Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học " NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI BỜ BIỂN HAI TỈNH QUẢNG TRỊ VÀ THỪA THIÊN HUẾ DƯỚI GÓC ĐỘ ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 12 trang )





1
1

NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI BỜ BIỂN HAI TỈNH QUẢNG TRỊ
VÀ THỪA THIÊN HUẾ DƯỚI GÓC ĐỘ ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN
Lê Văn Ân
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Hiện nay sự biến đổi bờ biển hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế đang
diễn ra rất nhanh chóng và phức tạp do sự tác động biến chứng, biến thiên không
ngừng của nhiều nguyên nhân khác nhau. Trên suốt chiều dài bờ biển và thậm
chí ở mỗi đoạn không dài, sự biến đổi bờ biển do các nguyên nhân, quá trình đan
xen lẫn nhau rất khó phân định. Tuy nhiên nếu xét một cách tổng quát các tác
nhân và quá trình gây biến đổi bờ biển chủ yếu thì sự biến đổi bờ biển ở Quảng
Trị, Thừa Thiên Huế theo chúng tôi có các loại cơ bản sau:
I. Biến đổi bờ biển do quá trình mài mòn, xói lở:
Mài mòn (Abration), xói lở (Erosion) đều là quá trình xâm thực phá hủy
bờ biển của yếu tố chủ đạo sóng biển ở các bờ biển cấu thành bởi các loại đá có
tính chất địa chất công trình khác nhau (mài mòn xảy ra ở bờ cấu thành bởi đá
cứng, còn xói lở ở bờ cấu thành bởi vật chất bở rời). Ở hai tỉnh Quảng Trị, Thừa
Thiên Huế bờ biển cấu thành bởi đá cứng có tỷ lệ chiều dài nhỏ (đoạn bờ biển
ban zan phía bắc cửa Tùng và đoạn bờ biển granit phía Nam Thừa Thiên Huế).
Mặc dầu các điều kiện tự nhiên ở khu vực rất tối ưu cho quá trình xâm thực phá
hủy của sóng, nhưng do đặc tính của đá nên nhìn chung tốc độ mài mòn phá hủy
của sóng đối với bờ không đáng kể, bờ biển biến đổi chậm. Trái ngược với diện





2
2

phân bố hẹp của bờ đá cứng thì bờ cấu thành bởi vật liệu cát bở rời (thành tạo
vật chất dễ bị xâm thực phá hủy, vận chuyển và bồi lắng) chiếm hầu hết chiều dài
đường bờ và cũng là khu vực bờ dễ bị biến đổi nhất. Điểm khác biệt so với các
bờ biển của các địa phương khác, quá trình biến đổi bờ biển ưu thế ở đây thuộc
về quá trình xâm thực xói lở với tốc độ nhanh và ngày càng tăng cường. Tốc độ
xói lở trung bình năm giao động từ 10 - 15m/năm, cực đại tốc độ có thể đạt đến
150 - 200m/năm (khu vực Hải Dương - Thừa Thiên Huế). Số lượng đoạn sạt lở
rất nhiều, theo số liệu [4] tại Thừa Thiên Huế có 33 đoạn sạt lở và Quảng Trị có
29 đoạn. Xét tương quan, trong tỉnh duyên hải miền Trung, Thừa Thiên Huế
đứng thứ hai và Quảng Trị đứng thứ tư về số lượng đoạn bờ bị sạt lở (trong đó
các đoạn sạt lở có chiều dài từ 1000m-5000m chiếm tỷ lệ lớn). Tỷ lệ giữa chiều
dài bờ biển sạt lở so với chiều dài bờ biển mỗi tỉnh rất cao: Ở Thừa Thiên Huế là
32 km/120km chiếm 28%, Quảng Trị là 29,5 km/ 80 km chiếm 37%. Mức độ lấn
sâu vào đất liền (bờ bị sạt lở tính từ khi bắt đầu cho tới nay) rất lớn, nơi ít nhất
vào khoảng 50m và nơi nhiều nhất có thể đạt tới 200- 250 m. Sự biến đổi xảy ra
phổ biến và rất nhanh do quá trình xói lở tại bờ biển Trị -Thiên theo chúng tôi
được quyết định bởi hàng loạt các nguyên nhân: năng lượng của sóng rất lớn (độ
cao sóng lớn, hướng sóng ưu thế vuông góc với bờ, có độ dốc tương đối lớn và
đáy biển ven bờ sâu) lên bờ có cấu tạo vật chất dễ phá hủy và vận chuyển; sự
thiếu hụt vật chất của đới ven bờ làm tăng cường xâm thực của sóng (mất mát vật
chất do dòng di chuyển ngang của sóng đưa ra sườn bờ ngầm vào bão lũ, các
hoạt động của con người ven bờ và trên sông ngòi, đầm phá: thủy lợi, khai thác
cát, khoáng sản, ngăn nuôi thủy sản 001) và các hoạt động kinh tế ven bờ biển
làm tăng tính rời rạc của vật chất tạo bờ. Điểm đáng lưu tâm đối với sự biến đổi
bờ biển do xói lở là sự biến đổi bờ biển do xói lở có sự phân hóa giữa các khu

vực và các thời kỳ trong năm. Những khu vực xâm thực, xói lở nhanh và mạnh
bao gồm: đoạn bờ phía bắc mũi Lay (Quảng Trị) và các đoạn bờ như: Phú Thuận,




3
3

Phú Diên, Hải Dương, Điền Hòa, Vinh Hải (Thừa Thiên Huế). Tại các đoạn bờ
biển này tốc độ xói lở trung bình từ 15-20 m/năm, có nhiều nơi đạt trên 100m/
năm. Sự vượt trội về tốc độ xói lở ở các khu vực này được quyết định bởi sự hội
tụ nhiều điều kiện làm tăng cường xâm thực, phá hủy của tác nhân sóng.
Sự xâm thực xói lở bờ biển ở đây qua nghiên cứu cho thấy chỉ xảy ra chủ
yếu và mạnh nhất vào mùa thu đông, cực đại là vào từ tháng X đến tháng XI. Sự
vượt trội về cường độ và tốc độ xói lở bờ biển vào thời kỳ này được quyết định
bởi độ lớn của sóng (trung bình độ cao sóng vào mùa này là 0,8 - 1,3m còn mùa
hè, độ cao trung bình sóng chỉ 0,3- 0,6m), hướng sóng Đông Bắc chiếm tần suất
rất lớn. Ngoài ra, còn có sự tác động tăng cường của nước dâng do bão lũ.
II. Biến đổi bờ biển do quá trình bồi tụ:
Sự biến đổi bờ biển do bồi tụ ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế thường xảy ra
rất hạn chế cả về không gian và thời gian. Mặc dù sự biến đổi bờ biển do bồi tụ
hạn chế như vậy nhưng tác nhân tạo bồi tụ rất phức tạp. Nếu xét vai trò tạo bồi tụ
của tác nhân chủ yếu thì sự bồi tụ của bờ biển Quảng Trị, Thừa Thiên Huế có các
loại sau:
II.1 Bồi tụ do dòng chảy sông chiếm ưu thế: Quá trình bồi tụ do tác nhân
dòng chảy sông chiếm ưu thế chỉ phân bố với quy mô nhỏ và tạo nên các bãi bồi
có diện tích không đáng kể. Quá trình này thường xảy ra ở vùng cửa sông có phù
sa lớn và có bờ chắn đầm phá làm cho vận tốc và hướng dòng chảy thay đổi đột
ngột như cửa sông Hương, Ô Lâu và đầm Lập An (Lăng Cô).

II.2. Bồi tụ do tác động đồng thời và ngược hướng của dòng chảy sông và
sóng:




4
4

Trường hợp này thường xảy ra ở các cửa sông không có bờ chắn đầm phá ở
phía bắc (cửa Việt, cửa sông Bến Hải) và thường xảy ra mạnh vào mùa hè (mùa
có dòng chảy sông di chuyển ra yếu gặp sóng di chuyển vật chất ngang). Do tác
động ngược hướng của 2 dòng vật chất đã tạo nên một vùng hội lưu vật chất
trước các cửa sông hình thành nên các bar cát tạm thời. Vào mùa mưa lũ, thậm
chí sau những cơn mưa lớn vào mùa cạn, các thành tạo bồi tụ này hầu hết bị phá
hủy.
II.3. Bồi tụ do sông và triều: Trường hợp bồi tụ này xảy ra ở các cửa sông,
cửa đầm phá (Tư Hiền, Thuận An) và cũng chủ yếu xảy ra vào mùa hè. Vào mùa
hè, mực nước sông hạ thấp và dòng triều ưu thế kết hợp với sóng đông bắc đã
đưa vật chất từ sườn bờ ngầm và các dòng vật chất khác (dòng hỗn hợp dọc bờ)
đưa vào các cửa sông làm bồi cạn cửa hoặc tạo nên cồn ngầm, bãi phù sa ngầm ở
các cửa sông. Các thành tạo bồi tụ này thường trở thành các chướng ngại hạn chế
quá trình thoát lũ, gây lũ lớn, lũ dài ở hạ lưu qua đó làm tăng cường quá trình phá
hủy bờ vào thời kỳ mưa lũ ở vùng cửa sông. Cũng có trường hợp quá trình bồi tụ
ưu thế thuộc về dòng triều, tuy nhiên trường hợp này xảy ra rất hiếm và chỉ bắt
gặp ở phía trong Tư Hiền về phía đầm Cầu Hai và đầm Lăng Cô. Các thành tạo
bãi triều này có hình rẽ quạt kiểu delta rất rõ rệt. Bãi triều thường ở dạng bùn cát
lỏng, trên bề mặt bị chia cắt bởi các lạch dẫn nước từ các sông suối nhỏ từ lục địa
di chuyển ra. Cơ chế hình thành các bãi triều này là do dòng triều cường di
chuyển qua cửa và truyền tỏa theo hình vòng cung lõm của bờ tạo nên.

II.4. Bồi tụ hoàn toàn do sóng: Loại bồi tụ này thường xảy ra vào mùa hè
và diễn ra đều khắp bờ biển cát do dịch chuyển ngang của bùn cát khi động lực
sóng yếu. Các thành tạo này thường có đời sống rất ngắn ngủi và có sự biến dạng
theo tác động của sóng. Vào mùa đông tuyệt đại bộ phận các thành tạo này bị phá
hủy.




5
5

Ngoài ra tại bờ biển Quảng Trị, Thừa Thiên Huế còn có những đoạn bờ
biển bồi tụ quanh năm do sự tác động tổng hợp của nhiều tác nhân và điều kiên
tự nhiên đặc biệt. Tuy nhiên sự phân bố của loại bờ biển này không đáng kể:
đoạn bờ biển Cảnh Dương, giữa các mũi nhô ven chân đèo Hải Vân (Thừa Thiên
Huế)
III. Biến đổi bờ biển do dịch chuyển cửa sông:
Quá trình dịch chuyển cửa sông thường xảy ra rất phổ biến ở các sông
thuộc hai tỉnh Quảng Trị và ThừaThiên Huế. Sự phổ biến của quá trình dịch
chuyển cửa sông ở hai tỉnh này theo chúng tôi được quyết định bởi điều kiện địa
lý tối ưu cho việc cung cấp vật chất (vật chất được cung cấp từ sóng lớn, vuông
góc xâm thực bờ cát bở rời; hải lưu; sông ngòi…) và tăng cường dòng di chuyển
vật chất dọc bờ của sóng (hướng sóng, hướng di chuyển của hải lưu). Chính sự
phát triển của dòng vật chất di chuyển dọc bờ đã tạo nên các đê cát dạng doi bao
ngoài cửa sông - Một đặc trưng hình thái địa hình vùng cửa sông rất đặc thù của
hai tỉnh. Sự án ngữ của đê bao trước cửa sông đã làm cho dòng chảy sông phải
mở đường di chuyển mới. Theo thời gian, cửa sông dần dần dịch chuyển khỏi vị
trí ban đầu. Do vận tốc dòng chảy ở cửa sông cao, khối lượng vật chất di chuyển
dọc bờ lớn và di chuyển chủ yếu theo hướng Bắc Nam nên các doi cát thường

phát triển về phía nam của cửa. Sự phát triển doi cát như vậy đã làm cho cửa
sông dịch chuyển ngược hướng dần về phía bắc. Quá trình dịch chuyển này của
cửa đã làm tăng cường xói lở bờ Bắc và đồng thời bồi tụ bờ Nam. Tuy nhiên, do
lực chảy và hướng nghiêng của địa hình nên quá trình dịch chuyển các cửa sông
chỉ tiến về phía bắc trên một khoảng đường bờ biển hạn định. Khi đạt đến cự li
dịch chuyển tối đa thì quá trình được lặp lại. Chu kỳ lặp lại của quá trình dịch
chuyển các cửa sông được bắt đầu từ việc mở cửa mới. Vị trí của cửa mới nằm
không cố định trên đoạn bờ biển cửa sông dịch chuyển. Thường thì các cửa mới




6
6

được hình thành ở khu vực xung yếu nhất. Sự lặp lại của các cửa sông như trên
cũng được nhiều công trình đề cập như: [6],[9]…và được gọi là dịch chuyển
xoay. Quá trình dịch chuyển cửa sông thường có tính liên tục nhưng không có
tính chu kỳ, quy luật lặp lại theo thời gian. Tốc độ dịch chuyển cửa của các sông
có sự khác nhau rất lớn. Sự sai khác tốc độ dịch chuyển các cửa sông được quyết
định bởi sự khác biệt của dòng bồi tích dọc bờ (hướng, lưu lượng) và trục động
lực dòng chảy theo thời gian của mỗi sông. Theo kết quả nghiên cứu cho thấy,
tốc độ dịch chuyển xảy ra nhanh nhất ở cửa sông Thuận An (trung bình mỗi năm
cửa sông ở đây dịch chuyển 40-50m) còn các cửa sông khác thường dịch chuyển
chậm (trung bình dịch chuyển 10-15 m/năm). Sự biến động cửa trên bờ đầm phá
được thể hiện ở H.1 và 2
IV. Biến đổi bờ biển do mở, đóng các cửa biển:
Quá trình mở các cửa biển chỉ xảy ra nơi có bờ chắn xung yếu và có sự
tranh chấp xảy ra mãnh liệt giữa yếu tố động lực của sông có chỉ số dòng chảy
lớn. Chính vì vậy, mặc dù bờ biển có chiều dài lớn nhưng quá trình mở và bồi lấp

các cửa chỉ xảy ra ở đầm phá Tam Giang - Cầu Hai và cũng chỉ xảy ra cục bộ
trên một đoạn đê cát chắn từ cửa Thuận An đến cửa Tư Hiền. Trái với sự thiếu
quy luật của chu kỳ dịch chuyển cửa sông thì thông thường sự đóng mở cửa biển
ở đây có tính quy luật rất rõ rệt. Ngoài sự mở cửa đột biến do sóng thần thì tất cả
các đợt mở cửa xảy ra trên bờ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai đều vào mùa bão lũ
và xác suất cao nhất là khi có lũ lịch sử. Bão lũ càng lớn thì xác suất mở cửa
càng cao, kích thước các cửa càng lớn, số lượng cửa được mở càng nhiều. Trên
cơ sở thống kê từ các tài liệu cho thấy chu kỳ mở cửa trên bờ đầm phá ngày càng
ngắn lại và mức độ biến động cửa càng cao. Trước đây chu kỳ mở đóng cửa có
thể tới hàng trăm năm, nhưng hiện nay chu kỳ đóng mở cửa trung bình chỉ
khoảng 10-15 năm. Sự rút ngắn chu kỳ đóng mở cửa biển trên bờ đầm phá Tam




7
7

Giang - Cầu Hai trong thời gian gần đây theo chúng tôi là do sự kết hợp giữa
nguyên nhân tự nhiên (sự tăng cường của bão lũ, nước dâng…) và với nguyên
nhân con người (các hoạt động làm mất dần khả năng điều tiết nước của lớp phủ:
đô thị hóa, phá rừng…) Ngược lại với quá trình mở cửa, quá trình đóng các cửa
trên bờ đầm phá lại chủ yếu xảy ra vào mùa khô nóng. Mùa hè càng khô nóng,
mực nước sông càng cạn kiệt thì quá trình đóng cửa xảy ra càng nhanh và cửa có
vận tốc lưu chuyển nước càng chậm, càng ít thì xác suất đóng càng cao. Vì thế,
quá trình đóng cửa có thể xảy ra ngay đối với cửa vừa mới mở. Như vậy, rõ ràng
rằng sự mở cửa biển chủ yếu để giải tỏa nước dồn về đầm phá trong mùa lũ và có
thể được tăng cường thêm bởi sóng lớn và nước biển dâng cao do bão còn việc
đóng cửa là do sóng, triều di chuyển vật chất vào khi dòng chảy từ đầm phá ra
biển suy yếu.

KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy hiện nay tại bờ biển Quảng Trị, Thừa
Thiên Huế tồn tại 4 loại biến đổi bờ biển theo nguyên nhân và quá trình chủ yếu:
biến đổi do xâm thực phá hủy trong đó xâm thực xói lở chiếm ưu thế; biến đổi
do bồi tụ; biến đổi do dịch chuyển, xâm thực, bồi tụ vùng cửa sông và biến đổi
do mở đóng cửa trên bờ đầm phá. Trong 4 loại đó thì loại biến đổi do xâm thực
phá hủy đóng vai trò chủ đạo. Sự biến đổi bờ biển nhanh chóng, phức tạp và chủ
yếu theo hướng xâm thực phá hủy đang là nguy cơ đe dọa đến sự phát triển kinh
tế bền vững vùng ven biển của hai tỉnh này. Từ thực trạng biến đổi bờ biển như
vậy, yêu cầu đặt ra đối với hai tỉnh là trong quá trình khai thác phát triển kinh tế
- xã hội vùng ven biển vừa phải một mặt hướng các hoạt động kinh tế - xã hội
theo xu thế làm ổn định đường bờ, vừa phải nắm vững chi tiết bản chất từng loại
biến đổi bờ biển trên từng đoạn bờ cụ thể để có các dự án phát triển kinh tế - xã
hội thích hợp.




8
8
















V
V




t
t
r
r
í
í


c
c
á
á
c
c


c
c



a
a


t
t


n
n


t
t


i
i


t
t
r
r
o
o
n
n
g

g


l
l


c
c
h
h


s
s








H
H
ư
ư


n

n
g
g


d
d


c
c
h
h


c
c
h
h
u
u
y
y


n
n


c

c


a
a


































C
C
á
á
c
c


v
v




t
t
r
r
í
í



d
d


c
c
h
h


c
c
h
h
u
u
y
y


n
n









T
T
h
h


i
i


k
k




m
m




c
c


a
a





















T
T
h
h


i
i


k
k





đ
đ
ó
ó
n
n
g
g


c
c


a
a



















T
T
h
h


i
i


đ
đ
i
i


m
m


đ
đ

ó
ó
n
n
g
g


m
m




c
c


a
a


x
x
á
á
c
c



đ
đ


n
n
h
h


















T
T
h
h



i
i


đ
đ
i
i


m
m


đ
đ
ó
ó
n
n
g
g


m
m





c
c


a
a


k
k
h
h
ô
ô
n
n
g
g


x
x
á
á
c
c



đ
đ


n
n
h
h












9
9




TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trịnh Việt An. Đóng mở cửa sông Hương, nguyên nhân và giải pháp -
Đề tài KT- 03 (cấp Nhà Nước).
2. Lê Văn Ân. Những vấn đề đặt ra trong quá trình sử dụng và cải tạo

đầm phá Thừa Thiên Huế. Báo cáo Hội thảo đầm phá, Huế (2/2000).
3. Nguyễn Văn Cư. Diễn biến đầm phá Thừa Thiên Huế nhìn từ gốc độ
địa lí tự nhiên. Tạp chí TTKHCN Thừa Thiên Huế, số 01(2000).










V
V




t
t
r
r
í
í


c
c
á

á
c
c


c
c


a
a


t
t


n
n


t
t


i
i


t

t
r
r
o
o
n
n
g
g


l
l


c
c
h
h


s
s









H
H
ư
ư


n
n
g
g


d
d


c
c
h
h


c
c
h
h
u
u
y

y


n
n


c
c


a
a














C
C
á

á
c
c


v
v




t
t
r
r
í
í


d
d


c
c
h
h


c

c
h
h
u
u
y
y


n
n








T
T
h
h


i
i


k

k




m
m




c
c


a
a





















T
T
h
h


i
i


k
k




đ
đ
ó
ó
n
n
g

g


c
c


a
a


















T
T
h

h


i
i


đ
đ
i
i


m
m


đ
đ
ó
ó
n
n
g
g


m
m





c
c


a
a


x
x
á
á
c
c


đ
đ


n
n
h
h



















T
T
h
h


i
i


đ
đ
i
i



m
m


đ
đ
ó
ó
n
n
g
g


m
m




c
c


a
a


k

k
h
h
ô
ô
n
n
g
g


x
x
á
á
c
c


đ
đ


n
n
h
h













1
1
0
0
4. Nguyễn Văn Cư, Phạm Duy Tiến. Sạt lở bờ biển Miền Trung. NXB
KHKT Hà Nội (2003)
5. Nguyễn Chu Hồi. Nghiên cứ khai thác sử dụng hợp lý tiềm năng phá
Tam Giang. Báo cáo tổng kết đề tài KT- TL 95 - 09.
6. Vũ Văn Phái. Địa mạo khu bờ biển hiện đại trung bộ Việt Nam - Luận
án PTS Địa mạo và cổ địa lý - ĐHQG Hà Nội (1996).
7. Nguyễn Khoa Lạnh. Động lực phát triển địa hình bờ biển và hiện
tượng xâm thực xói lở bờ biển Thuận An - Hòa Duân. Tạp chí
TTKHCN Thừa Thiên Huế, số 03 (1995).
8. Nguyễn Thám. Động lực xói lở bờ biển và sự biến đổi cửa Tư Hiền -
Thuận An. Báo cáo Hội thảo đầm phá Thừa Thiên Huế (2/2000).
9. Trần Đức Thạnh. Hiện tượng bồi lấp cửa Tư Hiền. Tạp chí THKHCN
Thừa Thiên Huế, số 09 (1995).
10. Trần Hữu Tuyên. Nghiên cứu quá trình địa chất động lực công trình ở
đới ven biển Bình Trị Thiên. Luận án Tiến sĩ địa chất. Trường Đại học
Mỏ địa chất (2003).
11. Trần Hữu Tuyên. Tác động của hoạt động con người đến môi trường

địa chất vùng hạ lưu các con sông lớn khu vực Bình Trị Thiên. Báo cáo
Hội nghị lần thứ XIII - Đại học Mỏ địa chất.
TÓM TẮT
Hiện nay, sự biến đổi bờ biển Quảng Trị, Thừa Thiên Huế đang diễn ra rất
nhanh và phức tạp. Nếu xét tổng quát nguyên nhân tạo quá trình chủ yếu gây




1
1
1
1
biến đổi bờ biển thì sự biến đổi bờ biển Quảng Trị, Thừa Thiên Huế có các loại:
biến đổi do mài mòn, xói lở (xâm thực phá hủy); biến đổi do bồi tụ; biến đổi do
dịch chuyển, xâm thực và bồi tụ vùng cửa sông và biến đổi do mở đóng cửa trên
bờ đầm phá. Trong các loại biến đổi bờ biển đó thì sự biến đổi do xâm thực phá
hủy chiếm ưu thế và đặc biệt là xâm thực xói lở. Thực trạng biến đổi bờ biển như
vậy đang là mối đe doa đối với sự phát triển kinh tế ở khu vực này. Vì thế, để
phát triển kinh tế- xã hội vùng ven biển của hai tỉnh cần hiểu rõ bản chất của
từng loại biến đổi để từ đó có các phương án thích ứng và giải pháp khắc phục.

THE CHANGING PROCESS OF THE COASTLINES
IN QUANG TRI AND THUA THIEN HUE PROVINCES
Le Van An
College of Pedagogy, Hue University
SUMMARY
The present changes of the sea coasts of Quang Tri and Thua Thien Hue
Provinces are so fast and complicated. The changes are of different types:
washing away, destroying-eroding, deposition, shifting, eroding and deposition

of coastal estuaries, opening or closing the doors on the edge of the reservoirs
and the lagoons.
The change by destroying- eroding gains advantage over other changes,
especially washing away. The actual situation of the sea- coast changes is a
threat to the economic development of the provinces. To get rid of the threat, it is




1
1
2
2
important to understand the nature of each change, in order to have suitable
projects and solutions.

×