Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Chẩn đoán bệnh lý ruột thừa bằng siêu âm và chụp cắt lớp pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.45 KB, 4 trang )

Chẩn đoán bệnh lý ruột thừa bằng siêu
âm và chụp cắt lớp
Viêm ruột thừa (VRT) chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhóm
bệnh lý cấp cứu ngoại khoa ổ bụng. VRT có đặc điểm hoặc
rất đơn giản, hoặc rất phức tạp nếu bệnh cảnh lâm sàng
không điển hình, dễ chẩn đoán nhầm và để lại nhiều biến
chứng nguy hiểm. Ngày nay, siêu âm và chụp cắt lớp vi tính
đã cho phép phát hiện tổn thương ruột thừa ở giai đoạn
sớm, độ chính xác cao, ngay cả những trường hợp bệnh cảnh
lâm sàng rất khó.
Trong những năm gần đây, siêu âm
Doppler đã bắt đầu có những đóng góp
quan trọng trong chẩn đoán bệnh lý
VRT, nó không những cho phép củng cố
chẩn đoán xác định, mà còn góp phần
đáng kể trong việc phát hiện tổn thương
viêm ở giai đoạn sớm cũng như những
biến chứng ở giai đoạn muộn.
Chụp cắt lớp vi tính ra đời trong những năm đầu của thập kỷ 70
đã làm chấn động ngành y tế nói riêng và thế giới khoa học nói
chung, nhưng phải đến những năm cuối của thập kỷ 90, phương
pháp này mới thực sự chinh phục được bệnh lý VRT. Nếu như
máy chụp cắt lớp vi tính thông thường cho phép chẩn đoán VRT
chính xác đến 85%, thì máy chụp xoắn ốc đạt tới độ chính xác
trên 90%, nên ngày nay phương pháp này đang được ưa chuộng
ở các nước phát triển. Thành tựu vượt bậc là đến năm 2000 ra
đời máy chụp cắt lớp vi tính 4 dãy đầu dò cho phép chẩn đoán
chính xác viêm ruột thừa đến khoảng 95%, nhưng chưa dừng lại
Hình
ảnh ruột thừa bị
viêm cấp.


ở đó, năm 2004 với máy chụp 64 dãy đầu dò đã nâng hiệu quả
chẩn đoán lên đến 98%, cho đến nay, vấn đề chỉ còn là chẩn
đoán thể VRT khó, chẩn đoán biến chứng, tiên lượng và dự kiến
hướng điều trị thích hợp nhất.
Chẩn đoán như thế nào?
Ruột thừa bình thường nằm ở hố chậu phải, liên tiếp với đáy
manh tràng, dài khoảng 6cm, đường kính dưới 6mm. Thành ruột
thừa cấu trúc bởi các lớp giải phẫu có thể nhìn thấy được trên
siêu âm và cắt lớp vi tính với ranh giới tương đối rõ, từ ngoài
vào trong bao gồm lớp thanh mạc, lớp cơ, lớp dưới niêm mạc,
lớp niêm mạc và lòng ruột thừa.
Khi bị viêm, trên siêu âm cũng như cắt lớp vi tính, cấu trúc các
lớp giải phẫu thành ruột thừa không còn rõ và mất đi, kích thước
ruột thừa phì đại trên 6mm. Siêu âm cắt ngang ruột thừa thấy
hình ảnh bia đạn là các vòng tròn đồng tâm, ấn đầu dò không
thấy ruột thừa xẹp kèm theo phản ứng thành bụng.
Một số tổn thương khác cũng rất có ý nghĩa trong bệnh lý VRT
như hình ảnh dày thành manh tràng, dày thành hồi tràng, hạch
phản ứng ở mạc treo ruột thừa, thâm nhiễm mỡ quanh ruột thừa,
dịch vùng hố chậu phải.
Các thể bệnh lý ruột thừa khó
Sỏi phân, giun, ứ dịch trong lòng ruột thừa là những nguyên
nhân gây đau bụng cấp và tái diễn nhiều lần ở vùng hố chậu
phải, triệu chứng lâm sàng nghèo nàn nên rất dễ bị bỏ sót nếu
chỉ dựa vào thăm khám lâm sàng, trong khi đó siêu âm và chụp
cắt lớp vi tính lại cho phép phát hiện chính xác những tổn
thương này.
Ruột thừa nằm ở những vị trí bất thường khi viêm luôn có bệnh
cảnh lâm sàng rất phức tạp, khó chẩn đoán, hay bị chẩn đoán
nhầm với các bệnh khác, thường được mổ muộn sau khi đã xảy

ra biến chứng. Các vị trí bất thường của ruột thừa hay gặp như
sau manh tràng, dưới gan, vùng tiểu khung, hố chậu trái, giữa ổ
bụng, gốc mạc treo, trong túi thoát vị bẹn hay còn gọi là ruột
thừa trong túi thoát vị Amyand Khi các triệu chứng lâm sàng
không điển hình, siêu âm gợi ý ruột thừa lạc chỗ, thì chỉ định
chụp cắt lớp vi tính là rất cần thiết để chẩn đoán xác định bệnh
lý VRT.
U nhầy ruột thừa cũng là một trong những bệnh lý rất khó chẩn
đoán nếu chỉ dựa vào các triệu chứng lâm sàng bởi bệnh nhân
thường không có triệu chứng hoặc chỉ đau mơ hồ vùng hố chậu
phải. Bệnh gặp 0,25% trong tổng số bệnh lý ruột thừa, nữ giới
gấp 4 lần nam giới. Lớp niêm mạc ruột thừa có biểu hiện quá
sản khu trú hoặc toàn bộ, chất nhầy tiết ra nhiều hình thành các
u tuyến dạng nang trong thành ruột thừa, nang có thể vỡ làm
thoát chất nhầy ra ổ bụng tạo thành một khối u nhầy lớn vùng hố
chậu phải và bệnh cảnh lâm sàng trở nên rất phức tạp. Đối với
bệnh lý u nhầy ruột thừa và u nhầy hố chậu phải, vai trò chẩn
đoán của siêu âm và chụp cắt lớp vi tính là rất quan trọng.
Ung thư biểu mô tuyến dạng nang nhầy của ruột thừa có hình
ảnh giống với u nhầy ruột thừa nên bệnh chỉ được chẩn đoán xác
định sau khi đã làm xét nghiệm tế bào học.
Ung thư tế bào biểu mô ruột thừa rất hiếm gặp, tổn thương
thường ở gốc ruột thừa nên hình ảnh siêu âm có dạng bia bắn ở
gốc ruột thừa và đáy manh tràng, chụp cắt lớp vi tính thấy dày
mỏm manh tràng kèm theo phì đại và thâm nhiễm gốc ruột thừa.
Các biến chứng của VRT
Ruột thừa viêm nếu phát hiện muộn sẽ bị vỡ, mủ tràn vào trong
ổ bụng gây viêm phúc mạc toàn thể, viêm phúc mạc khu trú, áp
xe, đám quánh ruột thừa. Tùy theo các biến chứng, mỗi biến
chứng tùy theo từng mức độ và hình thái tổn thương mà từ đó có

nhiều phương pháp điều trị khác nhau, nên đòi hỏi phải chẩn
đoán chính xác các biến chứng thì mới hy vọng có được phương
pháp điều trị tối ưu nhất. Siêu âm và chụp cắt lớp vi tính hoàn
toàn đáp ứng được các yêu cầu ấy.
Trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, trang thiết bị máy móc
chưa được trang bị đầy đủ ở tuyến y tế cơ sở, số lượng bệnh
nhân luôn quá tải, điều kiện kinh tế của người dân còn rất khó
khăn, thì việc chẩn đoán VRT chủ yếu vẫn chỉ dựa vào thăm
khám lâm sàng, xu hướng lựa chọn thêm siêu âm để kết hợp
chẩn đoán sẽ là mô hình hợp lý nhất.

×