Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Cường giáp ở phụ nữ có thai pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.13 KB, 5 trang )

Cường giáp ở phụ nữ có thai
Cường giáp là bệnh không hiếm gặp ở các phụ nữ
mang thai, tuy nhiên còn nhiều người, kể cả một số
thầy thuốc còn chưa hiểu biết rõ về các nguy cơ cũng
như cách thức theo dõi và điều trị căn bệnh này. Sự
thiếu hiểu biết đã khiến cho nhiều người quyết định
sai lầm là bỏ thai khi biết mình bị bệnh cường giáp.
Nguyên nhân phổ biến nhất gây cường giáp ở các phụ nữ
có thai là bệnh Basedow, chiếm tới 80-85% các trường
hợp, với tỷ lệ 1/1.500 phụ nữ có thai. Các nguyên nhân
gây cường giáp khác cũng có nhưng hiếm gặp hơn như
bướu nhân độc tuyến giáp Bên cạnh đó những người bị
ốm nghén nặng và có nồng độ hCG cao cũng có thể gây
cường giáp thoáng qua.
Cường giáp có nguy cơ gì cho mẹ?
Bệnh Basedow có thể xuất hiện
hoặc nặng lên (ở người đã có
bệnh Basedow cũ) trong 3 tháng
đầu của thai kỳ. Bên cạnh các
nguy cơ cổ điển của cường giáp
như suy tim, loạn nhịp tim, lồi
mắt nếu không được điều trị tốt
thì các thai phụ mắc bệnh cường
giáp có thể bị sảy thai sớm hoặc
Cường tuyến giáp.
các biến chứng nặng khác như nhiễm độc thai nghén, sản
giật. Ngoài ra, những phụ nữ có thai khi mà bệnh
Basedow của họ vẫn đang tiến triển nặng thì có nguy cơ
rất cao bị cơn cường giáp cấp hay còn gọi là cơn bão giáp
với tỷ lệ tử vong cao. Trong 3 tháng cuối của thai kỳ, mức
độ cường giáp thường có giảm nhưng bệnh sẽ lại nặng lên


sau đẻ. Với những phụ nữ bị bệnh Basedow muốn có thai
thì tốt nhất là hãy đợi đến khi điều trị khỏi bệnh. Tuy
nhiên nếu trong khi đang điều trị bệnh mà họ có thai
ngoài ý muốn thì hoàn toàn có thể giữ được thai, điều
quan trọng là họ phải đi khám ngay chuyên khoa nội tiết
để có được lời khuyên tốt nhất. Những trường hợp muốn
bỏ thai khi đang bị cường giáp nặng thì nên điều trị cường
giáp cho tới khi tạm ổn định mới được phép bỏ thai để
hạn chế các biến chứng, nhất là cơn cường giáp cấp.
Cường giáp ở người mẹ có ảnh hưởng như thế nào đến
thai nhi?
Sự phát triển của thai nhi ở các bà mẹ bị bệnh cường giáp
có thể bị ảnh hưởng do 3 cơ chế sau:
Cường giáp ở người mẹ không được kiểm soát tốt, nồng
độ các hormon tuyến giáp trong máu người mẹ cao, hậu
quả là nồng độ tuyến giáp trong thai nhi cũng cao và làm
tăng nhịp tim thai, thai nhi nhẹ cân so với tuổi, đẻ non,
thai chết lưu. Khả năng cường giáp gây dị tật cho thai có
thể xảy ra. Đó chính là một nguyên nhân quan trọng giải
thích tại sao phải bắt buộc điều trị và kiểm soát được tình
trạng cường giáp ở người mẹ.
Nồng độ globulin miễn dịch kích thích tuyến giáp rất cao
trong máu. Các kháng thể này có vượt qua hàng rào nhau
thai và kích thích tuyến giáp của thai nhi gây ra cường
giáp thai nhi, và hậu quả cũng làm thai nhi bị nhẹ cân, tim
đập nhanh và có nguy cơ bị đẻ non
Ở những người mẹ bị Basedow được điều trị thuốc kháng
giáp tổng hợp như methimazole, carbimazole, thyrozole
hay propylthiouracil (PTU). Các loại thuốc này đều qua
được nhau thai với mức độ khác nhau và có thể ức chế

hoạt động tuyến giáp, dẫn đến sự hình thành bướu giáp ở
thai nhi. Dựa trên kết quả các nghiên cứu, PTU là thuốc
thường được lựa chọn để điều trị cường giáp ở phụ nữ có
thai vì nó qua nhau thai ít hơn so với các thuốc khác.
Theo các khuyến cáo, chỉ sử dụng thuốc kháng giáp trạng
tổng hợp ở liều thấp nhất có hiệu quả để hạn chế ảnh
hưởng đến thai nhi.
Lựa chọn điều trị cho những phụ nữ mang thai bị
cường giáp/Basedow
Trường hợp cường giáp nhẹ (hormon tuyến giáp tăng ít,
các triệu chứng nhẹ hoặc không rõ) thường chỉ cần theo
dõi chặt mà không cần điều trị gì nếu sức khỏe của mẹ và
thai nhi tốt. Trường hợp cường giáp nặng thì cần điều trị
bằng các thuốc kháng giáp trạng tổng hợp, và như đã đề
cập ở trên thì thuốc được lựa chọn là PTU. Mục tiêu của
điều trị là giữ cho nồng độ FT3 và FT4 của mẹ ở giới hạn
cao của bình thường (hoặc hơi cao hơn bình thường) với
liều PTU thấp nhất có tác dụng mặc dù nồng độ TSH có
thể vẫn thấp. Bằng cách này sẽ hạn chế được các nguy cơ
thai nhi bị suy giáp hoặc có bướu giáp. Tuyệt đối tránh để
mẹ bị suy giáp vì hậu quả cho con là rất lớn, nhất là 3
tháng đầu của thai kỳ. Muốn vậy các thai phụ cần phải
được theo dõi chặt, bệnh nhân phải được khám và làm xét
nghiệm FT4 và TSH hằng tháng.
Ở các bệnh nhân không thể điều trị nội khoa được (ví dụ
do dị ứng thuốc kháng giáp trạng) thì phẫu thuật là
phương pháp điều trị thay thế. Nhưng nhìn chung đây là
phương pháp ít khi phải áp dụng cho những phụ nữ mang
thai vì nguy cơ của cả phẫu thuật và gây mê có thể xảy ra
cho mẹ và thai.

Điều trị iode phóng xạ bị chống chỉ định cho phụ nữ có
thai vì iode có thể qua được nhau thai và tấn công tuyến
giáp của thai nhi gây phá hủy tuyến giáp, hậu quả là gây
suy giáp vĩnh viễn.
Các thuốc beta-blocker như atenolol có thể được sử
dụng tạm thời trong thời gian mang thai để làm giảm các
triệu chứng như run tay và hồi hộp đánh trống ngực. Tuy
nhiên nên hạn chế nếu có thể vì có nghiên cứu cho thấy
nó có khả năng làm giảm sự phát triển của thai khi dùng
kéo dài. Thông thường nó chỉ dùng trong thời gian ngắn
cho đến khi các thuốc kháng giáp trạng có tác dụng và
kiểm soát được cường giáp.
Tiến triển của cường giáp sẽ như thế nào sau khi đẻ?
Bệnh Basedow hay nặng lên sau khi đẻ, thường là trong
thời gian 3 tháng đầu sau khi đẻ. Khi đó các bệnh nhân
cần phải bắt đầu lại hoặc tăng liều thuốc kháng giáp trạng
tổng hợp và theo dõi thường xuyên như khi không có thai.

×