• C là tiêu dùng của hộ gia đình
• G là tiêu dùng của chính phủ
4
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
• I là tổng dầu tư
• I=De+In
• De là khấu hao
• In là đầu tư ròng
• NX là cán cân thương mại
• NX=X-M
• X (export) là xuất khẩu
• M (import) là nhập khẩu
Phương pháp thu nhập hay phương pháp chi phí:
Theo phương pháp thu nhập hay phương pháp chi phí, tổng sản phẩm quốc
nội bằng tổng thu nhập từ các yếu tố tiền lương (wage), tiền lãi (interest), lợi
nhuận (profit) và tiền thuê (rent); đó cũng chính là tổng chi phí sản xuất các sản
phẩm cuối cùng của xã hội.
GDP=W+R+i+Pr+Ti+De

• W là tiền lương
• R là tiền thuê
• i là tiền lãi
• Pr là lợi nhuận
• Ti là thuế gián thu
• De là khấu hao
Phương pháp giá trị gia tăng:
Giá trị gia tăng của một ngành (GO):
GO =∑ VAi (i=1,2,3, ,n)
Trong đó:
VAi là giá trị tăng thêm của doanh nghiệp i trong
ngành
n là số lượng doanh nghiệp trong ngành
Giá trị gia tăng của nền kinh tế GDP:
GDP =∑ GOj (j=1,2,3, ,m)
Trong đó:
5
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
GOj là giá trị gia tăng của ngành j
m là số ngành trong nền kinh tế
2.1.3.Tổng thu nhập quốc dân (GNI – Gross national income)
GNI là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân
của một nước tạo nên trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ tiêu này bao gồm
các khoản hình thành thu nhập và phân phối lại thu nhập lần đầu có tính đến cả các
khoản nhận từ nước ngoài về và chuyển ra nước ngoài.
Cách tính:
GNI = GDP + chênh lệch thu nhập với nhân tố nước ngoài.
Chênh lệch thu Thu nhập lợi tức Chi trả lợi tức
nhập nhân tố với = nhân tố từ - nhân tố ra nước
nước ngoài nước ngoài ngoài


2.1.4.Thu nhập quốc dân (NI – National income)
Là phần giá trị sản xuất vật chất và dịch vụ mới sáng tạo ra trong một khoảng
thời gian nhất định.
Cách tính:
NI = GNI – Dp
Trong đó: GNI là tổng thu nhập quốc dân
Dp là khấu hao vốn cố định của nền kinh tế
2.1.5.Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI – National Disposable Income)
Là phần thu nhập của quốc gia dành cho tiêu dùng cuối cùng và tích lũy thuần
trong một thời kì nhất định.
Cách tính:
NDI = NI + chênh lệch về chuyển nhượng hiện hành với nước ngoài
Chênh lệch về chuyển nhượng hiện hành với nước ngoài = Thu chuyển nhượng từ
nước ngoài – chi chuyển hiện hành ra nước ngoài

2.1.6.GDP bình quân đầu người
GDP bình quân đầu người của một quốc gia hay lãnh thổ tại một thời điểm nhất
định là giá trị nhận được khi lấy GDP của quốc gia hay lãnh thổ này tại thời điểm
đó chia cho dân số của nó cũng tại thời điểm đó.
2.2.Các công thức đo lường tăng trưởng kinh tế
2.2.1.Mức tăng trưởng tuyệt đối
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ
cần so sánh.
6
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
K = Yt – Yo
Y : GNP, GDP
Yt : GDP, GNP tại thời điểm t của kỳ thời gian phân tích
Yo : GDP, GNP tại thời điểm gốc của kỳ thời gian phân tích.

2.2.2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô
kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ
trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:
y = dY/Y × 100(%),
trong đó Y là qui mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô kinh
tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP
(hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP)
thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng
trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
*Hạn chế của các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế
Các chỉ tiêu đo lường mức tăng trưởng kinh tế được sử dụng làm thước đo trình
độ phát triển nền kinh tế một cách cụ thể, dễ hiểu và nó trở thành mục tiêu phấn
đấu của một chính phủ vì nó là tiêu chí để người dân đánh giá hiệu quả điều hành
đất nước của chính phủ.
Nhưng tăng trưởng kinh tế không phản ảnh được chính xác phúc lợi của các
nhóm dân cư khác nhau trong xã hội, chênh lệch giàu nghèo có thể tăng lên, chênh
lệch giữa nông thôn và thành thị có thể tăng cao và bất bình đẳng xã hội cũng có
thể tăng. Tăng trưởng có thể cao nhưng chất lượng cuộc sống có thể không tăng,
môi trường có thể bị hủy hoại, tài nguyên bị khai thác quá mức, cạn kiệt, nguồn
lực có thể sử dụng không hiệu quả, lãng phí.
II. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế
Để giải thích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế các nhà kinh tế học dùng
các mô hình kinh tế.
7
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
Mô hình David Ricardo (1772-1823) với luận điểm cơ bản là đất đai sản
xuất nông nghiệp (R, Resources) là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Nhưng đất
sản xuất lại có giới hạn do đó người sản xuất phải mở rộng diện tích trên đất xấu

hơn để sản xuất, lợi nhuận của chủ đất thu được ngày càng giảm dẫn đến chí phí
sản xuất lương thực, thực phẩm cao, giá bán hàng hóa nong phẩm tăng, tiền lương
danh nghĩa tăng và lợi nhuận của nhà tư bản công nghiệp giảm. Mà lợi nhuận là
nguồn tích lũy để mở rộng đầu tư dẫn đến tăng trưởng. Như vậy, do giới hạn đất
nông nghiệp dẫn đến xu hướng giảm lợi nhuận của cả người sản xuất nông nghiệp
và công nghiệp và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Nhưng thực tế mức tăng
trưởng ngày càng tăng cho thấy mô hình này không giải thích được nguồn gốc của
tăng trưởng.
Mô hình hai khu vực tăng trưởng kinh tế dựa vào sự tăng trưởng hai khu
vực nông nghiệp và công nhiệp trong đó chú trọng yếu tố chính là lao động (L
labor), yếu tố tăng năng suất do đầu tư và khoa học kỹ thuật tác động lên hai khu
vực kinh tế. Tiêu biểu cho mô hình hai khu vực là mô hình Lewis, Tân cổ điển và
Harry T. Oshima.
Mô hình Harrod-Domar nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu
tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên.
Mô hình Robert Solow (1956) với luận điểm cơ bản là việc tăng vốn sản xuất chỉ
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài
hạn, tăng trưởng sẽ đạt trạng thái dừng. Một nền kinh tế có mức tiết kiệm cao hơn
sẽ có mức sản lượng cao hơn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong dài
hạn (tăng trưởng kinh tế bằng không (0)).
Mô hình Kaldor tăng trưởng kinh tế phụ thuộc phát triển kỹ thuật hoặc trình
độ công nghệ.
Mô hình Sung Sang Park nguồn gốc tăng trưởng là tăng cường vốn đầu tư
quốc gia cho đầu tư con người.
Mô hình Tân cổ điển nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc vào cách thức kết
hợp hai yếu tố đầu vào vốn(K) và lao động (L).
Trước Keynes, kinh tế học cổ điển và tân cổ điển không phân biệt rành mạch
tăng trưởng kinh tế với phát triển kinh tế. Hơn nữa, ngoại trừ Schumpeter, các
trường phái trên đều không coi trọng vai trò của tiến bộ kỹ thuật đối với tăng
trưởng kinh tế.

Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của kinh tế học vĩ mô Keynes tiêu biểu là mô hình
Harrod-Domar. Mô hình này dựa trên hai giả thiết căn bản: (1) giá cả cứng nhắc,
và (2) nền kinh tế không nhất thiết ở tình trạng toàn dụng lao động. Nguồn gốc
tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên.
Từ đó, họ suy luận ra được rằng một khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng
cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì sẽ càng ngày
càng không cân bằng (mất ổn định kinh tế).
Trong khi đó, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển xây dựng mô hình của mình dựa
trên hệ giả thiết mà hai giả thiết căn bản là: (1) giá cả linh hoạt, và (2) nền kinh tế
ở trạng thái toàn dụng lao động. Mô hình tăng trưởng kinh tế của họ cho thấy, khi
8
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng
trưởng không cân bằng thì đó chỉ là nhất thời, và nó sẽ mau chóng trở về trạng thái
cân bằng.
III. Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế
1. Nhân tố kinh tế
• Các nhân tố tác động đến tổng cung:
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước
đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển
kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh
tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này
khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến
kết quả tương ứng.
Tổng cung: AS = f( K, L, R, T)
Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và
kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế.
Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua
hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các
yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể

phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức
khỏe và kỷ luật lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá
sau Chiến tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy
nhưng những nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát
triển kinh tế một cách ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức, "một lượng lớn tư bản
của nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân
lực của lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại. Với những kỹ năng này, nước
Đức đã phục hồi nhanh chóng sau năm 1945. Nếu không có số vốn nhân lực này
thì sẽ không bao giờ có sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến."
[1]
Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển,
những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng
và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế,
có những nước được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được
mức thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các
nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập
cao. Nhật Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ
tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ cao
nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mô.
Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người
lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên
mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực
hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng
trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao
9
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là
máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội,
những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội

thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi
có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng
của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia ), sức khỏe cộng đồng,
thủy lợi
Công nghệ: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng không
phải là sự sao chép giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản,
ngược lại, nó là quá trình không ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. Công nghệ
sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao
hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng
nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản
xuất. Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tòi, nghiên
cứu; công nghệ có phát triển và ứng dụng một cách nhanh chóng được là nhờ
"phần thưởng cho sự đổi mới" - sự duy trì cơ chế cho phép những sáng chế, phát
minh được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng đáng.
• Các nhân tố tác động đến tổng cầu
Tổng cầu: AD = C + I + G +NX
Kinh tế học vĩ mô đã cho thấy có 4 yếu tố tác động trực tiếp đến tổng cầu bao
gồm:
- Chi cho tiêu dung cá nhân (C): bao gồm các khoản chi cố định, chi thường
xuyên và các khoản chi tiêu khác ngoài dự kiến phát sinh.
- Chi cho đầu tư (I): là các khoản chi tiêu cho các nhu cầu đầu tư của của các
doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế, bao gồm đầu tư vốn cố định và đầu tư
vốn lưu động.
- Chi tiêu của chính phủ (G): bao gồm các khoản mục chi mua hàng hóa và
dịch vụ của chính phủ.
- Chi tiêu thông qua hoạt động xuất nhập khẩu: NX = X – M
Dưới sự tác động của thị trường các yếu tố của tổng cầu thường xuyên biến đổi,
nếu tổng cầu bị giảm sút sẽ gây lãng phí rất lớn các yếu tố nguồn lực của quốc gia
đã có nhưng không được huy động và làm hạn chế mức tăng trưởng thu nhập còn

ngược lại nếu mức tổng cầu quá cao sẽ làm cho mức thu nhập của nền kinh tế tăng
nhưng giá cả các yếu tố trở nên đắt đỏ sẽ đẩy mức giá cả chung của nền kinh tế
lên.
2. Nhân tố phi kinh tế
Khác với các yếu tố kinh tế, các nhân tố chính trị, xã hội, thể chế hay còn gọi
là các nhân tố phi kinh tế có tính chất và nội dung tác động khác, có thể kể đến
một số nhân tố sau đây:
- Đặc điểm văn hóa xã hội:
Đây là nhân tố quan trọng có tác động nhiều tới quá trình phát triển của đất
nước. Trình độ văn hóa cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và sự
10
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
phát triển cao của mỗi quốc gia, là nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về
chất lượng lao động, kĩ thuật, trình độ quản lý kinh tế xã hội. Xét trên khía
cạnh kinh tế hiện đại thì nó là nhân tố cơ bản của mọi nhân tố dẫn đến quá
trình phát triển. Vì thế trình độ phát triển cao của văn hóa là mục tiêu phấn
đấu của sự phát triển.
- Thể chế chính trị - kinh tế - xã hội:
Tác động đến quá trình phát triển đất nước theo khía cạnh tạo dựng hành
lang pháp lý và môi trường xã hội cho các nhà đầu tư, được thực hiện thông
qua các dự kiến mục tiêu phát triển, các nguyên tắc tổ chức quản lý kinh tế
xã hội, các luật pháp, các chế độ chính sách, các công cụ và bộ máy thực
hiện.
- Cơ cấu dân tộc, tôn giáo:
Trong cộng đồng quốc gia, có các tộc người khác nhau cùng sống, mỗi tộc
người đều theo một tôn giáo. Sự phát triển của tổng thể kinh tế có thể đem
đến những biến đổi có lợi cho dân tộc này, những bất lợi cho dân tộc kia.
Đó chính là những nguyên nhân nảy sinh xung đột giữa các dân tộc, gây
ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế đất nước.
- Sự tham gia của cộng đồng:

Dân chủ và phát triển là hai vấn đề có tác dụng tương hỗ lẫn nhau. Sự phát
triển là điều kiện làm tăng thêm năng lực thực hiện quyền dân chủ của cộng
đồng dân cư trong xã hội. Ngược lại về phía mình sự tham gia của cộng
đồng là một nhân tố bảo đảm tính chất bền vững và tính động lực nội tại
cho phát triển kinh tế, xã hội.

PHẦN THỨ HAI: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 – 2010
I. Những kết quả đạt được trong tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001-2010
1. Tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao và ổn định trong nhiều năm.
Nếu không kể khoảng thời gian năm 2008 – 2009 do ảnh hưởng đáng kể của
khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhìn chung, chúng ta đã duy trì được tốc độ tăng
trưởng nhanh. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng trung bình
của giai đoạn 2001 – 2010 là 7,25%. Trong đó, tăng trưởng trung bình giai đoạn
2001 – 2005 là 7,51% và giai đoạn 2006 – 2010 lại bị tụt lùi, còn 7%. Như vậy,
nếu xét về góc độ quy mô và tốc độ tăng trưởng, Việt Nam đã thành công trong
duy trì tăng trưởng trong dài hạn.
11
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
Kinh tế Việt Nam tăng trưởng khởi sắc và khá cao từ năm 2001 – 2005 với tỉ lệ
tăng trưởng GDP cho năm 2005 là 8.4% sau khi điều chỉnh lạm phát.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2007 đạt 8,5%, như vậy đây là năm
thứ ba liên tiếp kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng trên 8%.
Hoạt động kinh doanh tại Việt Nam vẫn tiếp tục được cải thiện, tỷ lệ đầu tư của
nền kinh tế đạt 40,4% so với GDP. Sự tăng trưởng đã được thúc đẩy bởi nhân tố tư
nhân, trong đó có 59 nghìn doanh nghiệp được thành lập trong năm qua, tăng 26%
so với năm trước. Vốn đầu cam kết đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng gần gấp
đôi, lên 20,3 tỷ USD.
Trong khi đó, tính đến năm 2007, vốn hoá thị trường chứng khoán đạt 43%
GDP (hai năm trước mới đạt 1,5% GDP). Mức dự trữ ngoại hối đã tăng từ 10 tỷ

lên 21,6 tỷ USD, tương đương 30,2 % GDP hay 3,3 tháng nhập khẩu.
Xuất khẩu (không tính dầu thô) tăng 27%, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu đạt
48,5 tỷ USD, đạt hơn 68% GDP.
Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai trên thế giới nhưng trị giá
kinh tế mặt hàng gạo chỉ chiếm 4% trên tổng số xuất khẩu của Việt Nam khi gộp
chung giá trị của các sản phẩm dầu khí vào.
12
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
Trong 3 mặt hàng chiến lược chiếm tỉ trọng giá trị cao nhất – ngoài khu vực dầu
khí - gồm có hàng may mặc, giày da, và thuỷ sản với tỉ trọng lần lượt 15%, 9.4%
và 8.4%. Ba ngành kỹ nghệ này thu hút hàng triệu lao động của nền kinh tế nhưng
trị giá gia tăng mà các ngành kỹ nghệ này mang lại vẫn còn thấp, vẫn dựa vào lợi
thế sức lao động là chính.
Hơn nữa nguồn nguyên liệu cho may mặc và giầy da hầu hết phải nhập khẩu từ
nước ngoài rồi gia công thành phẩm thay vì tự cung cấp tự sản xuất như kỹ nghệ
may mặc da giầy của Trung Quốc – và đây là một trong những lý do tại sao giá trị
gia tăng trên tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm tỉ lệ vào khoảng
25% và chỉ giá trị kinh tế này được tính vào GDP.
Trị giá một số hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam (triệu Mỹ kim, 2001-2005):
Nguồn: IMF
Tuy nhiên, nền kinh tế cũng xuất hiện một số vấn đề “nóng bỏng” như lạm
phát, cán cân thanh toán thiếu hụt, sự tăng nóng của lĩnh vực tín dụng, mức tăng
trưởng nhanh của thị trường chứng khoán và sự tăng mạnh của thị trường bất động
sản đang tạo ra nguy cơ “bong bóng”. Điều đó đã được minh chứng bằng cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới vào năm 2008 khi mà tốc độ tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam giảm sút đáng kể xuống còn 6,23% năm 2008 và 5,32% năm 2009,
nhưng Việt Nam vẫn là những nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới
và khu vực.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế VN so với tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới và nhóm
nước theo khu vực ĐVT: %

13
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
Nguồn: IMF (năm 2008, số ước tính của IMF)
2. Đóng góp của các ngành vào tăng trưởng kinh tế:
Kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ là
thành tựu nổi bật nhất, cơ bản nhất của nền kinh tế Việt Nam năm 2007. Tổng sản
phẩm trong nước ước tăng 8,44%, đạt kế hoạch đề ra (8,0 - 8,5%), cao hơn năm
2006 (8,17%) và là mức cao nhất trong vòng 11 năm gần đây. Với tốc độ này, Việt
Nam đứng vị trí thứ 3 về tốc độ tăng GDP năm 2007 của các nước châu Á sau
Trung Quốc (11,3%) và Ấn Độ (khoảng 9%) và cao nhất trong các nước ASEAN
(6,1%). Tốc độ tăng trưởng GDP cả 3 khu vực kinh tế chủ yếu đều đạt mức khá:
Khu vực nông - lâm nghiệp và thủy sản ước tăng 3,0%/ so với mức 3,32% cùng kỳ
2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,33% (riêng công nghiệp tăng
14
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
10,32%)/ so với mức 10,4% và 10,32% cùng kỳ và khu vực dịch vụ tăng 8,5%/ so
với mức 8,29% của năm 2006. ( tính theo giá so sánh năm 1994).
Tốc độ tăng trưởng kinh tế theo ngành thời kì 2000-2009:
Nguồn: Tính toán từ số liệu niên giám thống kê 2005, 2006 và báo cáo thực hiện
KH2007
Có thể thấy, tốc độ tăng trưởng khu vực công nghiệp gần như ổn định trong suốt
7 năm liền, năm 2009 có dấu hiệu khôi phục sau khi bị suy giảm khá nhiều ở năm
2007 do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế. Tuy hai năm 2007 và 2009, tốc độ tăng
trưởng bị sụt giảm nhưng nhìn chung tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ có xu
hướng gia tăng hơn cả. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp có xu hướng giảm khá
nhiều theo thời gian. Do có sự thay đổi tích cực trong tốc độ tăng trưởng kinh tế
theo ngành, nên cơ cấu ngành kinh tế nước ta có dấu hiệu chuyển dịch theo xu thế
tích cực, trong đó: tủ trọng khu vực công nghiệp tăng lên, tỷ trọng khu vực nông
nghiệp giảm xuống, ngành dịch vụ bắt đầu có dấu hiệu gia tăng tỷ trọng cả GDP
và lao động.

3. Hiệu quả đầu tư mặc dù thấp nhưng đang có xu hướng tăng lên
15
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
Nếu đánh giá hiệu quả và chất lượng tăng trưởng qua chỉ số xuất đầu tư tăng
trưởng( ICOR), có thể thấy tình trạng đáng lo ngại: ICOR tăng cao cả theo thời
gian và trong so sánh với các nước trong khu vực. Giai đoạn 2000 – 2005,
ICOR của Việt Nam là khoảng 4,42, giai đoạn 2006 – 2010 đã tăng lên 6,12,
trong đó đỉnh điểm là năm 2009 với ICOR là 8,0. Phân tích các nguyên nhân
dẫn đến tình trạng ICOR cao và có xu hướng gia tăng đều thấy được những
yếu kém của Việt Nam trong quản lý đầu tư. Mỗi dự án đầu tư đề có độ trễ
nhất định, nhưng thời gian thực hiện nhiều dự án bị kéo dài so với dự kiến ban
đầu vừa làm gia tăng vốn đầu tư, vừa chậm trễ phát huy tác dụng tới tăng
trưởng kinh tế. Tình trạng dàn trải vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cũng là
một nguyên nhân làm hiệu quả đầu tư bị suy giảm. Tình trạng lãng phí và thất
thoát vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đã được đề cập nhiều năm nay nhưng
chưa có dấu hiệu bị ngăn chặn. Khác với nhiều nước, trong cơ cấu vốn đầu tư ở
Việt Nam, chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng thường chiếm tỷ lệ lớn cũng là
yếu tố làm tăng chỉ số ICOR…
16
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
4. Năng suất lao động có xu hướng tăng cao hơn
Lao động là một trong các yếu tố của tăng trưởng, nhưng năng suất lao
động hiện nay của Việt Nam còn hết sức thấp kém không những so với các
nước công nghiệp phát triển mà so với cả các nước trong khu vực. Điều này
ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của Việt Nam.
Nếu không tính năm 2009 do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, kể từ
năm 2000 đến nay, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng
đạt trên 10%/năm. Năm 2009 tốc độ tăng trưởng năng suất lao động có chậm
lại so với năm 2008 nhưng vẫn cao hơn so với mức tăng năng suất lao động
bình quân thời kì đầu những năm 2000. Kết quả này đã làm tăng phần đóng

góp của yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu vào tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt
Nam.
NSLĐ của Việt Nam giai đoạn 2000 -2009 (Nguồn: Tổng cục thống kê)
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
GDP
(tỷ USD)
31.21 32.49 35.09 39.8 45.36 53.11 61.02 71.26 89.1 95.4
Lao động,
( triệu)
37.61 38.57 39.51 40.57 41.57 42.53 43.347 44.2 44.92 45.68
NSLĐ
(USD/LĐ)
829.83 842.5 888.0 980.1 1091 1249 1407.8 1611.1 1983.5 2088.4
Tốc độ tăng
NSLĐ (%)
- 1.52 5.4 5.5 11.2 14.48 12.71 14.44 23.1 5.3
17
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
II.Những hạn chế trong thực hiện mục tiêu tăng trưởng và nguyên
nhân
1. Những hạn chế
Mặc dù có những thành công đáng kể trong thực hiện mục tiêu tăng trưởng và
phát triển kinh tế, nhưng đối chiếu với mục tiêu, vẫn còn một số những hạn chế
cần được xem xét.
a, Tăng trưởng theo chiều rộng là chủ yếu
Tăng trưởng những năm qua chủ yếu dựa vào những nhân tố tăng trưởng
theo chiều rộng, với những ngành, những sản phẩm truyền thống, hao phí vật
tư cao, chưa đi mạnh vào chất lượng sản phẩm với phát triển khu vực công
nghệ cao.
Đóng góp nhân tố vào tăng trưởng GDP Việt Nam

Giai đoạn 1993-1997 Giai đoạn 1998-2007
Nguồn: Tổng cục thống kê
Qua biểu đồ trên, nếu qua 2 giai đoạn, chúng ta đã đạt được những kết quả
đáng kể trong việc nâng cao ảnh hưởng của nhân tố tăng trưởng theo chiều sâu(
TFP) vào tăng trưởng GDP hằng năm, đã tăng từ 15% thời kì 1993-1997 lên
22% thời kì 1998-2007. Tuy vậy nhìn chung so với các nước, ảnh hưởng của
18
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
yếu tố này đối với tăng trưởng kinh tế còn rất hạn chế. Nói cách khác, năng
suất tổng hợp của toàn bộ yếu tố sản xuất TFP rất thấp.Tỷ trọng đóng góp của
yếu tố vốn và lao động gấp trên 3 lần so với tỷ trọng đóng góp của yếu tố TFP.
Con số đóng góp khoảng 22% vào tăng trưởng của nhân tố TFP hiện thấp hơn
rất nhiều so với các nước trong khu vực: tỷ lệ tương ứng của Thái Lan là 35%,
của Philippin là 41%, của Indonesia là 43%. Điều này đồng nghĩa với việc
nước ta chưa thoát khỏi hình thái kinh tế dựa vào tài nguyên, trong khi thế giới
đã bước sâu vào nền kinh tế tri thức. Có thể khẳng định rằng, vai trò hạn chế
của yếu tố TFP đối với tăng trưởng là một rào cản lớn cho việc nâng cao hiệu
quả tăng trưởng kinh tế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ tiêu năng suất lao
động, hiệu quả đầu tư và nhất là đến khả năng duy trì bức tranh tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn cũng như khả năng khai thác triệt để các tiềm năng của
đất nước.
b, Hiệu quả kinh tế thấp
Hiệu quả kinh tế được thể hiện thông qua hiệu quả sử dụng các yếu tố
đầu vào của tăng trưởng như vốn, lao động, tài nguyên, đất đai. Hiệu quả kinh
tế cho thấy cơ chế kinh tế đang vận hành kém hiệu quả. Đây là vấn đề rất
nghiêm trọng đối với một nền kinh tế còn nghèo, đang nỗ lực thoát khỏi tình
trạng tụt hậu phát triển của Việt Nam.
Nguồn nhân lực là lợi thế phát triển quan trọng của nước ta hiện nay. Tuy
nhiên, lợi thế này không được sử dụng hết, thậm chí đang bị lãng phí nghiêm
trọng, bởi đến 5,6%( ngày 1/7/2004) lao động ở thành thị thất nghiệp và

20,66% lao động ở nông thôn chưa được sử dụng.
Trong thời gian qua tốc độ tăng trưởng GDP cao chủ yếu là nhờ vốn đầu
tư (khoảng 60%). Với một nước khan hiếm vốn, đây là kết quả của việc tích
cực huy động một lượng vốn lớn đưa vào đầu tư. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
vẫn có một lượng vốn nhàn rỗi không nhỏ nằm dưới trạng thái chết trong xã
hội, chỉ tính phần GDP tiết kiệm nhưng không được chuyển thành đầu tư, hàng
năm có tới 30 đến 40 nghìn tỷ đồng (5-7% GDP) rơi vào trạng thái vốn chết.
Đó là chưa tính số vốn người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về, khoảng 2,5-3
tỷ USD/năm, chưa được huy đọng đầu tư một cách tích cực và 15-20% của quỹ
tích lũy chưa được huy đọng vào đầu tư. Mặt khác hiệu quả đầu tư còn rất thấp,
hiện nay chúng ta đã phải mất tới 4,5-5 đơn vị vốn để tạo ra một đơn vị tăng
trưởng, trong khi đó Hàn Quốc hay Đài Loan trong thời kì tăng trưởng
nhanh(8%/năm) nhưng đầu tư đạt 22% GDP.
c, Tăng trưởng dựa vào khai thác quá mức nguồn vốn tài nguyên hoặc
gia công chế biến, mang tính chất chạy đua ngắn hạn với hiệu quả năng
lực cạnh tranh tăng trưởng có biểu hiện giảm sút.
19
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
Quy mô và tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế chủ yếu dựa vào sự gia
tăng vượt trội của các ngành sản xuất cũng như xuất khẩu sản phẩm dựa trên
cơ sở khai thác nguồn tài nguyên sẵn có của đất nước, các sản phẩm thô, các
sản phẩm mang tính chất gia công dựa vào nguồn lao động vốn có giá trị rất rẻ
mạt, năng suất lao động xã hội còn rất thấp, trình độ khoa học, công nghệ yếu
kém, chi phí sản xuất trung gian còn cao và có chiếu hướng gia tăng trong
những năm cuối. Điều đó thể hiện qua tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất (GO)
nhanh hơn khá nhiều so với tóc độ tăng trưởng giá trị gia tăng (GDP)
Tốc độ tăng trưởng GO và GDP giai đoạn 2001-2009
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ TCTK
2. Những nguyên nhân chủ yếu
- Quan điểm chạy đua theo mục tiêu tăng trưởng nhanh và căn bệnh

thành tích trong kinh tế.
Trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế, yêu cầu tăng trưởng
nhanh đối với nền kinh tế nước ta là mang tính sống còn, chúng ta không thể
thoát khỏi tình trạng tụt hậu xa hơn mà hiện nay đang thực sự lâm vào nếu
không đẩy tốc độ tăng trưởng nhanh lên. Với tiềm lực tài chính có hạn, năng
lực bộ máy chưa đủ cao, ngay tức thời chính phủ khó có thể đồng thời giải
quyết tốt như mong muốn cả hai việc, vừa tập trung để tạo ra và củng cố các cơ
sở nền tảng của tăng trưởng, lại vừa đáp ứng đòi hỏi tăng trưởng cao. Trong
trường hợp này, chúng ta thay vì phải chọn phương án hướng tới mục tiêu tăng
trưởng trong dài hạn và hiệu quả ngày càng cao tức là củng cố các cơ sở nền
20
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
tảng của tăng trưởng thì lại đi vào lựa chọn phương án cho tăng trưởng ngắn
hạn. Nhiều nhà kinh tế đã quan niệm rằng chỉ cần đầu tư nhất là đầu tư vào vốn
vật chất ở mức cao sẽ đạt tăng trưởng như mong đợi. Theo phương án này,
chính phủ đã phải căng mình lên với những thách thức ngắn hạn và luôn phải
chạy theo nó để đối phó, nhất là tìm kiếm nguồn lực tài chính, sử dụng các
chính sách mang tính chất chữa cháy nhằm khuyến khích đầu tư như trợ cấp
vốn, ưu đãi lãi suất, bảo lãnh cho vay, bảo hộ sản xuất trong nước, miễn giảm
thuế tràn lan, hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay xu hướng tăng đầu tư để
đạt thành tích tăng trưởng cao đã trở thành một căn bệnh nghiêm trọng trong
toàn nền kinh tế. Trong các bộ ngành và các địa phương, trong các doanh
nghiệp, cơ quan nhà nước đầu tư phát triển đang trở thành một cuộc đua tranh
quyết liệt. Trong nhiều trường hợp ẩn sau cuộc chạy đua đó, hình thành một
động cơ mạnh mẽ nhất của nó là căn bệnh thành tích mà lợi ích cục bộ giành
được từ chiếc bánh đầu từ nhà nước. Chính vì thế, trong những năm qua cho dù
chính phủ và khu vực doanh nghiệp nhà nước đã dốc sức tối đa cho tăng
trưởng, song tốc độ tăng trưởng mà nền kinh tế đạt được mặc dù đã cao nhưng
còn dưới mức tiềm năng và chất lượng tăng trưởng chậm được cải thiện và sự
lãng phí nguồn lực trở thành khá phổ biến.

- Những hạn chế về nguồn lực tăng trưởng theo chiều sâu
Thứ nhất, vốn tài chính hiện đang thiếu xét trên cả ba nguồn đầu tư. Nguồn
vốn nhà nước dựa vào các khoản thu từ ngân sách chưa được cải thiện do ngân
sách nhà nước của Việt Nam vẫn còn trong tình trạng bội chi, các doanh
nghiệp nhà nước làm ăn chưa thực sự có hiệu quả nên phần dành cho tái đầu tư
chưa nhiều. Nguồn vốn của dân cư và doanh nghiệp ngoài nhà nước còn chiếm
tỉ trọng thấp, chủ trương xã hội hóa triển khai thực hiện còn rất chậm, vốn nằm
trong đân chủ yếu vẫn không dung để đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mặc dù có dấu hiệu khởi sác nhưng vẫn
chưa đạt được mức năm 1996, 1997 và tỉ trọng ngày càng giảm dần trong tổng
vốn đầu tư. Năm 1997, FDI chiếm 28% tổng đầu tư xã hội trong khi năm 2005
chỉ còn 14,5%, 2006 đạt 16,2% và năm 2006, 2007, 2008, 2009 cũng không
đạt tới con số của năm 1997.
Thứ hai, vốn con người còn nhiều yếu tố bất cập: hàng năm số người bước
vào tuổi lao động đòi hỏi giải quyết việc làm vẫn tăng khoảng 1 triệu người,
trong khi đó tỉ lệ thất nghiệp nếu quy đổi cả thất nghiệp trá hình vẫn ở mức 2
con số, đây là một áp lực lớn cho nền kinh tế trong viêc thực thi chiến lược
phát triển và áp dụng công nghệ hiện đại; mặt khác, lao động thuộc ngành nông
– lâm – ngư nghiệp hiện vẫn chiếm tỉ trọng lớn (năm 2006 là 56,8% và năm
2007 là 55,0%, năm 2008, 2009 vẫn còn trên 51%), cao hơn nhiều so với các
nước Singapore: 0,3%, Philippine: 37,4%, Malasia: 18,4%, Indonesia: 43% và
Thái Lan: 48%, đây là rào cản lớn để thay đổi, chuyển giao công nghệ tiên tiến,
để chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng hiện đại và có hiệu quả. Một
rào cản đáng nói nhất về vốn con người là sự bất hợp lí trong cơ cấu lao động
nếu xét theo góc độ chất lượng. Tỉ lệ lao động qua đào tạo hiện nay còn rất
21
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
thấp, mới chỉ đạt 28%, thậm chí không đạt chỉ tiêu kế hoạch đặt ra (năm 2005
là 30% và 2010 là 40%), lực lượng cán bộ khoa học đầu đàn, đội ngũ doanh
nhân giỏi còn rất thiếu là một khó khăn để phát triển các ngành đủ sức cạnh

tranh trong hộp nhập. Ngay cả đối với lao động đã qua đào tạo thì cơ cấu cũng
chưa hợp lí, nếu xét cơ cấu hợp lí theo cấp đào tạo: cử nhân/ trung cấp/ công
nhân, chuẩn mực của thế giới là 1/4/10 trong khi đó ở nước ta hiện nay là
1/0,98/3,02. Chúng ta đang thiếu hẳn một đội ngũ thợ lành nghề để thực hiện
vận hành một nền kinh tế hiện đại.
Thứ ba, trình độ khoa học công nghệ hết sức thô sơ và lạc hậu: Trình độ
khoa học công nghẹ mặc dù đã được nang cao lên nhờ sự gia tăng của khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài và đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp trong
nước. Một số ngành đã tiếp thu được với trình độ công nghệ tiên tiến trên thế
giới như các ngành bưu chính viễn thông, thăm dò khai thác dầu khí. Tuy
nhiên trình độ công nghệ của nền kinh tế nói chung, kể cả của ngành công
nghiệp nói riêng cũng còn rất thấp. Ví dụ: trong ngành cơ khí, thiết bị lạc hậu
tới 4 thập kỉ so với mặt bằng thế giới, công nghệ trong ngành sử dụng để sản
xuất công cụ, hàng tiều dung, máy động học v.v… hầu hết đều ra đời từ trước
thập kỉ 80 của thế kỉ trước và có tới 30% có tuổi thọ hơn nửa thế kỉ. Tỉ trọng
doanh nghiệp có công nghê cao của Việt Nam mới đạt khoảng 20,6%, thấp xa
so với con số tương ứng 29,1% của Philippine, 29,7% của Indonesia, 30,8%
của Thái Lan, 51,1% của Malaysia, 73% của Singapore.
- Chính sách đầu tư và những hạn chế trong quản lí, sử dụng vốn đầu tư.
Sự bất hợp lí trong chính sách đầu tư đã gây ra những méo mó trong phân
bổ và sử dụng nguồn vốn này. Trong thời gian qua, chúng ta đã quá tập trung
vào đầu tư vốn vật chất trong khi đó đầu tư cho vốn nhân lực, công nghê và
những yếu tố nền tảng cho tăng trưởng dài hạn còn chưa thực sự được coi
trọng. Vốn đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ, điều tra cơ bản môi
trường hiện nay (thời kì 2001-2005) ở nước ta mới chỉ chiếm 0,9%, cho giáo
dục đào tạo 3,8%, cho giao thông vận tải bưu điện la 13,9% so với tổng vốn
đầu tư xã hội (không hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đặt ra cho thời kì này); tỉ lệ
vốn đầu tư vào các lĩnh vực này tương ứng năm 2007 là : 1,5%; 4,5%; 12%;
năm 2009 tương ứng là: 0,63%; 2,7% và 14,7% trong khi đó vốn đầu tư cho
gia tăng tài sản sản xuất chiếm tới 73,5% thời kì 2001-2005 và 70% năm 2009

( nguồn: tính toán từ niên giám thống kê 2005-TCTK và sổ tay KH 2007,
2009). Nếu chỉ tập trung đầu tư vốn vào tài sản, mà ít cải thiện công nghệ và
vốn con người thì nguồn tài sản đó cũng không phát huy hết tác dụng và cũng
không tăng đóng góp vào tăng trưởng dài hạn. Bài học rút ra từ khủng hoảng
tài chính Asean, dẫn đến sự gián đoạn trong tăng trưởng kinh tế cũng xuất phát
từ nguyên nhân sâu xa là sự mất cân đối trong đầu tư vào nguồn vật chất so với
đầu tư vốn con người và công nghệ. Một bất cập khác trong chính sách là việc
sử dụng quá nhiều nguồn vốn đầu tư từ nhà nước. Đầu tư từ nguồn vốn này
trong thời gian qua không những chiếm tiwr trọng cao mà còn có phần tăng lên
tương đối so với các thành phần khác, hiện nay chiếm 50% tổng vốn đầu tư xã
22
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
hội, trong số này vốn từ ngân sách khoảng gần 50%. Tỉ trọng lớn của đầu tư
nhà nước cho thấy sự phụ thuộc của tăng trưởng vào nguồn vốn này và điều đó
có thể dẫn đến đẩy ngân sách nhà nước vào tình trạng căng thẳng. Đầu tư nhà
nước trong thời gian qua vẫn chưa đóng được vai trò tạo điều kiện để thu hút
các nguồn vốn đầu tư khác, mà ngược lại, còn lấn áp các nguồn này, ảnh
hưởng tới tính hiệu quả và khả năng mở rộng tăng trưởng trong tương lai.
III. Định hướng tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn tới
Thời kì từ sau 2010 trở đi, Việt Nam bước vào thời kì chiến lược mới, triển
vọng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta được dự báo bằng những con số thực
sự lạc quan và có căn cứ, đáng tin cậy, nhưng đó chỉ là một vế của bài toán
phát triển. Một nền kinh tế tăng trưởng nhanh không phải luôn đồng nghĩa với
một nền kinh tế mạnh, nhất là khi chúng ta đang sống trong một thế giới hội
nhập và cạnh tranh khốc liệt. Việc tìm ra quan điểm đúng đắn trong việc lựa
chọn mô hình và chính sách tăng trưởng phù hợp cho giai đoạn hội nhập kinh
tế quốc tế là điều quyết định cho phép xác định rõ triển vọng của nền kinh kinh
tế, tạo sức hấp dẫn và khả năng duy trì sự phát triển dài hạn.
1. Duy trì tốc độ tăng trưởng cao vẫn được xem là mục tiêu hàng đầu của
Việt Nam sau năm 2010:

Tăng trưởng cao, tăng trưởng liên tục suốt thời gian dài nhưng do xuất phát
điểm quá thấp nên thu nhập bình quân đầu người vẫn chỉ tiến từng bước chậm
(hiện đứng thứ 7 khu vực, thứ 35 châu Á và 137 trên thế giới). Hơn nữa, dù đã
có kết quả khả quan nhưng theo các chuyên gia tính toán, nếu duy trì được tốc
độ tăng trưởng như vừa qua, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam để
bằng mức hiện tại của các nước sau đây thì số năm phải phấn đấu là: Indonesia
(5 năm); Philippine (8 năm); Thái Lan (20 năm); Malaysia (24 năm);
Singapore (40 năm). Đó là phép tính đặt trong trường hợp các nước đó “đứng
yên”, còn theo quy luật phát triển, khi kinh tế họ cũng tiếp tục tăng trưởng là
cực khó để tính bao nhiêu năm nữa sẽ đuổi kịp. Do đó, dù tăng trưởng cao và
mục tiêu thoát nhóm những nước nghèo nhất thế giới sắp vượt qua nhưng nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn là nguy cơ lớn. Không gì khác, buộc chúng ta
phải đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
2. Thay đổi tư duy về mô hình tăng trưởng , từ đó có sự thay đổi trong
cách tiếp cận hệ chính sách và giải pháp giải quyết vấn đề.
Trước hết và đóng vai trò quyết định là có một tư duy đúng về mô hình tăng
trưởng kinh tế cần hướng tới. Cốt lõi của tư duy này là: giải quyết vấn đề tốc
độ tăng trưởng phải trên nền tẳng giải quyết vấn đề chất lượng tăng trưởng.
Theo đó, trong dài hạn, cần chấm dứt quan điểm phải đạt được tốc độ tăng
trưởng nhanh với mọi giá theo mô hình tăng trưởng nhờ khai thác chiều rộng,
tăng trưởng nhờ dốc sức vào tăng khối lượng vốn đầu tư và vào khai thác tài
nguyên; chuyển dần sang mô hình tăng trưởng dựa vào hiệu quả và bền vững,
tập trung nhiều hơn, quyết liệt hơn vào mục tiêu chất lượng dài hạn. Cụ thể là,
cần chú trọng nâng cao hiệu quả đầu tư, hướng vào các điểm cực tăng trưởng
dài hạn của nền kinh tế trên cơ sở nguyên lí phân phối nguồn lực đóng vai trò
23
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
quyết định, tuân theo quy luật tự do cạnh tranh lành mạnh. Từ những tư duy về
mô hình tăng trưởng kinh tế hợp lí, thực hiện đẩy mạnh cải cách thể chế, chú
trọng tạo lập những cơ sở nâng cao năng lực cạnh tranh củng cố các cơ sở tăng

trưởng dài hạn. Tuy nhiên cũng cần phải xác định rõ lộ trình cho việc thực hiện
chuyển đổi mô hình tăng trưởng, trước mắt, một sự kết hợp theo kiểu “lưỡng
nan” trong điều kiện chúng ta đồng thời phải thực hiện 2 nhiệm vụ tăng trưởng
nhanh và tăng trưởng hướng về chất lượng trở nên hợp lí hơn và trong quá
trình đó hướng dần sự phát triển theo đúng quy luật của nó.
3. Nâng cao hiệu quả của các chỉ tiêu tăng trưởng.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển có nhiều lợi thế về tài nguyên và
nguồn lao động, tuy vậy, những dấu hiệu của lợi thế ấy cũng đang có biểu hiện
giảm sút dần; mặt khác khi đã gai nhập tổ chức thương mại quốc tế, sức ép của
cạnh tranh quốc tế buộc chúng ta phải quan tâm đến hiệu quả của tăng trưởng
kinh tế, nếu không sẽ luôn luôn gặp bất lợi, chịu thua thiệt trong các mối quan
hệ thương mại và cuối cùng sẽ bị thất bại trên các đấu trường quốc tế, thậm chí
trên cả chính sân nhà. Cần phải nâng cao hiệu quả tăng trưởng, chuyển hướng
hoạt động của nền kinh tế theo các khía cạnh chiều sâu của sự phát triển, cụ thể
là: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học công nghệ, tăng
cường ảnh hường của nhân tố TFP, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng
suất lao động, hướng hoạt động của nền kinh tế theo các ngành, các lĩnh vực
tạo nhiều giá trị gia tăng , giảm chi phí trung gian, chủ động sản xuất và xuất
khẩu các sản phẩm hàng hóa có dung lượng công nghệ cao trên cơ sở khai thác
triệt để lợi thế của đất nước và thực hiện đồng bộ hóa quá trình khai thác và
chế biến sản phẩm.
4. Phải có tầm nhìn dài hạn trong mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Trên thực tế, để tránh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, các nước đang phát triển
bị cuốn hút vào vòng xoáy của cơn lốc tăng trưởng nhanh với hy vọng cải thiện
mức sống dân cư, làm cho bộ mặt nền kinh tế năm nhanh khởi sắc. Chúng ta
thường quan tâm đến việc đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn
năm trước để rồi gồng mình lên bằng mọi giá thực hiện cho được mục tiêu này.
Nhiều nước, đã tạo được sự thần kì tăng trưởng trong hàng chục năm liền
nhưng sau đó rơi vào thảm họa trì trệ, suy thoái kéo dài, điều đó có nghĩa là
trong ngắn hạn và kể cả trung hạn tốc đọ tăng trưởng có thể đạt được rất cao

nhưng vẫn có thể thua trong cuộc đua tranh phát tiển dài hạn. Cần phải có cái
nhìn dài hạn trong tăng trưởng, quan điểm này đặt ra cho các nhà hoạch định
chính sách tăng trưởng hướng đến các chính sách để tạo ra, duy trì và củng cố
các cơ sở tăng trưởng dài hạn như yếu tố vốn nhân lực, cơ sở hạ tầng kinh tế -
kĩ thuật, một cấu trúc kinh tế hợp lí, cân đối, không dựa trên cơ sở vay mượn.
Theo thông điệp này, có thể phải chấp nhận tạm thời trong một số năm trước
mắt nền kinh tế không đạt được tốc độ tăng trưởng cao như kì vọng vì phải dốc
sức vào việc tạo lập và củng cố cơ sở tẳng trưởng dài hạn, nhưng suốt cả giai
đoạn dài sau đó nó nhất định đạt được mục tiêu tăng trưởng cao bền vững.
24
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
5. Gắn tăng trưởng với việc tạo tác động lan tỏa tích cực đến các đối
tượng ảnh hưởng.
Quan điểm này muốn hướng tăng trưởng kinh tế tới các mục tiêu phát triển
bền vững. Theo đó, vấn đề quan trọng không phải là bám đuổi mục tiêu tăng
trưởng nhanh mà là duy trì một mục tiêu tăng trưởng hợp lí trong mối quan hệ
rang buộc với những điều kiện về tài nguyên môi trường và các vấn đề xã hội.
Một mặt, đối với vấn đề tài nguyên môi trường, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi
với: bảo đảm sử dụng hợp lí và tiết kiệm tài nguyên, nâng cao khả năng tái sinh
tài nguyên; phòng chống ô nhiễm môi trường, có phương cán xử lí ô nhiễm, kĩ
thuật phòng chống và giải quyết các hệ quả của ô nhiễm, có chính sách kinh tế
phù hợp áp dụng cho các cơ sở kinh tế gây ô nhiễm, thực hiện sự tham gia
cộng đồng trong vấn đề này; thực hiện quá trình đa dạng hóa sinh học hình
thành những vùng vệ tinh tạo yếu tố môi trường thuận lợi cho những khu vực ô
nhiễm. Mặt khác, đối với vấn đề xã hội, quá trình tăng trưởng kinh tế phải
được kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ bởi các chỉ tiêu phát triển xã hội, trong
đó trọng tâm là vấn đề xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội, giải quyết việc
làm, chỉ tiêu liên quan đến sự phát triển toàn diện cho con người như giáo dục,
y tế, thể dục thể thao, văn hóa nghệ thuật, các chỉ số giới và dân tộc v.v…
Chính việc đảm bảo các chỉ tiêu xã hội và môi trường sẽ là yếu tố tích cực

củng cố, duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
6. Nâng cao năng lực cạnh tranh là yếu tố then chốt tạo nên chất lượng
tăng trưởng kinh tế cao:
Trong nền kinh tế thế giới mở cửa, cạnh tranh và hội nhập ngày càng sâu
rộng, thì mục tiêu sống còn, thậm chí theo một nghĩa nào đó, còn quan trọng
hơn cả mục tiêu tăng trưởng 5% hay 10%, liên quan đến năng lực cạnh tranh
và vị thế không thể tồn tại với tư cách là một thực thể cạnh tranh, không có cơ
may vươn lên, thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển, cho dù có thể đạt được
tốc độ tăng trưởng rất cao.
Theo quan diểm này, điều quan trọng là không nên hướng tăng trưởng dựa
vào khu vực kinh tế nhà nước và đầu tư nhà nước, xóa bỏ thể chế độc quyền
kinh doanh và cơ chế hỗ trợ kinh doanh độc quyền như hệ thống giá, rào cản
hành chính, phát triển hệ thống kinh tế đa sơ hữu. Để nâng cao năng lực cạnh
tranh tăng trưởng, chính phủ cần có chính sách tạo môi trường kinh doanh lành
mạnh và năng động, đảm bảo sự phát triển đồng bộ của các thị trường, phân
định hợp lí vai trò của chính phủ với thị trường, phân công và phối hợp chức
năng tối ưu giữa các chủ thể thị trường mà quan trọng nhất là các thành phần
và khu vực kinh tế, một hệ thống thuế đơn giản và có định hướng khuyến khích
rõ rang, một hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc không
thiên vị xuất xứ thành phần của doanh nghiệp. Tất cả là nội dung của quan
điểm kết hợp tăng trưởng kinh tế với nâng cao năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế.
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
25

×