Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học " THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM VỀ CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRONG ỨNG XỬ " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.52 KB, 14 trang )


41
THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM
VỀ CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRONG ỨNG XỬ
Nguyễn Văn Bắc
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mọi hoạt động của con người đều gắn liền với các giá trị văn hóa và tuân
theo những quy chuẩn của văn hóa. Khi nhìn nhận, đánh giá một người sống có
văn hóa hay không chúng ta phần lớn dựa vào cách ứng xử của người đó. Như
Đặng Xuân Hoài nhận xét chính trong quan hệ giao lưu, ứng xử những phẩm
chất đạo đức thể hiện mối quan hệ giữa người với người được hình thành [3].
Ứng xử trong tiếng Latinh là taclus chỉ sự tiếp xúc, cảm giác về mức độ
nhờ đó mà có khả năng giữ mình một cách đúng đắn. Trong tiếng Anh khái niệm
ứng xử là tact chỉ sự tế nhị, lịch thiệp, tài xử trí, ứng phó trong hành vi cử chỉ khi
giao tiếp. Lê Thị Bừng [1] định nghĩa ứng xử là sự phản ứng của con người đối
với sự tác động của người khác đến mình trong một tình huống cụ thể nhất định.
Ứng xử thể hiện ở chỗ con người chủ động trong phản ứng có lựa chọn, có tính
toán, thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng - tùy thuộc vào tri thức,
kinh nghiệm và nhân cách của mỗi người nhằm đạt kết quả giao tiếp cao nhất.

42
Theo Phạm Minh Hạc, một trong những sức mạnh văn hóa Việt Nam là phương
thức ứng xử đặc biệt của người Việt Nam trước hiện thực và tôn trọng tình nghĩa.
Theo ông hai phẩm chất này được kết tinh dài lâu từ trong lịch sử của dân tộc,
"đã định hình trong văn hóa người Việt và tạo thành nét ưu trội về lối sống và
phương thức ứng xử" [2, tr. 243-244].
Ứng xử của sinh viên, nhất là sinh viên sư phạm về cơ bản có thể coi là ứng
xử bắt buộc thể hiện qua thái độ và biểu hiện bắt buộc phải theo một chuẩn mực
mà xã hội quy định, đó chính là ứng xử trong nhà trường, trong môi trường sư


phạm và giữa những người có tri thức, được giáo dục toàn diện. Những chuẩn
mực này không thể thay đổi một cách tùy tiện, không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của cá nhân sinh viên trong giao tiếp. Nhận thức của sinh viên sư phạm về
các giá trị văn hóa trong ứng xử không những có ảnh hưởng đến biểu hiện hành
vi trong quan hệ của mỗi cá nhân sinh viên mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với
quá trình rèn luyện nghề - nghề sư phạm. Nói cách khác, nhận thức tốt và trở
thành những mẫu mực trong ứng xử là một yêu cầu nghề đối với sinh viên sư
phạm.
II. NGHIÊN CỨU
1. Khách thể nghiên cứu:
Khách thể nghiên cứu thực trạng: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu thực
trạng nhận thức về các giá trị văn hóa trong ứng xử của 180 sinh viên sư phạm
năm thứ I và thứ IV thuộc ba khối Toán, Tiếng Anh và Tâm lý - Giáo dục trường
Đại học Sư Phạm, Đại học Huế.

43
Khách thể nghiên cứu thử nghiệm: 60 sinh viên năm thứ III khoa Tâm lý -
Giáo dục trường Đại học Sư Phạm Huế.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng kết hợp một hệ thống các phương pháp nghiên cứu tâm lý như
quan sát, điều tra, phỏng vấn, thực nghiệm và thống kê toán học để xử lý kết quả
nghiên cứu.
3. Các giá trị văn hóa khảo sát:
Nội dung 1: Gần gũi, quan tâm và có trách nhiệm với mọi người trong quan
hệ ứng xử.
Nội dung 2: Khiêm tốn, lễ độ, tôn trọng người khác trong quan hệ.
Nội dung 3: Trung thực, có lòng tin với mọi người.
Nội dung 4: Vị tha, độ lượng trong cư xử với người khác.
Nội dung 5: Tế nhị, chân tình trong quan hệ với mọi người.
4. Phương pháp và nội dung tác động thử nghiệm:

1. Tổ chức cho sinh viên tọa đàm về các giá trị văn hóa trong ứng xử.

44
2. Đưa ra các tình huống ứng xử để sinh viên thảo luận và giải quyết.
3. Mời chuyên gia nói chuyện với sinh viên về các phương thức ứng xử có
văn hóa.
II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG
1. Nhận xét chung:
Kết quả nghiên cứu cho thấy nhận thức của sinh viên về các giá trị văn hóa
trong ứng xử còn nhiều hạn chế với  trung bình cho cả năm nội dung là 2.586/3
điểm. Mức độ nhận thức cao nhất là ở nội dung bốn ( = 2.76/3) và thấp nhất là
ở nội dung ba ( = 2.44/3). Cụ thể là 76.1 % sinh viên cho rằng cần phải rộng
lượng, vị tha trong các mối quan hệ. Còn ở nội dung ba chỉ có 53.9% sinh viên
ủng hộ quan điểm cần phải luôn trung thực và có lòng tin với mọi người.
Điểm nổi bật là mặc dù số lượng sinh viên nhận thức sai không đáng kể
nhưng vẫn còn tồn tại một số lượng khá lớn sinh viên nhận thức chưa hòan toàn
đúng. Hiện tượng này xảy ra trên bốn trong tổng số năm nội dung khảo sát, thể
hiện cụ thể như sau:
- 28.9 % sinh viên cho rằng cần quan hệ có chừng mực, không nên gần gũi
hoặc xa lánh ai.
- 42.2 % sinh viên ủng hộ quan điểm chỉ nên tôn trọng những người hơn
mình, lễ độ với thầy cô giáo dạy mình.

45
- 36.7% sinh viên cho rằng chỉ nên trung thực dựa vào mức độ quan hệ.
Kết quả này chỉ ra những hạn chế trong nhận thức của sinh viên đối với các
giá trị văn hóa trong quan hệ ứng xử. Dù không hoàn toàn sai nhưng những mức
độ nhận thức hạn chế trên cho thấy tính chất lệch lạc, nữa vời, không nhất quán
và còn có phần thực dụng trong quan hệ ứng xử của sinh viên. Những phân tích
cụ thể theo giới tính, khối lớp và chuyên nghành hẹp sau sẽ làm rõ hơn kết quả

trên.
2. Kết quả nghiên cứu nhìn từ góc độ giới tính của sinh viên:
Tuy số lượng nữ và nam sinh viên có nhận thức chưa đúng không chênh
lệch đáng kể, chỉ số M cho thấy nhìn chung nữ sinh viên có nhận thức tốt hơn
nam sinh viên đối với các giá trị văn hóa trong quan hệ ứng xử (MNữ: 2.642/3
điểm và MNam: 2.534). Wardhaugh khi nghiên cứu về sự khác nhau trong giới
tính đã cho rằng ngay từ nhỏ nam và nữ được nuôi dạy khác nhau và gánh vác
những vai trò khác nhau trong xã hội [10]. Nam giới và nữ giới ý thức được sự
khác biệt này và có cách ứng xử khác nhau. Những nghiên cứu sau này của
Tannen đã khẳng định lại kết luận trên của Wardhaugh. Thông qua việc tìm hiểu
ngôn ngữ mà nam giới và nữ giới sử dụng trong giao tiếp, Tannen đi đến kết luận
rằng mỗi giới đã có cách cảm nhận và suy nghĩ khác nhau [8]. Kết luận của
Tannen trùng khớp với kết quả nghiên cứu của Sheldon (1992, 1993). Qua những
khảo sát của mình đối với trẻ em Sheldon còn cho rằng sự khác nhau này được
hình thành ngay từ khi còn rất nhỏ [6], [7].
Holmes khẳng định trong giao tiếp, quan hệ ứng xử nữ giới thường để ý
nhiều hơn đến những khía cạnh cá nhân, cảm xúc, và những phản ứng tâm lý có

46
thể có của người mình đang giao tiếp trong khi nam giới chủ yếu quan tâm đến
việc bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ, sở thích của riêng mình chứ không có xu
hướng tự đặt mình vào vị trí của người cùng giao tiếp để phán đoán những phản
ứng có thể của họ [5]. Chính vì thế trong quan hệ và tiếp xúc nữ giới thường
khéo léo và có ưu thế hơn nam giới.
Kết quả khảo sát còn cho thấy dù nữ sinh viên nhìn chung có mức độ nhận
thức về các giá trị văn hóa trong quan hệ tốt hơn nam giới nhưng sự khác nhau
này không nhất quán. Nói cách khác cũng có những nội dung mà mức độ nhận
thức của nam giới được ghi nhận là tương đương hoặc thậm chí cao hơn nữ giới
dù độ chênh lệch không đáng kể. Ví dụ như số lượng nam và nữ sinh viên cho
rằng cần phải trung thực và có lòng tin với những người xung quanh mình ở mức

tương đương nhau (54.4% nam sinh viên và 53.3% nữ sinh viên). Sự không nhất
quán tìm thấy về mức độ khác nhau trong nhận thức của nam sinh viên và nữ
sinh viên đối với các giá trị văn hóa trong ứng xử này phù hợp với nhận định của
Hofstede. Hofstede cho rằng bên cạnh những khác biệt về sinh lý, nam giới và nữ
giới có những khác biệt về những mặt khác như tâm lý, nhận thức, ứng xử tuy
nhiên ông đã nhấn mạnh những sự khác biệt này không mang tính hệ thống [4].
3. Kết quả nghiên cứu nhìn từ góc độ khối lớp của sinh viên
Nhìn chung sinh viên cả hai khối năm I và năm IV có mức độ nhận thức
biểu hiện theo điểm trung bình trên cả năm nội dung khảo sát không chênh lệch
nhau đáng kể (MKhốiI: 2.57/3 điểm và MKhốiIV: 2.604/3 điểm). Tuy nhiên xem
xét cụ thể số liệu cho thấy sự chênh lệch này rất lớn đối với từng nội dung khảo
sát. Cụ thể như sau:

47
- 70% sinh viên khối IV cho rằng cần khiêm tốn, tôn trọng mọi người trong
khi chỉ có 45.6% sinh viên khối I có cùng quan điểm và tới 54.4% sinh viên khối
I quan niệm chỉ nên tôn trọng những người hơn mình, và lễ độ với thầy cô giáo
dạy mình.
- 88.9% sinh viên khối IV cho rằng nên rộng lượng, vị tha trong mọi quan
hệ nhưng chỉ có 63.3% sinh viên khối I có cùng quan điểm này.
- 91.1% sinh viên khối IV quan niệm nên chân tình, tế nhị trong cách cư xử
nhưng chỉ có 67.8% sinh viên khối I đồng ý với ý kiến trên.
Như vậy cần ghi nhận rằng dù độ chênh lệch trong mức độ nhận thức nhìn
trên tổng thể không lớn nhưng nhận thức của sinh viên hai khối đối với từng giá
trị văn hóa trong quan hệ có độ chênh lệch cao. Ngoài ra với kiến thức và kinh
nghiệm sống nhiều hơn sinh viên khối IV cũng có nhận thức về các giá trị văn
hóa trong ứng xử tương đối tốt hơn sinh viên khối I.
4. Kết quả nghiên cứu nhìn từ góc độ chuyên ngành hẹp của sinh viên:
Mức độ nhận thức của sinh viên Tâm lý - Giáo dục cao hơn hẳn so với sinh
viên hai chuyên ngành còn lại và sinh viên khoa Tiếng Anh có mức độ nhận thức

biểu hiện trên điểm trung bình của cả năm giá trị khảo sát là thấp nhất. (MTLGD:
2.834/3 điểm, MToán: 2.555/3 điểm và MTiếngAnh: 2.372/3 điểm). Kết quả này
được thể hiện nhất quán đối với từng giá trị văn hóa cụ thể.

48
Những đặc điểm riêng biệt của chuyên ngành hẹp hay còn được gọi là "văn
hóa bộ môn" như viện sĩ Nguyễn Cảnh Toàn [9] từng nhận xét là một trong
những cách để lý giải kết quả này. Sinh viên khoa Tâm lý-Giáo dục được tiếp
xúc thường xuyên hơn với những kiến thức liên quan đến văn hóa, các giá trị văn
hóa, ứng xử và ứng xử sư phạm trong các chuyên đề của họ nên có thể dể hiểu
được là nhận thức của họ vì thế cũng cao hơn sinh viên hai khoa còn lại. Bên
cạnh đó cũng cần phải nhìn nhận những ảnh hưởng của "văn hóa mục tiêu"
(target culture)-văn hóa của đất nước bản xứ mà ở đó ngôn ngữ họ đang học
được sử dụng như tiếng mẹ đẻ (ví dụ: văn hóa Anh, Mỹ, ) đối với sinh viên
khoa tiếng Anh. Kết quả nghiên cứu cho phép chúng ta khẳng định sự ảnh hưởng
của yếu tố chuyên ngành hẹp lên mức độ nhận thức của sinh viên sư phạm về các
giá trị văn hóa trong ứng xử.

49
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỬ NGHIỆM
Các giá trị văn hóa trong ứng xử
Điểm
Pretest
Điểm
Posttest

Hiệu số

(Xi)
Xi

2
1. Gần gũi, quan tâm và có trách nhiệm với
mọi người
150 151 1 1
2. Khiêm tốn, lễ độ, tôn trọng người khác. 153 162 9 81
3. Trung thực, có lòng tin với mọi người. 148 153 5 25
4. Vị tha, độ lượng trong cư xử với người
khác.
164 171 7 49
5. Tế nhị, chân tình trong quan hệ với mọi
người.
158 159 1 1

X= 23 X
2
= 157

50
Mức độ chênh lệch giữa hai lần đo (Pretest và Posttest) trên nhóm thử
nghiệm được tính như sau:
X X
t = trong đó: X = = 4.6 và
S x n

(X)
2
X
2
_ n
S x = = 1.6 Như vậy: t = 2,875

n (n-1)
Ở mức độ tin cậy 95%, tương ứng  = 0,05. Tra bảng phân phối student -
Fisher, tương ứng với độ tự do df = n-1= 5-1= 4 và mức ý nghĩa  = 0,05 ta có:
t = 2,123. So sánh hai kết quả trên cho thấy t > t .
Như vậy có thể kết luận rằng kết quả thu được có ý nghĩa về phương diện
xác suất thống kê. Nói cách khác các phương pháp tác động đã có ảnh hưởng tích

51
cực đến nhận thức về các giá trị văn hóa trong quan hệ ứng xử của sinh viên sư
phạm thuộc nhóm thử nghiệm.
IV. KẾT LUẬN
Nhận thức đúng đắn các giá trị văn hóa trong ứng xử là một yêu cầu trong
quá trình rèn luyện nhân cách của mỗi cá nhân để có được lối ứng xử có văn hóa
hợp với truyền thống đạo lý của dân tộc. Hơn thế nữa đối với viên sư phạm đây
còn là một yêu cầu nghề.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra một số hạn chế nhất định trong nhận thức của
sinh viên sư phạm đối với các giá trị văn hóa được khảo sát. Bên cạnh đó nghiên
cứu này cũng khẳng định sự ảnh hưởng của hai yếu tố: chuyên ngành hẹp và giới
tính của sinh viên lên nhận thức của họ đối với các giá trị văn hóa trên.
Kết quả nghiên cứu thử nghiệm đã có những ảnh hưởng tích cực lên nhận
thức của sinh viên khối thử nghiệm. Điều này chứng tỏ với các biện pháp tác
động thích hợp nhận thức của sinh viên sư phạm về các giá trị văn hóa truyền
thống trong ứng xử của dân tộc sẽ được nâng cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Bừng. Tâm lý học ứng xử. NXB Giáo dục, Hà Nội (2000)
2. Phạm Minh Hạc. Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1996)

52
3. Đặng Xuân Hoài. Nhân cách và cơ chế tâm lý xã hội của sự hình thành

nhân cách. Tạp chí Tâm lý học. Tập 6, Số 30 (2001) 5 - 8.
4. Hofstede, G. Cutural consequences: Comparing values, behaviours,
institutions, and organizations across nations (2nd. Edition). Sage
Publications (2001)
5. Holmes, Janet. Good listeners: Gender differences in New Zealand
conversation, Women and Language, Vol 20, No.2, (1997) 7-14.
6. Sheldon, A. Preschool girlds' discourse competece: Managing conflict,
Language, gender and sex incomparative perspective, In Hall, K.,
Bucholtz, M., Moonwomon, B. (Eds.), Cambridge Universtity Press
(1992)
7. Sheldon, A. Pickle fights: Gendered talk in preschool Disputes, Gender
and conversational interaction In Tannen, D.(Ed.), Oxford University
Press (1993)
8. Tannen, Deborah. You just don't understand: Men and women in
conversation, London: Virago (1992).
9. Nguyễn Cảnh Toàn. Học đi đôi với hành ngày nay. Báo Giáo dục thời
đại chủ nhật. Tập 3, Số 370 (2002) 8 - 9.

53
10. Wardhaugh, Ronald. An introduction to sociolinguistics, Kateprint Co.
Ltd. Oxford. (1988).
TÓM TẮT
Có nhận thức đúng đắn và xác định cho mình một phương thức ứng xử phù
hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc luôn là một yêu cầu đối với mọi cá
nhân và cộng đồng. Điều này còn đặc biệt có ý nghĩa hơn đối với sinh viên sư
phạm, những người gánh vác trọng trách giáo dục đào tạo thế hệ trẻ cho đất
nước. Bởi chỉ khi nào có nhận thức tốt và trở thành những mẫu mực trong ứng
xử thì họ mới có thể trở thành những tấm gương cho đối tượng mà họ giáo dục.
Kết quả nghiên cứu của đề tài này cho thấy còn nhiều hạn chế trong nhận thức
của sinh viên sư phạm về các giá trị văn hóa trong ứng xử. Mặt khác nó cũng chỉ

ra những ảnh hưởng của các yếu tố như giới tính và chuyên ngành hẹp lên mức
độ nhận thức của sinh viên đối với các giá trị văn hóa được khảo sát. Kết quả
nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng nhận thức của sinh viên sẽ được nâng cao
nếu có những biện pháp tác động thích hợp.

COLLEGE - OF - PEDAGOGY STUDENTS' PERCEPTION
OF TRADITIONAL CULTURAL VALUES IN MANNERS OF TACT
Nguyen Van Bac

54
College of Pedagogy, Hue University

SUMMARY
Having proper perception of traditional cultural values in manners of tact
has been a need for each person as well as each community. This need is even
greater and more significant for college-of-pedagogy students, who are, in the
future, assigned to educate the young generation for the country. It is because
they cannot become good examples for their students until they themselves do not
have exemplary manners of tact. The findings of the present research, on one
hand, have shown some shortcomings of college - of - pedagogy students'
perception of traditional cultural values in manners of tact. On the other hand,
they have confirmed the influence of such factors as students' gender and major
on the level of their perception. The result of the experiment has also revealed
that students' perception of traditional cultural values in manners of tact will be
improved when proper methods are implemented.



×