Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

tiểu luận vấn đề môi trường trong kinh doanh quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.68 KB, 32 trang )

QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA THƯƠNG MẠI DU LỊCH

TIỂU LUẬN MÔN:
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ
TÊN ĐỀ TÀI:
CÁC VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUỐC TẾ

GVHD : T.s Mai Thanh Hùng
Lớp học phần :
Nhóm : 12
TP.Hồ Chí Minh tháng 6 năm 2014
Nhóm 12 Trang 1

QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN





































Nhóm 12 Trang 2
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH QUỐC TẾ
1.1 Tổng quan về môi trường
1.1.1 Khái niệm về các loại môi trường

Môi trường là tổng hợp tất cả điều kiện xung quanh một điểm trong không gian và
thời gian. Môi trường là tổng hợp tất cả các ngoại lực, ảnh hưởng, điều kiện tác động
lên đời sống, tính chất, hành vi và sự sinh trưởng, phát triển và trưởng thành của các cơ
thể sống.
Môi trường bao gồm 4 thành phần
Khí quyển: khí quyển là lớp khí bảo vệ bao quanh trái đất bao gồm nitrogen, oxygen,
ngoài ra còn có argon, CO2, và một số loại khí khác.
- Nó duy trì sự sống trên trái đất
- Nó bảo vệ trái đất khỏi những tác động từ ngoài không gian
- Nó hấp thu các tia từ vũ trụ và phần lớn bức xạ ánh sáng mặt trời
- Nó chỉ cho phép các tia có bước sóng từ 300 – 2500 nm và 0.14 – 40 m (sóng radio)
đi vào trái đất trong khi lọc hầu hết các sóng tử ngoại có hại (< 300 nm)
Thủy quyển: thủy quyển bao gồm tất cả các loại nguồn nước như: nước đại dương,
sông hồ, nước đóng băng, nước ngầm
- 97% là nước ở các đại dương
- 2% là nguồn nước bị đóng băng ở các cực
- 1% là nước ngọt ở các sông hồ, nước ngầm phục vụ cho nhu cầu con người và các
nhu cầu khác.
Địa quyển: là lớp đất ở võ của trái đất bao gồm các khoáng chất, chất hữu cơ, vô cơ…
Nhóm 12 Trang 3
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
Sinh quyển: Bao gồm tất cả các sinh vật sống và tương tác với môi trường khí, nước
và đất.
1.1.2 Tình trạng ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường đang là một vấn đề bức xúc đối với môi trường đô thị,
công nghiệp và các làng nghề. Ô nhiễm môi trường có tác động xấu đối với sức khoẻ
con người (đặc biệt là gây ra các bệnh đường hô hấp), ảnh hưởng đến các hệ sinh thái
và biến đổi khí hậu (hiệu ứng "nhà kính", mưa axít và suy giảm tầng ôzôn), Công
nghiệp hoá càng mạnh, đô thị hoá càng phát triển thì nguồn thải gây ô nhiễm môi
trường không khí càng nhiều, áp lực làm biến đổi chất lượng không khí theo chiều

hướng xấu càng lớn, yêu cầu bảo vệ môi trường không khí càng quan trọng.
Sau hơn 30 năm kể từ hội nghị đầu tiên về môi trường của thế giới (Stockholm 1972)
đến nay, cộng đồng thế giới đã có nhiều nổ lực để đưa vấn đề môi trường vào các
chương trình nghị sự ở cấp quốc tế và quốc gia. Tuy vậy hiện trạng môi trường toàn
cầu được cải thiện không đáng kể, môi trường chưa được lồng ghép với kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội. Dân số toàn cầu tăng nhanh, sự nghèo đói, sự khai thác, tiêu thu
quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự thải ra quá mức “khí nhà kính”…là
những vấn đề bức xúc có tính phổ biến trên toàn cầu. trong tuyên bố Johanesburg về
phát triển bền vững 2002 của liên hiệp quốc đã khẳng định về những thách thức mà
nhân loại đang và sẽ phải đối mặt có nguy cơ toàn cầu là: “môi trường toàn cầu tiếp tục
trở nên tồi tệ, suy giảm đa dạng sinh học tiếp diễn, trữ lượng cá tiếp tục giảm sút, sa
mạc hóa cướp đi ngày càng nhiều đất đai màu mỡ, tác động tiêu cực của biến đổi khí
hậu đã hiển hiện rõ ràng. Thiên tai ngày càng nhiều và ngày càng khốc liệt. Các nước
đang phát triển trở nên dễ bị tổn hại hơn. Ô nhiễm không khí, nước và biển tiếp tục lấy
đi cuộc sống thanh bình của hàng triệu người”
Đối với vấn đề môi sinh toàn cầu, từ cuối thế kỷ XX đến nay khắp nơi trên thế
giới người ta luôn lo ngại về nguy cơ thay đổi khí hậu toàn cầu theo chiều hướng xấu
đi. Nguyên nhân của của những hiện tượng đó là do khí điôxít cacbon thải vào khí
quyển ngày càng tăng dẫn đến sự nóng lên của trái đất mà thủ phạm trực tiếp là do các
chất khí thải độc hại thải ra từ đời sống và từ sản xuất thông qua các thiết bị công
nghiệp. Sự biến đổi của khí hậu là một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với loài
Nhóm 12 Trang 4
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
người, nó không chỉ đe dọa sự tồn vong của con người mà còn uy hiếp cả tương lai của
trái đất.
Có liên quan đến tình trạng ô nhiễm khí quyển mấy chục năm qua là sự suy
thoái rừng, nguyên nhân chính của tình trạng này là do quy mô chặt phá, sử dụng rừng,
gỗ…vào những mục đích thực dụng hoặc không hợp lý. Cùng với tình trạng đó thì việc
sói mòn đất canh tác, sự tuyệt chủng của hàng ngàn loài sinh vật đang góp phần làm
nhanh chóng thay đổi tình trạng sinh quyển nói chung.

Bên cạnh sự thay đổi khí hậu toàn cầu, ô nhiễm khí quyển thì một trong những báo
động cấp thiết của các tổ chức bảo vệ môi trường đối với các chính phủ là báo động về
sự suy kiệt nguồn nước. Nạn khan hiếm nguồn nước sạch do ô nhiễm môi trường dẫn
đến làm hỏng các nguồn nước đang đe dọa hoạt động sản xuất nông nghiệp và sức
khỏe của con người ở nhiều quốc gia trên thế giới. Thiếu nước sạch cũng là nguyên
nhân chính gây ra cái chết của 12 triệu người mỗi năm.Môi trường suy thoái, các dạng
tài nguyên đang cạn kiệt đã làm giảm tính đa dạng sinh học của trái đất, trực tiếp vi
phạm quy luật phát triển của tự nhiên.
Đối với Việt Nam, mặc dù nền kinh tế thị trường, quá trình đô thị hóa và công nghiệp
hóa chỉ mới thực sự bắt đầu, song môi trường sống của người dân trên khắp đất nước
đã phỉ gánh chịu không ít những tác động tiêu cực của sự phát triển. Nhìn tổng thể,
thực trạng môi trường tự nhiên ở nước ta đang đặt ra các vấn đề chủ yếu như: Các
nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng, đất, nước ngọt, khoáng sản…đang suy giảm
nhanh, khan hiếm dần hoặc cạn kiệt; Môi sinh bị ô nhiễm và ô nhiễm nặng bởi các
chất thải sinh hoạt, các chất thải công nghiệp và các chất thải hóa học bị lạm dụng
trong sản xuất nông nghiệp…Các sự cố môi trường do thiên tai và do con người gây ra.
Tác giả bài viết cho rằng tình trạng ô nhiễm môi trường, suy kiệt các nguồn tài nguyên
thiên nhiên ở nước ta không phải bây giờ mới xuất hiện mà nguyên nhân là do chính
sách khai thác tự nhiên từ trong quá khứ và đặc biệt là hậu quả của hàng chục năm
chiến tranh. Thêm nữa là do sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho con người khai thác
và sử dụng tài nguyên thiên nhiên và tàn phá môi trường.
1.1.3 Các tác động của con người đến môi trường
Nhóm 12 Trang 5
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
Nhân loại sinh tồn và phát triển phải dựa vào môi trường địa lý, trong quá trình
sinh sống và sản xuất của loài người, cũng thường xuyên ảnh hưởng đến môi trường tự
nhiên. Tùy theo sự phát triển của lịch sử và sức sản xuất xã hội nâng cao, loài người
càng ảnh hưởng sâu sắc đối với môi trường tự nhiên, và ảnh hưởng bất lợi cho con
người gây ra đối với môi trường tự nhiên cũng càng nhiều.

1.1.3.1 Những tác động tiêu cực của con người.
Bao nhiêu năm tháng rất dài sau khi loài người ra đời, trình độ sản xuất vẫn còn
rất thấp, loài người để sinh tồn được chỉ biết thích nghi và lợi dụng môi trường, rất ít
có ý thức cải tạo môi trường.
Nhân loại từ trong thực tiễn xã hội lâu dài đã học biết được cách thuần hoá động
vật và thực vật, xuất hiện nghề nông và nghề chăn nuôi, đây là cuộc đại cách mạng lần
thứ nhất trong lịch sử phát triển sản xuất của nhân loại. Theo sự nâng cao trình độ sức
sản xuất, xuất hiện chợ mua bán tập trung, thị trấn và thủ công nghiệp. Thời gian này,
chỉ xét về mặt ỷ lại, lợi dụng môi trường và tài nguyên, không xét đến mặt bảo vệ đối
với chúng, đã xuất hiện sự chặt rừng bừa bãi, đồng cỏ thoái hoá, độ phì nhiêu của đất
giảm sút, dẫn đến sự trôi mất đất và nước rất nghiêm trọng.
Theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ sản xuất nâng lên nhanh
chóng, loài người lợi dụng và tiêu hao tài nguyên tự nhiên càng lúc càng tăng nhanh,
việc nhân loại lợi dụng và cải tạo môi trường tăng lên, đồng thời cũng khiến số nhân
khẩu từ nông thôn tập trung ra thành thị, quy mô thành thị mở rộng, số lượng không
ngừng tăng lên, ở các thành phố công nghiệp, nhà máy mọc lên khắp nơi, trên không
mù mịt khói, mặt đất nước bẩn chảy tràn, rác và phế thải công nghiệp chất đóng như
núi, gây ô nhiễm môi trường một cách đáng sợ.
1.3.1.1.1 Quá trình công ngiệp hóa và đô thị hóa.
Quá trình này mới xuất hiện cách đây chưa lâu, vào khoảng giữa thế kỉ XVIII
với sự ra đời của đầu máy hơi nước. Tiếp theo đó là việc chế tạo được hàng loạt các
loại máy móc khác sử dụng cho nhiều ngành sản xuất công nghiệp và giao thông vận
tải. Sự phối hợp các loại máy móc đó làm thành một hệ thống kĩ thuật mới, tạo điều
kiện cho nền đại sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển. Đây là cuộc cách mạng kĩ thuật
lần thứ hai. Cuộc cách mạng này nổ ra đầu tiên ở nước Anh, sau đó lan rộng ra các
Nhóm 12 Trang 6
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
nước Châu Âu khác và Bắc Mĩ vào đầu thế kỉ XIX. Đến cuối thế kỉ XIX lại có thêm
các máy phát điện và động cơ điện ra đời, từ đấy máy móc đi vào nhiều ngành sản
xuất, tạo ra năng suất lao động và khối lượng hàng hóa lớn. Sản xuất phát triển, nhu

cầu sử dụng các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu ngày càng nhiều, đòi hỏi việc khai thác
các nguồn tài nguyên ngày càng mở rộng, các nhà máy mọc lên ngày một nhiều, lượng
khí thải và các chất thải công nghiệp thải ra môi trường ngày càng lớn. Đó là nguồn
gốc gây ra những tác động to lớn đối với môi trường.
Việc khai thác các mỏ quặng là tác nhân gây phá hủy các cảnh quan tự nhiên, đất đai,
cây rừng và hệ động vật sống trong các khu vực đó. Việc tăng cường sử dụng các
nguồn nhiên liệu mà chủ yếu là nguyên liệu truyền thống không những làm cho tài
nguyên bị cạn kiệt mà còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Hàng năm các ngành
sản xuất công nghiệp thải ra khí quyển một lượng lớn các chất gây hiệu ứng nhà kính,
trong đó chủ yếu là hàm lượng CO¬2, ngoài ra sự phát thải các khí khác như metan,
CFC (clorofluorocacbon), oxit nitơ…cũng góp phần làm tăng hiệu ứng nhà kính.
Trong các hoạt động kinh tế làm tăng hiệu ứng nhà kính thì việc sử dụng năng lượng
chiếm 49%, công nghiệp 24%, nông nghiệp 13% và phá rừng là 14%. Trong đó các
nước công nghiệp phát triển chính là những nước phát thải CO2 nhiều nhất thế giới.
Hoa Kì là một trong những nước phát thải lớn nhất các loại khí gây hiệu ứng nhà kính,
nhưng chính phủ Hoa Kì lại không tham gia kí Nghị định thư Kyôtô.
Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp đặc biệt là một số nước
công nghiệp mới nên lượng phát thải khí thải và các chất thải gây hiệu ứng nhà kính
ngày càng tăng cao, gây ra các biến đổi theo chiều hướng tiêu cực của môi trường tự
nhiên.
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, thì đô thi hóa cũng phát triển nhanh chóng.
Đô thị hóa là hiện tượng nổi bật của nền văn minh hiện đại do sự phát triển của công
nghiệp và sự bùng nổ dân số trên toàn thế giới. Tại các vùng đô thị, thiên nhien hầu
như bị biến đỏi hoàn toàn và thay thế vào đó là các công trình nhân tạo. Các thành phố
không những là nơi tập trung dân cư đông, mà cũng là nơi tập chung nhiều nhà máy, xí
nghiệp công nghiệp, vì thế một mặt đây là nơi tiêu thụ lương thực, thực phẩm, vật liệu
xây dựng, nguồn nước và năng lượng rất cao. Mặt khác, đây là nơi tập chung các chất
thải công nghiệp, sinh hoạt và tiếng ồn, nguồn gốc gây ô nhễm mạnh cho môi trường
không khí, đất và nước.
Nhóm 12 Trang 7

QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
Một điểm đáng chú ý khác là, thời kì công nghiệp hoá cũng là thời kì chủ nghĩa
thực dân phát triển mạnh. Các nước thuộc địa trở thành nơi bóc lột sức lao động và nơi
vơ vét các nguồn tài nguyên của bọn đế quốc. Nguồn tài nguyên của nhiều nước thuộc
địa, đặc biệt là tài nguyên rừng và động vật hoang dã bị khai thác tàn bạo và suy giảm
nhanh chóng, trong đó có một số loài quý hiếm bị tuyệt chủng. Như vậy, trải qua các
quá trình phát triển của xã hội, nhất là trong giai đoạn công nghiệp và hậu công nghiệp,
những tác động tiêu cực của con người đến môi trường hết sức mạnh mẽ. Con người
làm cho các nguồn tài nguyên không tái tạo bị cạn kiệt dần, nguồn tài nguyên sinh học
và đát bị suy thoái, các hệ sinh thái tự nhiên bị biến đổi, môi trường bị ô nhiễm và từ
đó suy giảm cuộc sống của chính mình
1.3.1.1.2 Quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp.
Song song với quá trình phát triển công nghiệp thì ngành nông nghiệp cũng
ngày càng phát triển nhờ việc ứng dụng những thành tựu của công nghiệp. Nền sản
xuất nông nghiệp ngày càng được hiện đại hoá, các sản phẩm nông nghiệp ngày càng
phong phú và đa dạng, năng suất chất lượng tăng cao. Nhưng bên cạnh đó nó cũng gây
những tác động không nhỏ đến môi trường tự nhiên. Việc sử dụng phân bón không hợp
lí, dù là phân hữu cơ hay vô cơ đều gây hại tiềm tàng đến môi trường. Một trong những
vấn đề nghiêm trọng nhất là việc sử dụng chất dinh dưỡng không cân đối làm cho đất
bị mất độ phì, giảm năng suất cây trồng và môi trường bị suy thoái, đặc biệt là làm ô
nhiễm nguồn nước. Theo số liệu của Viện Tài nguyên thế giới, năm 2000, tính chung
cho 100 nước sử dụng nhiều phân bón nhất thế giới thì bình quân 1ha sử dụng 110kg
phân bón quy chuẩn, còn tính bình quân 10 nước đứng đầu thế giới là 357kg. Việt Nam
đã thuộc nhóm 10 nước sử dụng phân bón nhiều nhất thế giới.
Sự ra tăng sử dụng các loại chất bảo vệ thực vật như: thuốc trừ sâu, thuốc diệt
cỏ, … thêm vào đó là chất thải không được xử lí, chính điều đó đã gây nên tình trạng ô
nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước tại các vùng nông thôn, một số loại thiên địch
bị suy giảm, sức khỏe của người dân bị ảnh hưởng, tình trạng bệnh tật gia tăng, các
chất này sử dụng lâu dài sẽ làm giảm chất lượng của đất, nước, năng suất, chất lượng
cây trồng sẽ dần bị ảnh hưởng.

Nhóm 12 Trang 8
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
Ngoài ra, việc áp dụng các phương tiện máy móc hiện đại vào sản xuất là nguyên nhân
tiềm tàng làm phá vỡ kết cấu của đất, lâu dài sẽ làm cho chất lượng đất bị suy giảm.
1.3.1.1.3 Ảnh hưởng của quá trình bùng nổ dân số.
Theo các công trình nghiên cứu, từ giữa thế kỉ thứ XX trở lại đây, dân số thế giới ngày
càng tăng nhanh. Vào năm 1950 tổng dân số thế giới là 2508 triệu người, và từ đó trở
đi số dân tăng trung bình hàng năm qua các thập niên với thời gian sau cao hơn thời
gian trước. Cụ thể như sau:
1950 – 1960: 50,2 triệu người
1960 – 1970: 62,2 triệu người
1970 – 1980: 78,3 triệu người
1980 – 1990: 87,8 triệu người
Nếu tính khoảng thời gian dân số thế giới tăng thêm 1 tỷ người hoặc tăng thêm
gấp đôi thì đều ngày càng rút ngắn lại.
Khoảng thời gian để dân số tăng thêm 1 tỷ người và thời gian để dân số tăng gấp
đôi.
Sự tăng nhanh dân số trong một khoảng thời gian ngắn như vậy được gọi là sự
bùng nổ dân số. Tuy nhiên, sự bùng nổ dân số trong thế kỉ XX xảy ra chủ yếu ở các
nước đang phát triển.
Khi dân số tăng lên, các nhu cầu về ăn mặc, nơi ở, việc đi lại, học hành, vui chơi
giải trí…đều tăng lên. Để đáp ứng các nhu cầu đó, con người phải tăng cường khai thác
tài nguyên thiên nhiên, cùng với nó là việc phát triển sản xuất và đô thị hoá cũng được
mở rộng, làm cho lượng chất thải đổ vào môi trường ngày càng tăng.
1.3.1.1.4 Diện tích và chất lượng rừng ngày càng suy giảm.
Rừng có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, trong đời sống xã hội
và việc bảo vệ môi trường sinh thái. Nhưng trong những năm qua diện tích và chất
lượng rừng trên thế giới ngày càng bị suy giảm. Nguyên nhân là do tình trạng khai thác
quá mức của con người. sự suy giảm đó được thể hiện qua một số bảng số liệu sau.
Như vậy trung bình mỗi năm trên thế giới có khoảng 9,5 triệu ha rừng bị phá hủy.

Cùng với sự gia tăng dân số, kết quả là diện tích rừng tính bình quân theo đầu người bị
giảm mạnh.
Nhóm 12 Trang 9
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
Độ che phủ rừng thấp nhất ở Châu Á và Châu Phi, còn tốc độ mất rừng nhanh
nhất là ở Châu Phi (0,78%/ năm). Nguyên nhân chính là do quy mô dân số đông, gia
tăng dân số nhanh kết hợp với sự bùng nổ của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa
cùng với nhu cấu ngày càng tăng về đất trồng và nguồn nguyên liệu gỗ. Rừng ở các
khu vực này đều là các cánh rừng nhiệt đới. Việc khai thác gỗ bừa bãi hoặc phá rừng
để phát triển nông nghiệp chỉ đêm lại chút lợi trước mắt chứ không phải là cách sử
dụng tối ưu nhất. Ngoài các nguyên nhân nói trên, việc phá rừng nhiệt đới còn do nhu
cầu của thị trường và cả việc chính quyền địa phương và người dân có xu hướng chỉ
đơn thuần chú ý đến mặt kinh tế, mà chưa quan tâm tới giá trị bảo vệ môi trường sinh
thái của rừng.
1.3.1.2 Những hành động mang tính tích cực của con người.
Con người đang ngày càng nhận ra những biến đổi của tự nhiên theo hướng bất
lợi, và cũng nhận ra được nguyên nhân chủ yếu là do chính con người, vì vậy chúng ta
đã và đang có những hành động tích cực.
Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật và những nghiên cứu mới giúp chúng ta
tìm ra được các giải pháp nhằm hạn chế sự thay đổi của môi trường. Chúng ta đã biết
cách tận dụng các dạng năng lượng tự nhiên mới thay thế cho các năng lượng truyền
thống như: năng lượng gió, mặt trời, thủy triều, điều này góp phần hạn chế việc khai
thác sử dụng các năng lượng cũ, giảm sự phát thải các chất khí gây hiệu ứng nhà kính.
Các nước ứng dụng các công nghệ này chủ yếu là các nước phương Tây có nền kinh tế
phát triển, khoa học kĩ thuật tiên tiến.
Một diện tích rừng bị mất trước kia nay đang được phục hồi dần dần,tuy các diện
tích rừng trồng lại không có nhiều giá trị như rừng nguyên sinh, song nó cũng góp một
phần vào việc phục hồi dần dần chất lượng của môi trường hiện nay. Các nước trên thế
giới đã và đang tích cực trong việc phục hồi lại diện tích rừng đã mất ở mỗi nước.
Tuy đã có những biểu hiện của sự cố gắng của con người cho việc bù đắp lại

những gì mà mình gây ra, nhưng những cố gắng đó là vẫn chưa đủ.
Cho nên, để loài người được sinh tồn tốn hơn, xã hội nhân loại phát triển một
cách bình thường, cần phải bảo vệ môi trường tự nhiên, giữ vững cân bằng sinh thái,
đó là nhiệm vụ chung của toàn thể loài người
1.2. Hoạt động kinh doanh quốc tế tác động đến môi trường.
Nhóm 12 Trang 10
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
Toàn cầu hoá và hội nhập vào nền kinh tế thế giới không còn là xu thế, mà đã trở thành
một thực tế đối với tất cả các nước, từ giàu đến nghèo, từ lớn đến nhỏ. Hội nhập quốc
tế, mà biểu hiện quan trọng nhất là các hoạt động kinh doanh quốc tế sẽ trực tiếp hoặc
gián tiếp tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống, cả kinh tế, chính trị, khoa học công
nghệ, văn hóa, xã hội, giáo dục, an ninh và quốc phòng , đặc biệt là vấn đề môi trường
của bất kỳ quốc gia nào, trong đó có Việt Nam.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đem lại nhiều lợi ích cả về kinh tế và về môi trường
đối với mọi quốc gia, đặc biệt là với các nước đang phát triển như Việt Nam. Song, quá
trình hội nhập cũng đặt ra những thách thức to lớn đối với vấn đề bảo vệ môi trường
(BVMT), đòi hỏi chúng ta phải nhận thức rõ để có những biện pháp chủ động đối phó.
1.2.1. Tích cực
 Đem lại cơ hội cho các nước tham gia các nhóm chuyên đề về môi trường của
các tổ chức kinh tế quốc tế, từ đó có thể thu nhận thông tin, kiến thức về
BVMT, nhận thức được mối liên hệ và tác động qua lại giữa thương mại quốc tế
và môi trường, học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong việc xử lý hài hòa giữa lợi ích
kinh tế của thương mại quốc tế và BVMT với mục tiêu phát triển bền vững.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều nước đã và đang phát triển phải trả giá đắt
cho quá trình công nghiệp hóa trước đây, mà không chú trọng đúng mức đến
BVMT. Điển hình là các vấn đề về ô nhiễm nguồn nước, không khí do các chất
thải không được xử lý hoặc xử lý không đúng cách và vấn đề cạn kiệt tài nguyên
do khai thác quá mức cho phép.
 Đem đến cơ hội cho các nước nghèo, đang phát triển tiếp thu công nghệ cao,
công nghệ sạch hơn và công nghệ ít phát sinh chất thải. Ví dụ, trong những năm

qua, nhiều dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đem theo những công
nghệ tiên tiến, ít gây ô nhiễm, sử dụng nguyên liệu hiệu quả hơn. Các công ty đa
quốc gia thường áp dụng chính sách môi trường chung cả đối với các công ty
con của họ khi đầu tư vào Việt Nam. Nhiều mô hình quản lý ô nhiễm công
nghiệp tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trở thành những điển
hình tốt để các doanh nghiệp trong nước học hỏi.
Nhóm 12 Trang 11
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
 Đem đến cho các nước đang phát triển cơ hội tiếp nhận các nguồn vốn ODA,
trong đó có vốn dành cho các dự án môi trường. Điều này một mặt góp phần
nâng cao năng lực của các nước trong công tác BVMT, mặt khác đã phần nào
hỗ trợ xử lý được những vấn đề môi trường hết sức cấp bách đang nổi lên gay
gắt trong nước, trong khi khả năng về tài chính, về kỹ thuật của họ còn hạn chế
(chẳng hạn các vấn đề bảo vệ nguồn nước, xử lý nước thải công nghiệp, nước
sinh hoạt, bảo vệ rừng và động vật quý hiếm ).
 Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang tạo ra sức ép để các nhà sản xuất ở các
nước đang phát triển như Việt Nam chú trọng hơn vào công tác BVMT, do các
nước phát triển rất coi trọng vấn đề vệ sinh môi trường và thường ban hành các
quy định khắt khe về tiêu chuẩn vệ sinh – môi trường gắn liền với hoạt động
thương mại và đầu tư (chẳng hạn, các yêu cầu khắt khe của Mỹ và Châu Âu về
vệ sinh thực phẩm đối với hải sản xuất khẩu, chè xuất khẩu - không được dùng
thuốc trừ sâu, đạm vô cơ ). Chính vì vậy, để mở rộng thị trường xuất khẩu
hàng hóa sang các nước phát triển, các nhà sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam
phải chú ý hơn về bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh – môi trường cho phù hợp với các
quy định khắt khe của các nước nhập khẩu.
1.2.2. Tiêu cực
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực kể trên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng có
thể tạo ra những thách thức lớn về môi trường mà các nước, đặc biệt là các nước đang
phát triển đang và có thể sẽ phải đối mặt như:
 Sự gia tăng xuất khẩu các mặt hàng từ nguồn tài nguyên không tái tạo và việc

khai thác bừa bãi các nguồn tài nguyên tái tạo sẽ gây nguy cơ cạn kiệt nguồn tài
nguyên và gây ô nhiễm môi trường ở nước ta
 Hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cơ hội cho các doanh nghiệp đẩy mạnh sản
xuất nhằm đáp ứng nhu cầu to lớn của thị trường quốc tế, nhưng cũng có thể gia
tăng các tác động bất lợi đến môi trường, chẳng hạn, sản xuất phát triển mạnh,
trong khi máy móc thiết bị lạc hậu và doanh nghiệp chưa có ý thức xử lý chất
thải công nghiệp, thì mức độ ô nhiễm môi trường sẽ ngày càng trầm trọng (ô
nhiễm nước, không khí ; Công ty Vedan là một ví dụ điển hình). Mặt khác, các
Nhóm 12 Trang 12
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
ngành nông nghiệp như trồng trọt và chăn nuôi cũng có nhiều cơ hội để sản xuất
thâm canh, gia tăng sản lượng nhưng cũng có thể dẫn đến nguy cơ phá huỷ tài
nguyên thiên nhiên, thoái hoá môi trường đất do khai thác, trồng trọt và chăn
nuôi bất hợp lý, lạm dụng phân bón, thuốc trừ sâu
 Việc nhập khẩu của các nước nghèo như Việt Nam chủ yếu là nguyên liệu và
công nghệ mà trong nước không có, nhưng chưa phải là công nghệ hiện đại nhất
và chủ yếu từ thị trường các nước trong khu vực: nhập khẩu từ các nước Châu Á
chiếm hơn 75% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, do công nghệ của các
nước phương Tây thường có giá thành cao. Do trình độ quản lý và kỹ thuật của
Việt Nam còn hạn chế, nên đã có nhiều trường hợp nhập khẩu cả những công
nghệ lạc hậu (mà nước xuất khẩu không còn sử dụng nữa) hoặc nhập khẩu
những loại động vật, hàng hoá gây tác động tiêu cực cả về kinh tế và môi
trường (như trường hợp nhập ốc bươu vàng, rùa tai đỏ, lúa năng suất thấp, giống
cây không trái ).
 Do trình độ công nghệ và kỹ thuật của doanh nghiệp còn thấp, cộng thêm trình
độ của cán bộ quản lý còn hạn chế, nên các nước nghèo khó có thể đưa ra được
những quy định có lợi để kiểm soát ô nhiễm môi trường do các hoạt động nhập
khẩu và đầu tư gây ra. Điều này có thể dẫn đến những hậu quả môi trường
nghiêm trọng mà họ phải gánh chịu. Mặt khác, việc thiếu hiểu biết về luật lệ
quốc tế và những quy định về môi trường trong các hiệp định thương mại quốc

tế cũng là một nguy cơ làm cho họ có thể bị thua thiệt trong các cuộc đàm phán
song phương hay đa phương.
 Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong khi khuôn khổ luật pháp chưa hoàn
thiện, thực hiện pháp luật chưa nghiêm đi kèm với năng lực quản lý và giám sát
thực hiện luật hạn chế, đã và sẽ dẫn đến một số hoạt động ảnh hưởng tiêu cực
đến môi trường như: buôn lậu động vật và tài nguyên quý hiếm, chặt phá rừng
bừa bãi Mặt khác, việc áp dụng các chính sách, công cụ kiểm soát ô nhiễm và
bảo vệ môi trường trong phát triển kinh tế là không dễ, do có thể dẫn đến làm
giảm năng lực cạnh tranh quốc tế của hàng hoá các nước.
Nhóm 12 Trang 13
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG
2.1 Công ty trong nước tác động đến môi trường:
Tại Việt Nam các nguồn gây ô nhiễm môi trường từ các khu, cụm công nghiệp,
khu kinh tế đang gia tăng nhanh về số lượng, quy mô và mức độ, tác động xấu lên
môi trường, làm cho môi trường đất, nước, không khí nhiều nơi bị ô nhiễm, có nơi đã
đến mức nghiêm trọng có nguy cơ vượt ngưỡng chịu đựng của các hệ sinh thái, ảnh
hưởng nhiều mặt đến đời sống kinh tế-xã hội, điều kiện sống và sức khỏe của nhân
dân. Những năm gần đây, tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của các tổ
chức, doanh nghiệp ngày càng tinh vi, gia tăng, diễn biến phức tạp, gây ra những tác
động tiêu cực đến môi trường và đời sống kinh tế - xã hội. Thời gian 6 tháng đầu năm
2013, lực lượng Cảnh sát Phòng chống tội phạm về môi trường đã phát hiện 6.347 vụ
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, tăng 55,95% so với cùng kỳ năm 2012.
Vấn đề ô nhiễm môi trường đã và đang ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn ở
Việt Nam.
Về nước thải: Đa số các KCN, KCX đều phát triển sản xuất đa ngành, đa lĩnh vực nên
phát thải nhiều loại nước thải khác nhau. Việc gom và xử lý chung là khó khăn. Mặc
dù số lượng các nhà máy xử lý nước thải tập trung đã tăng lên nhưng theo báo cáo của
các ban quản lí các KCN, tại khu vực xung quanh KCN, KCX ở một số địa phương,
một số tiêu chuẩn nước thải vượt quá quy định cho phép. Nguyên nhân là do việc vận

hành và kiểm tra vận hành nhà máy xử lý nước thải chưa có quy định pháp luật cụ thể,
cũng như chưa có chế tài xử phạt có tính răn đe cao cho nên một số KCN không vận
hành các trạm xử lý nước thải liên tục.
Về khí thải: Mặc dù các doanh nghiệp đã có ý thức thực hiện nhưng trang thiết bị phục
vụ công tác này chủ yếu còn sơ sài, đơn giản, chưa giảm thiểu triệt để ảnh hưởng của
khí thải gây ra đối với môi trường xung quanh. Chất lượng môi trường không khí tại
các KCN, đặt biệt là các KCN được thành lập trên cơ sở các doanh nghiệp cũ có sẵn
với công nghệ sản xuất lạc hậu hoặc chưa được đầu tư hệ thống xử lý khí thải đang bị
suy giảm. Bên cạnh đó, vấn đề ô nhiễm môi trường không khí trong các cơ sở sản xuất
của các KCN cũng là vấn đề cần được quan tâm. Cụ thể như các đơn vị chế biến thủy
sản, sản xuất hóa chất đang gây ô nhiễm tại chính các cơ sở sản xuất đó và đã tác động
không nhỏ đến sức khỏe người lao động.
Nhóm 12 Trang 14
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
Về chất thải nguy hại và chất thải rắn: Một số doanh nghiệp trong KCN, KCX không
thực hiện đăng ký nguồn thải theo quy định, có doanh nghiệp tự lưu giữ chất thải, gây
ô nhiễm cục bộ. Tại một số địa phương, còn chưa có doanh nghiệp thu gom, xử lý chất
thải nguy hại cho doanh nghiệp thứ cấp trong KCN, KCX, nên chất thải nguy hại
không được quản lý, xử lý theo quy định, nảy sinh nguy cơ về ô nhiễm môi trường.
Về chất thải rắn, tại một số KCN, KCX, chưa có nơi tập kết chất thải rắn để đưa đi xử
lý, vì vậy, khó khăn trong việc thu gom, xử lý. Một số doanh nghiệp trong KCN, KCX
tự lưu giữ và xử lý không đảm bảo tiêu chuẩn.Ở một số địa phương, việc thực hiện ủy
quyền cho BQL các KCN, KKT trong quản lý môi trường chưa triệt để. Do vậy, nảy
sinh một số vấn đề như: cơ quan này cấp phép về môi trường trong khi cơ quan khác là
đơn vị kiểm tra (ví dụ: UBND huyện cấp cam kết bảo vệ môi trường, BQL các KCN,
KCX, KKT kiểm tra việc thực hiện cam kết); việc kiểm tra về môi trường chồng chéo
và không hiệu quả.
Ý thức doanh nghiệp trong KCN, KCX, KKT về bảo vệ môi trường đã được cải
thiện. Tuy nhiên, việc đầu tư cho công tác môi trường làm tăng chi phí hoạt động của
doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận đạt được. Do vậy, tại một số nơi, việc

bảo vệ môi trường chưa được doanh nghiệp tự giác thực hiện, vẫn cần được tuyên
truyền thường xuyên, đồng thời có cơ chế thanh, kiểm tra chặt chẽ việc tuân thủ pháp
luật về môi trường.
Theo đánh giá của Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường: Phần
lớn hồ, ao, kênh, mương, các đoạn sông trong các đô thị, khu dân cư, đã bị ô nhiễm
nghiêm trọng, một số chỉ số như nồng độ oxy sinh học (BOD), chất rắn lơ lửng đã vượt
quy chuẩn cho phép đến hàng chục lần. Cụ thể hàm lượng BOD (mg/l) trên sông Cầu
là 5-10mg/l; sông Nhuệ-Đáy 5-10mg/l; sông Sài Gòn 7-15mg/l; sông Đồng Nai 4-
6mg/l. Phần lớn các đô thị trên cả nước và hơn 35% khu công nghiệp, khu chế xuất
chưa có hệ thống xử lý chất thải tập trung, hoặc có nhưng không đáp ứng yêu cầu, dẫn
đến trên 60% trong số 1 triệu m3 nước thải/ngày đêm từ các khu công nghiệp xả thẳng
vào các nguồn tiếp nhận, không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng ở
nhiều nơi. Những khu vực chịu sự tác động lớn nhất của tình trạng này là lưu vực sông
Cầu, Nhuệ-Đáy, lưu vực sông Đồng Nai và các ao, hồ tại các đô thị.
Bên cạnh đó, ô nhiễm ở các làng nghề tồn tại từ rất lâu nhưng chưa có biện pháp
khắc phục và giải quyết hiệu quả. Một số kết quả đạt được còn mang tính cục bộ, thiếu
Nhóm 12 Trang 15
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
tính bền vững và chưa được nhân rộng. Chỉ tính đến tháng 7/2011, cả nước có 3.355
làng nghề, trong đó có 1.318 làng nghề được công nhận. Qua khảo sát 52 làng nghề
điển hình, có tới 46% làng nghề có môi trường bị ô nhiễm nặng, 27% ô nhiễm vừa và
mức độ ô nhiễm của các làng nghề đều có xu hướng gia tăng.
Qua biểu đồ bên dưới nói về sự tác động của phát triển đến môi trường lên các thành
phố châu Á, cho thấy trong đó TP.HCM thể hiện mức gây hại đến môi trường cao nhất,
và chúng ta cần những giải pháp kịp thời để khắc phục tình trạng này.
Ngun: State of the world’s cities 2012/2013 - Properity of Cities - Đ họa: Lê Thân
 Năm 2013, nhà máy sản xuất cồn công nghiệp thuộc Công ty TNHH Đại Việt
tỉnh Đắk Nông đã xả thải gấp 10 lần tiêu chuẩn cho phép; tự ý điều chỉnh thay
đổi công trình xử lý môi trường so với báo cáo đánh giá tác động môi trường đã
được duyệt.

 Năm 2013, Nhà máy tái chế chất thải ngành luyện kim của Công ty TNHH Khai
thác, Chế biến, Xuất nhập khẩu khoáng sản Việt Nam chi nhánh Hải Dương
không tuân thủ đúng các quy định về môi trường do nhà nước ban hành, nhà
máy hoạt động sản xuất khi chưa có đủ giấy phép của các cơ quan quản lý nhà
nước về môi trường.
 Thời gian gần đây, Công ty cổ phần Vinamit (ấp 1, xã Tân Định, huyện Bến
Cát, tỉnh Bình Dương) thường xuyên xả nước thải gây ô nhiễm môi trường. Gặp
khi trời mưa lớn, các chất thải này tràn qua tường rào, chảy vào nhà dân làm
Nhóm 12 Trang 16
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
chết cả cây, cỏ Mùi hôi thối từ công ty bốc ra gây khó chịu cho bà con cả khu
vực ấp.
2.2 Công ty nước ngoài tác động đến môi trường:
Hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy
mạnh sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu to lớn của thị trường quốc tế đồng thời thu hút
các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tai Việt Nam nhưng cũng có thể gia tăng các tác
động bất lợi đến môi trường, chẳng hạn, sản xuất phát triển mạnh, trong khi máy móc
thiết bị lạc hậu và doanh nghiệp chưa có ý thức xử lý chất thải công nghiệp, thì mức độ
ô nhiễm môi trường sẽ ngày càng trầm trọng (ô nhiễm nước, không khí ; Công ty
Vedan là một ví dụ điển hình). Mặt khác, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong khi
khuôn khổ luật pháp của Việt nam chưa hoàn thiện, thực hiện pháp luật chưa nghiêm đi
kèm với năng lực quản lý và giám sát thực hiện luật hạn chế, đã và sẽ dẫn đến một số
hoạt động ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Việc áp dụng các chính sách, công cụ
kiểm soát ô nhiễm và bảo vệ môi trường trong phát triển kinh tế là không dễ đặc biệt là
đố với các doanh nghiệp nước ngoài bởi có thể nói vai trò kinh tế của họ có thể gây sức
ép đối với chính phủ trong việc xử lý các vấn đề về môi trường
Các doanh nghiệp nước ngoài có cai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế của mỗi
quốc gia. Bên cạnh những doanh nghiệp có ý thức tốt trong vấn đề bảo vệ môi trường
của quốc gia sở tại thì không ít nhũng doanh nghiệp chỉ vì thấy cái lợi trước mắt mà bỏ
qua vấn đề về môi trường. Điển hình một số doanh nghiệp tại Việt Nam trong những

năm qua:
Trước hết không thể không nhắc đến chính là vụ Vedan xả chất thải ra sông Thị
Vải là vụ gây ô nhiễm môi trường được Cục Cảnh sát môi trường - Bộ Công an Việt
Nam phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam phát hiện ngày 13 tháng 9
năm 2008 tại Công ty Vedan Việt Nam. Từ phản ánh, bức xúc của người dân địa
phương về tình trạng lén lút xả nước thải không qua xử lý ra môi trường, sau hơn 3
tháng theo dõi, ngày 13 tháng 9 năm 2008, đoàn kiểm tra liên ngành đã bắt quả tang
Công ty Vedan đóng tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xả một lượng nước thải lớn
chưa qua xử lý ra sông Thị Vải. Theo ước tính, Vedan có thể xả nước thải tới 5.000
m3/ngày ra sông.
Nhóm 12 Trang 17
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
Năm 2008, Công ty Miwon xả nước thải từ nhà máy ra những hồ đấu xung
quanh khu dân cư thì họ lại ngang nhiên xả ồ ạt xuống sông Hồng gây ô nhiễm nghiêm
trọng đến môi trường và người dân.
Một tác động nữa có thể kể đến chính là vấn đề khai thác tài nguyên quá mức và trốn
tránh tách nhiệm trong việc bảo vệ môi trương của các công ty nước ngoài đặc biệt ở
nhũng lĩnh vực mà Việt Nam còn kém về trình độ khoa học kĩ thuật. Đơn cử như vụ
việc công ty ngoại Besra Gold với hai công ty con của mình là Công ty TNHH khai
thác vàng Bồng Miêu và Công ty TNHH vàng Phước Sơn “vơ vét” vàng của Việt Nam
rồi… bỏ chạy. Không những phản đối việc tăng thuế tài nguyên, Besra Gold thậm chí
còn kiến nghị giảm mức thuế suất cũ từ 15% xuống còn 6%, thuế thu nhập doanh
nghiệp từ 40% xuống còn 32%. Quan điểm của Bộ Tài chính là hiện nay nên hạn chế
việc khai thác tài nguyên quý hiếm với trữ lượng có hạn, sản lượng khai thác khó quản
lý, khuyến khích những doanh nghiệp thăm dò, khai thác vàng hiệu quả nên mức thuế
suất tài nguyên đối với vàng cần tăng lên mức kịch trần. Besra Gold gây áp lực bằng
cách dọa nếu hai Công ty vàng lớn nhất Việt Nam này đóng cửa thì gần 1.600 lao động
sẽ thất nghiệp, ngân sách sẽ thất thu, các khoản vay từ ngân hàng không thể trả và
những tác động đến kinh tế xã hội cho tỉnh Quảng Nam, nơi hai công ty vàng này đang
hoạt động.Trước những động thái “dọa Nhà nước” của Besra Gold, thời điểm đó ông

Phạm Quang Tú - Phó Viện trưởng Viện Tư vấn Phát triển (CODE) cho rằng việc
doanh nghiệp kêu như vậy là do doanh nghiệp cứ kêu lên hòng có lợi.
Danh sách các doanh nghiệp vi phạm pháp luật về môi trường 2009 do Sở tài
nguyên & môi trường TP.HCM công bố:
STT
Công ty/Doanh
nghiệp
Ngành
nghề
Hành vi vi phạm
1
TNHH Strongman –
KCX Tân Thuận
Sản xuất
xe đạp
Chưa xử lý triệt để bụi thải.
Nước thải khâu sơn, đánh bóng không
xử lý
Hệ thống thoát nước mưa và nước
thải chưa tách rời, đấu nối chung vào
hệ thống thu gom của KCX. Các
miệng xả nước mưa đều bị bít kín.
2
TNHH Always –
KCX Tân Thuận
Sản xuất
xe đạp
3
TNHH Yesum Vina
– KCX Linh Trung

SX hàng
may mặc
xuất khẩu
Nước thải sinh hoạt thoát vào hố ga
nước mưa (lưu lượng nhiều), vượt
tiêu chuẩn cao, không có biện pháp
khắc phục
Nhóm 12 Trang 18
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
STT
Công ty/Doanh
nghiệp
Ngành
nghề
Hành vi vi phạm
4
CP Xây lắp Bưu điện
Hà Nội – KCN Lê
Minh Xuân
Sản phẩm
cơ khí và
xi mạ
kẽm
Nước thải công đoạn xi mạ, xử lý
không hiệu quả. Thu gom chưa triệt
để, nước thải thoát vào hố ga nước
mưa. Chưa thực hiện quy định về
quản lý chất thải nguy hại.
5
TNHH Chian

Shyang – KCN Lê
Minh Xuân
Buloong,
ốc vít
Nước thải công đoạn xi mạ, xử lý
không hiệu quả, vượt tiêu chuẩn xả
thải. Nước thải vẫn còn thoát vào hố
ga nước mưa. Chưa thực hiện quy
định về quản lý chất thải nguy hại.
6
TNHH XK Thực
phẩm Diệp Long –
KCN Tân Tạo
Thủy hải
sản
Nước thải chế biến thủy sản, trạm xử
lý nước thải không vận hành, nước
thải không đạt tiêu chuẩn quy định
(vượt tiêu chuẩn >10 lần).
7
TNHH Tân Anh Thể
– KCN Tân Tạo
Buloong,
ốc vít
Chưa thực hiện quy định về quản lý
chất thải nguy hại (dầu nhớt còn thoát
nhiều vào hố ga thu gom nước thải).
8
TNHH KD Thủy sản
Trung Dũng – KCN

Tân Tạo
Thủy hải
sản
Nước thải chế biến thủy sản, trạm xử
lý nước thải không hiệu quả, nước
thải không đạt tiêu chuẩn quy định.
Nước thải vệ sinh khu tiếp liệu chảy
vào hệ thống thoát nước mưa
9
CP SX CN TM
Nguyên Phát – KCN
Tân Tạo
Dệt bao
PP và
nhuộm
vải
Trạm xử lý nước thải không hoạt
động, xả nước thải trực tiếp ra hố ga
nước thải KCN. Chưa xử lý khí thải
lò hơi. Sử dụng giếng khoan không
phép.
10
Công ty TNHH
Thăng Vũ – KCN
Tân Tạo
Nhuộm
vải
Nước thải còn thoát vào hố ga nước
mưa. Chưa thực hiện quy định về
quản lý chất thải nguy hại.

11
Công ty CP Hải Sản
SG – KCN Tân Tạo
Thủy hải
sản
Trạm xử lý nước thải vận hành không
hiệu quả, nước thải không đạt tiêu
chuẩn quy định.
2.3 Các đạo luật về bảo vệ môi trường trong kinh doanh
Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề quan
trọng và ưu tiên bậc nhất đối với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường cũng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan
tâm, thể hiện thông qua việc tích cực tham gia gần 20 công ước quốc tế về bảo vệ môi
trường và tiến hành chuyển hóa những nội dung này vào pháp luật Việt Nam trong các
Nhóm 12 Trang 19
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
văn bản quy phạm pháp luật như Luật Bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ và phát triển
rừng, Luật Đất đai,
2.3.1 Các Công ước quốc tế về Bảo vệ môi trường
Công ước quốc tế là văn bản ghi rõ những việc cần tuân theo và những điều bị
cấm thi hành, liên quan đến một lĩnh vực nào đó, do một nhóm nước thoả thuận và
cùng cam kết thực hiện, nhằm tạo ra tiếng nói chung, sự thống nhất về hành động và sự
hợp tác trong các nước thành viên.
Công ước quốc tế có hiệu lực trọn vẹn với các nước thành viên, nhưng cũng có tác
động rất lớn đối với các nước trong khu vực chưa tham gia công ước.
Hiện nay, có khoảng 300 công ước quốc tế về bảo vệ môi trường. Việt Nam đã tham
gia các Công ước quốc tế về môi trường sau đây (ngày tham gia ở trong ngoặc):
1. Công ước Chicago về hàng không dân dụng quốc tế, 1944.
2. Thoả thuận về thiết lập Uỷ ban nghề các Ấn Độ dương - Thái bình dương, 1948.
3. Hiệp ước về Khoảng không ngoài vũ trụ, 1967.

4. Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt như là nơi
cư trú của các loài chim nước (RAMSAR), 1971 (20/9/1988).
Nghị định thư bổ sung công ước về các vùng ngập nước có tầm quan trọng, đặc
biệt như là nơi cư trú của các loài chim nước, Paris, 1982.
1. Công ước liên quan đến Bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên (19/10/1982).
2. Công ước về cấm phát triển, sản xuất và tàng trữ vũ khí hoá học, vi trùng và công
việc tiêu huỷ chúng.
3. Công ước về buôn bán quốc tế về các giống loài động thực vật có nguy cơ bị đe dọa,
1973 (20/1/1994).
4. Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển MARPOL (29/8/1991).
5. Công ước của Liên Hợp Quốc về sự biến đổi môi trường (26/8/1980).
6. Nghị định thư chữ thập đỏ liên quan đến bảo vệ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ
trang.
7. Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển (25/7/1994).
8. Cam kết quốc tế về phổ biến và sử dụng thuốc diệt côn trùng, FAO, 1985.
9. Công ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn, 1985 (26/4/1994).
10. Công ước về thông báo sớm sự cố hạt nhân, IAEA, 1985 (29/9/1987).
Nhóm 12 Trang 20
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
11. Công ước về trợ giúp trong trường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu phóng xạ,
1986, IAEA (29/9/1987).
12. Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-zôn, 1987 (26/1/1984).
• Bản bổ sung Luân đôn cho công ước, Luân đôn, 1990.
• Bản bổ sung Copenhagen, 1992.
1. Thoả thuận về mang lưới các trung tâm thuỷ sản ở Châu Á - Thái bình dương, 1988
(2/2/1989).
2. Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải độc hại và việc
loại bỏ chúng (13/5/1995).
3. Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, 1992 (16/11/1994).
4. Công ước về Đa dạng sinh học, 1992 (16/11/1994).

2.3.1 Các đạo luật về bảo vệ môi trường của Việt Nam:
Nhà nước bảo vệ lợi ích quốc gia về tài nguyên và môi trường, thống nhất quản lý bảo
vệ môi trường trong cả nước, có chính sách đầu tư, bảo vệ môi trường, có trách nhiệm
tổ chức thực hiện việc giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ, phổ biến
kiến thức khoa học và pháp luật về bảo vệ môi trường. Luật bảo vệ môi trường của
Việt Nam ghi rõ trong Điều 6: “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân. Tổ
chức, cá nhân phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường, thi hành pháp luật về bảo vệ môi
trường, có quyền và trách nhiệm phát hiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường”.
Luật Bảo vệ môi trường (2005):
Theo Luật Bảo vệ môi trường 2005 những hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động kinh
doanh quốc tế theo Điều 7 như:
3. Khai thác, kinh doanh, tiêu thụ, sử dụng các loài thực vật, động vật hoang dã quý
hiếm thuộc danh mục cấm do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
8. Nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện không đạt tiêu chuẩn môi trường.
9. Nhập khẩu, quá cảnh chất thải dưới mọi hình thức.
10. Nhập khẩu, quá cảnh động vật, thực vật chưa qua kiểm dịch; vi sinh vật ngoài danh
mục cho phép.
Nhóm 12 Trang 21
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
11. Sản xuất, kinh doanh sản phẩm gây nguy hại cho con người, sinh vật và hệ sinh
thái; sản xuất, sử dụng nguyên liệu, vật liệu xây dựng chứa yếu tố độc hại vượt quá tiêu
chuẩn cho phép.
Theo Điều 35 của Luật này, trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân trong
họat động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ bao gồm:
1. Tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
2. Thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường nêu trong báo cáo đánh giá tác động môi
trường đã được phê duyệt, bản cam kết bảo vệ môi trường đã đăng ký và tuân thủ tiêu
chuẩn môi trường.
3. Phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đối với môi trường từ các hoạt động của

mình.
4. Khắc phục ô nhiễm môi trường do hoạt động của mình gây ra.
5. Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho người lao động
trong cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của mình.
6. Thực hiện chế độ báo cáo về môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi
trường.
7. Chấp hành chế độ kiểm tra, thanh tra bảo vệ môi trường.
8. Nộp thuế môi trường, phí bảo vệ môi trường.
Luật Bảo vệ môi trường đưa ra các yêu cầu trong bảo vệ môi trường như:
Điều 36. Bảo vệ môi trường đối với khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung
Điều 37. Bảo vệ môi trường đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
Điều 38. Bảo vệ môi trường đối với làng nghề
Điều 39. Bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế khác
Điều 40. Bảo vệ môi trường trong hoạt động xây dựng
Điều 41. Bảo vệ môi trường trong hoạt động giao thông vận tải
Điều 42. Bảo vệ môi trường trong nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa
Điều 43. Bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu
Điều 44. Bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản
Điều 45. Bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch
Điều 46. Bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp
Điều 47. Bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản
Nhóm 12 Trang 22
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
Các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gây ô nhiễm môi trường sẽ bị xử lý theo Điều
49 luật này:
1. Các hình thức xử lý đối với tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
gây ô nhiễm môi trường được quy định như sau:
a) Phạt tiền và buộc thực hiện biện pháp giảm thiểu, xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi
trường;
b) Tạm thời đình chỉ hoạt động cho đến khi thực hiện xong biện pháp bảo vệ môi

trường cần thiết;
c) Xử lý bằng các hình thức khác theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính;
d) Trường hợp có thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của con người, tài sản và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc gây ô nhiễm môi trường thì còn phải bồi
thường thiệt hại theo quy định tại mục 2 Chương XIV của Luật này hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
2. Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thì ngoài
việc bị xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều này, còn bị xử lý bằng một trong các biện
pháp sau đây:
a) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường theo quy
định tại Điều 93 của Luật này;
b) Buộc di dời cơ sở đến vị trí xa khu dân cư và phù hợp với sức chịu tải của môi
trường;
c) Cấm hoạt động.
Bên cạnh Luật Bảo vệ môi trường, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường còn có các đạo luật, pháp lệnh về bảo vệ các thành tố môi trường (còn gọi là các
đạo luật, pháp lệnh về tài nguyên). Cụ thể, đó là các đạo luật, pháp lệnh như: Luật Bảo
vệ và phát triển rừng năm 2004; Luật Đất đai năm 2003 (được sửa đổi, bổ sung năm
2013); Luật Thủy sản năm 2003; Luật Dầu khí năm 1993 (được sửa đổi, bổ sung năm
2000); Luật Tài nguyên nước năm 1998; Luật Khoáng sản năm 1996 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2005) v.v.
Ngoài ra, quy định về nghĩa vụ bảo vệ môi trường hoặc nghĩa vụ tuân thủ các quy định
của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các tổ chức, cá nhân còn nằm rải rác trong
Nhóm 12 Trang 23
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
nhiều đạo luật khác. Trong số đó phải kể đến: Luật Doanh nghiệp năm 2005; Luật Đầu
tư năm 2005; Luật Đấu thầu năm 2005; Bộ luật Hàng hải năm 2005; Luật Du lịch năm
2005; Luật Giao thông đường thủy nội địa năm 2004; Luật Xây dựng năm 2003; Luật
Biên giới quốc gia năm 2003; Luật Hải quan năm 2001; Luật Khoa học và Công nghệ

năm 2000; Luật Hàng không dân dụng năm 1991 (sửa đổi, bổ sung năm 1995)….
Ngoài ra, một số đạo luật, pháp lệnh còn quy định cụ thể việc xử lý vi phạm pháp luật
đối với hành vi vi phạm pháp luật về môi trường. Trong số đó, phải kể đến Bộ luật Dân
sự năm 2005, Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Pháp lệnh Xử lý
vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2012)… Một số đạo luật, pháp
lệnh có những nội dung quan trọng liên quan đến vấn đề tài chính trong bảo vệ môi
trường cũng có thể kể đến là: Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 (sửa đổi, bổ
sung năm 2013); Luật Ngân sách nhà nước năm 2002; Pháp lệnh Thuế tài nguyên,
Pháp lệnh Phí và lệ phí…
2.4 Hợp tác giữa các nước đối với vấn đề bảo vệ môi trường
Như chúng ta đã thấy,cùng với sự gia tăng của hàng loạt các công ước quốc tế về
môi trường, các chương trình và cơ chế quốc tế về hợp tác, bảo vệ và phát triển bền
vững môi trường quốc tế cũng hình thành nhanh chóng và ngày càng khẳng định vai
trò quan trọng. Đặc biệt, từ sau năm 1992 (tức sau Hội nghị Rio de Janeiro, Hội nghị
của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển), pháp luật môi trường quốc tế đã có sự
phát triển mạnh cả về nội dung và hình thức, với sự hỗ trợ của Liên hợp quốc và các tổ
chức phi chính phủ khác về môi trường.Công ước quốc tế có hiệu lực trọn vẹn với các
nước thành viên, nhưng cũng có tác động rất lớn đối với các nước trong khu vực chưa
tham gia công ước.Hiện nay, có khoảng 300 công ước quốc tế về bảo vệ môi trường.
Nước ta đã tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế, tham gia 20 điều ước quốc tế về môi
trường; đã có gần 40 chương trình, dự án lớn về bảo vệ môi trường được thực hiện với
các đối tác trên cơ sở song phương và đa phương. Việt Nam cũng tham gia tích cực
vào các diễn đàn thế giới và khu vực về bảo vệ môi trường, đặc biệt là các hoạt động
hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường trong khu vực châu Á, ASEAN, các nước tiểu
vùng sông Mê Công mở rộng.
Việt Nam đã tham gia các Công ước quốc tế về môi trường sau đây:
• Công ước Chicago về hàng không dân dụng quốc tế, 1944.
Nhóm 12 Trang 24
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ GVHD: TS.Mai Thanh Hùng
• THOẢ THUẬN VỀ THIẾT LẬP UỶ BAN NGHỀ CÁC Ấn Ðộ dương - Thái

bình dương, 1948.
• Hiệp ước về Khoảng không ngoài vũ trụ, 1967.
• Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt như là
nơi cư trú của các loài chim nước (RAMSAR), 1971 (20/9/1988).
• Nghị định thư bổ sung công ước về các vùng ngập nước có tầm quan trọng, đặc
biệt như là nơi cư trú của các loài chim nước, Paris, 1982.
• Công ước liên quan đến Bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên (19/10/1982).
• Công ước về cấm phát triển, sản xuất và tàng trữ vũ khí hoá học, vi trùng và
công việc tiêu huỷ chúng.
• Công ước về buôn bán quốc tế về các giống loài động thực vật có nguy cơ bị đe
dọa, 1973 (20/1/1994).
• Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển MARPOL (29/8/1991).
• Công ước của Liên Hợp Quốc về sự biến đổi môi trường (26/8/1980).
• Nghị định thư chữ thập đỏ liên quan đến bảo vệ nạn nhân của các cuộc xung đột
vũ trang.
• Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển (25/7/1994).
• Cam kết quốc tế về phổ biến và sử dụng thuốc diệt côn trùng, FAO, 1985.
• Công ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn, 1985 (26/4/1994).
• Công ước về thông báo sớm sự cố hạt nhân, IAEA, 1985 (29/9/1987).
• Công ước về trợ giúp trong trường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu phóng xạ,
1986, IAEA (29/9/1987).
• Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-zôn, 1987 (26/1/1984).
• Bản bổ sung Luân đôn cho công ước, Luân đôn, 1990.
Nhóm 12 Trang 25

×