Dự phòng toàn diện ung thư
cổ tử cung
Ung thư cổ tử cung có thể phòng tránh được nếu phát hiện sớm
được các tổn thương tiền ung thư và điều trị sớm khi các tổn
thương đó còn mới bắt đầu. Có thể phòng tránh ung thư cổ tử
cung bằng hai cách: một là phòng viêm nhiễm từ đầu, không để
cho virut HPV có cơ hội gây ra các biến đổi tiền ung thư tại cổ
tử cung; hai là phát hiện sớm các dấu hiệu tiền ung thư để sớm
có cách điều trị, không để cho các tổn thương đó trở thành ung
thư gây hậu quả nặng nề và tử vong cho phụ nữ. Cách thứ nhất
được gọi là dự phòng cấp 1 hay dự phòng tiên phát. Cách thứ hai
được gọi là dự phòng cấp 2 hay dự phòng thứ phát. Khi thực
hiện dự phòng ung thư cổ tử cung cho phụ nữ bằng cả hai cách
thì có thể coi là giải pháp dự phòng toàn diện bảo vệ cho phụ
nữ.
Dự phòng cấp 1 là cách dùng vaccin để kích thích cơ thể sản
xuất ra kháng thể chống lại chủng 16 và 18 virut HPV. Cơ chế
tác dụng cũng giống như đối với việc tiêm vaccin phòng các
bệnh khác như sởi, virut viêm gan B, Rotavirus. Hầu hết nam nữ
đều bị nhiễm HPV trong những năm đầu sinh hoạt tình dục.
Ngay cả khi luôn luôn sử dụng bao cao su thì cũng chỉ bảo vệ
phòng tránh nhiễm virut HPV được khoảng 70%. Để phụ nữ có
thể được bảo vệ đầy đủ, Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị tiêm
vaccin HPV cho các em gái vị thành niên trước khi bước vào
tuổi quan hệ tình dục - từ độ tuổi 9 hoặc 10 - 13 tuổi. Vaccin có
hiệu quả bảo vệ gần 100% đối với HPV chủng 16 và 18, là
nguyên nhân chủ yếu gây ra ung thư cổ tử cung. Vaccin này
được chứng minh là an toàn. Hiện nay có gần 30 nước đã đưa
vaccin này vào Chương trình tiêm chủng mở rộng, trong đó có
Australia, Malaysia, Anh, Mỹ và hầu hết các nước thuộc Cộng
đồng châu Âu. Vaccin đã được cấp phép sử dụng ở trên 100
nước, trong đó có nước ta.
Tiêm vaccin HPV phòng ngừa ung thư cổ
tử cung. Ảnh: Kim Anh
Dự phòng cấp 2 được tiến hành bằng khám sàng lọc, phát hiện
những tổn thương tiền ung thư ở cổ tử cung trước khi chúng
phát triển thành ung thư. Khi khám sàng lọc, nếu phát hiện
những bất thường, người phụ nữ có thể được điều trị ngay hoặc
sau đó vài ngày. Có hai phương pháp sàng lọc thường dùng là
xét nghiệm các tế bào lấy ra từ cổ tử cung gọi là làm phiến đồ
âm đạo, còn gọi bằng tên chuyên môn là Pap smear và kiểm tra
cổ tử cung bằng mắt thường có sử dụng axít axêtic (gọi tắt theo
tên tiếng Anh là VIA). Cả hai phương pháp này đều nhằm tìm
kiếm những bất thường ở cổ tử cung, có thể là dấu hiệu tiền ung
thư cổ tử cung.
Phương pháp VIA áp dụng tốt nhất cho phụ nữ từ 30-49 tuổi,
nhóm tuổi này cũng là nhóm có nguy cơ cao nhất bị ung thư cổ
tử cung. Nếu phát hiện được dấu hiệu tiền ung thư cổ tử cung,
thầy thuốc sẽ thực hiện điều trị sớm bằng phương pháp thích
hợp. Phụ nữ từ 30-49 tuổi nên đến các cơ sở y tế để khám phát
hiện sớm ung thư cổ tử cung. Hiện nay, khi đến khám sàng lọc
ung thư cổ tử cung, chị em phụ nữ còn được khám sàng lọc ung
thư vú ngay trong cùng một lần đến khám. Phương pháp Pap
smear đã được thực hiện trên toàn thế giới trong hơn 50 năm
qua, ở các nước phát triển, phương pháp này là phương pháp
thường quy trong sàng lọc định kỳ cho phụ nữ, góp phần giảm
tới 70-80% tỷ lệ mắc ung thư cổ tử cung tại các nước phát triển
từ những năm 1960. Tuy nhiên những đòi hỏi cao về phương
tiện kỹ thuật và kinh phí để phổ biến và duy trì phương pháp này
lại không phù hợp với những nước có điều kiện nguồn lực hạn
chế, trong đó có Việt Nam. VIA đã được chứng minh là phương
pháp có thể phát hiện nhạy và hiệu quả không kém so với
phương pháp Pap smear trong việc phát hiện sớm nhằm giảm tử
vong do ung thư cổ tử cung. VIA đơn giản về kỹ thuật thực hiện,
phương tiện chỉ cần một chiếc đèn pin và dung dịch axít axêtic
(giấm) cho nên được đánh giá là phương pháp phù hợp cho
những nơi có điều kiện nguồn lực hạn chế. Do đó, có thể áp
dụng thực hiện VIA tại các cơ sở y tế vùng sâu, vùng xa, có ít
trang thiết bị mà vẫn tiếp cận được nhiều phụ nữ. Hơn nữa, VIA
cho kết quả ngay nên có thể thực hiện điều trị hoặc chuyển
tuyến ngay trong cùng một lần đến sàng lọc. Nhờ đó, người phụ
nữ không phải đến cơ sở y tế nhiều lần, đồng thời cũng góp phần
giảm số phụ nữ không được điều trị vì không quay lại điều trị
với nhiều lý do và tăng được số phụ nữ được điều trị. Điều trị
sớm thường được áp dụng ngay trong một lần khám sàng lọc.
Phương pháp điều trị sớm thường là điều trị áp lạnh. Đây là
phương pháp đơn giản, ít tốn kém và an toàn bằng cách làm
đông lạnh mô cổ tử cung bị nhiễm bệnh. Không nhất thiết phải
là bác sĩ phụ khoa mới có thể làm được phương pháp này mà y
tá và nữ hộ sinh được đào tạo là có thể thực hiện một cách an
toàn và hiệu quả. Đây là một giải pháp tốt để mở rộng sàng lọc
tới tuyến cơ sở, giúp ngành y tế có thêm khả năng tăng cường
thực hiện sàng lọc ung thư cổ tử cung với tỷ lệ phụ nữ được
sàng lọc tăng với khả năng nguồn lực hạn chế.
Mặc dù cách tiếp cận phòng ung thư cổ tử cung một cách toàn
diện đòi hỏi sự nỗ lực của cả hệ y tế dự phòng và hệ điều trị
những với những sáng kiến phòng chống ung thư cổ tử cung trên
thế giới, với những nỗ lực từ phía lãnh đạo và cán bộ chuyên
môn, được sự hỗ trợ giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, chúng ta
hoàn hoàn có thể hy vọng vào một tương lai gần sẽ là một thế
giới không còn ung thư cổ tử cung do HPV.