Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác – lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.43 KB, 19 trang )

TIỂU LUẬN
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN
(Ngun lý 2)
Chủ đề 3: Tiền cơng
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH BẢN CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC TIỀN LƯƠNG CƠ
BẢN TRONG CNTB


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................1
I. LÝ LUẬN TIỀN LƯƠNG TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN CỦA C. MÁC.....2
II.THỰC TRẠNG TIỀN LƯƠNG HIỆN NAY Ở VIỆT NAM........................7
III.CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG Ở VIỆT NAM........................8
III. GIẢI PHÁP,KIẾN NGHỊ ĐỂ HỒN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN
LƯƠNG Ở VIỆT NAM:.................................................................................12
KẾT LUẬN.....................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................17


LỜI MỞ ĐẦU
Do nhu cầu bức thiết hiện nay, hoạt động kinh doanh, sản xuất trong
nền kinh tế thị trường địi hỏi các doanh nghiệp, cơng ty cần vận dụng linh
hoạt các phương pháp quản lý đặc biệt là phương pháp kinh tế. Một trong
những biện pháp kinh tế là vấn đề tiền cơng, tiền thưởng. Chúng ta có thể
thấy rằng tất cả mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của con người đều vì lợi
ích kinh tế. Do vậy việc gắn liền tiền công với hiệu quả sản xuất kinh doanh
cùng việc nâng cao mức sống ổn định và phát triển trên cơ sở kinh tế là những
vấn đề khơng thể tách rời.


Trong mục đích phát triển nền kinh tế đất nước tiêu biểu là nền kinh tế
nhiều thành phần hiện nay thì việc bảo vệ lợi ích cá nhân cho người lao động
là động lực cơ bản khuyến khích sự cố gắng, nỗ lực sáng tạo trong sản
xuất.Vì vậy cơng tác thanh tốn tiền lương, các khoản trích theo lương khơng
chỉ giúp điều hịa vốn của doanh nghiệp chủ sở hữu mà cịn đảm bảo lợi ích
của người lao động .Cùng với đó thì doanh nghiệp cũng tạo dựng được nền
tảng vốn vững chắc của mình để đi vào guồng quay chung xã hội trong cơ chế
mới. Tuy nhiên tiền công chỉ thực sự phát huy tác dụng của nó khi hình thức
tiền cơng được áp dụng thích hợp nhất, sát thực với tình hình kinh tế của đơn
vị kinh doanh, đúng nguyên tắc quy định của nhà nước và khả năng cống hiến
của mỗi người.
Sau đây là bài tiểu luận với đề tài: “ Phân tích bản chất và các hình thức
tiền lương cơ bản trong CNTB”

1


I. LÝ LUẬN TIỀN LƯƠNG TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN CỦA
C. MÁC
1.Bản chất tiền lương dưới CNTB:
Biểu hiện bề ngoài của dời sống xã hội tư bản,công nhân làm việc cho
nhà tư bản một thời gian nhất định, sản xuất ra mơt lượng hàng hóa hay hay
hồn thành một số cơng việc nào đó thì nhà tư bản trả cho công nhân một số
tiền nhất định gọi là tiền công. Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng
rằng tiền cơng là giá cả của lao động. Sự thật thì tiền công không phải là giá
cả hay giá trị của lao động, vì lso động khơng phải là hàng hóa. Sở dĩ như
vậy là vì:
-Nếu lao động là hàng hóa, thì nó phải có trước, phải được vật hóa
trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề cho lao động vật hóa được là phải
có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất, thì họ sẽ bá

hàng hóa do mình sản xuất ra, chứ không bán” lao động”.
-Việc thừa nhận lao động là hàng hóa dẫn tới một trong hai mâu thuẫn
về lý luận sau đây:
Thứ nhất, nếu lao động là hàng hóa và nó được trao đổi ngang giá, thì
nhà tư bản không thu được lơị nhuận(giá trị thặng dư); điều này phủ nhận sự
tồn tại thực tế của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, còn nếu” hàng hóa lao động” trao đổi khơng ngang giá để có
giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì phải phủ nhận quy luật giá trị.
-Nếu lao động là hàng hóa, thì hàng hóa đó cungc phải có giá trị.
Nhưng lao động là thực thể và là thước đo nội tại của giá trị, bản thân lao
động thì khơng có giá trị . Vì thế lao động khơng phải là hàng hóa , cái mà
cơng nhân bán cho nhà tư bản chính là sức lao động. Do đó, tiền công mà nhà
tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao động.
Như vậy bản chất của tiền cơng trong chủ nghĩa tư bản là hình thức
biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, hay giá cả của sức lao động,
nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài thành giá cả của lao động.
2


Hình thức biểu hiện đó đã gây ra sự nhầm lẫn. Điều đó là do những
thực tế sau đây:
Thứ nhất, đặc điểm của hàng hóa sức lao động là khơng bao giờ tách
khỏi người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho
người mua, tức là lao động cho nhà tư bản, do đó bề ngồi chỉ thấy nhà tư bản
trả giá trị cho lao động.
Thứ hai, đối với cơng nhân ,tồn bộ lao động trong cả ngày là phương
tiện để có tiền sinh sống, do đó bản thân cơng nhân cũng tưởng rằng mình bán
lao động. Cịn đối với nhà tư bản bỏ tiền ra là để có lao động, nên cũng nghĩ
rằng cái mà họ mua là lao động.
Tiền công đã che đậy mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao động

thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành lao
động được trả công và lao động không được trả công, che đậy mất bản chất
bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
2.Các chức năng của tiền lương.
a. Chức năng thước đo giá trị:
Tiền lương là sự thể hiện bằng tiền của sức lao động. Do đó tiền lương
chính là thước đo giá trị sức lao động, được biểu hiện như giá trị lao động cụ
thể của việc làm được trả cơng. Ta cũng có thể hiểu theo cách khác đó là giá
trị của việc làm được phản ánh thông qua tiền lương. Với việc làm có giá trị
cao thì mức lương lao động được nhận là càng lớn.
b. Duy trì,củng cố và phát triển sức lao động :
Dựa trên chủ nghĩa tư bản Mác thì tiền lương là biểu hiện giá trị sức lao
động, là giá trị của tư liệu sinh hoạt cần thiết để đảm bảo, duy trì cuộc sống
của người lao động, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi quốc
gia. Giá trị sức lao động gồm cả các yếu tố lịch sử, vật chất,tinh thần. Có thể
nói đây là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên giá trị của sức lao động.
Giá trị sức lao động là điểm xuất phát của sản xuất nói chung và người sử
dụng lao động nói riêng. Khi đó dễ nhận thấy giá trị sức lao động mang tính
3


chất khách quan dù là người lao động làm công hay người sử dụng lao động.
Đây là kết quả của sự mặc cả trên thị trường lao động giữa người sử dụng sức
lao động”mua” và người có sức lao động “bán”.
c.Kích thích, đẩy mạnh lao động và phát triển nguồn nhân lực.
Tiền lương chính là phần thu nhập chính đáng của người lao động
nhằm thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của người lao động. Do
đó, các mức tiền lương hợp lý sẽ thúc đẩy, tạo sự an tâm tơí người lao động,
đồng thời nó cịn là đòn bẩy kinh tế thể hiện được sự quan tâm và động cơ
trong lao động của người lao động.Khi mà cơng sức lao động chân tay hay trí

óc của người lao động được trả với số tiền lương xứng đáng phụ thuộc vào
hiệu quả sản xuất của công ty thì họ sẽ khơng ngừng nâng cao năng suất và
chất lượng cơng việc.
d.Thúc đẩy q trình phân cơng lao động giúp xã hội phát triển
Nguồn gốc để tăng thu nhập , tăng khả năng thỏa mãn của người lao
động suy cho cùng đó là nâng cao hiệu quả lao động,năng suất lao động. Khác
với thị trường hàng hóa thơng thường, cầu về lao động không phải là cầu
cho bản thân nó, mà đâu là cầu dẫn xuất tức là phụ thuộc vào khả năng tiêu
thụ của sản phẩm do lao động làm ra và mức giá hàng hóa này. Tổng tiền
lương quyết định tổng cầu về hàng hóa, dịch vụ cần thiết phải sản xuất cũng
như giá cả của nó. Vì vậy tiền lương phải dựa trên cơ sở tăng năng suất lao
động. Việc tăng năng suất lao động dẫn đến việc các công ty, doanh nghiệp
cần phân bổ lại nguồn lực lao động hợp lý.Theo quy luật của thị trường, lao
động sẽ tái phân bố vào khu vực có năng suất cao hơn để nhận mức lương cao
hơn.
e. Chức năng xã hội của tiền lương
Tiền lương chính là yếu tố tạo nên các mối quan hệ lao động. Dễ dàng
thấy việc duy trì mức lương cao và tăng khơng ngừng chỉ được thực hiện trên
khi các mối quan hệ lao động trong các doanh nghiệp diễn ra hài hòa, không
xung đột hay tranh chấp. Khi đã tạo ra được nền tảng như trên thì việc gắn kết
4


tiền lương với hiệu quả của người lao động và đơn vị kinh tế sẽ thúc đẩy các
mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau, năng cao hiệu quả cạnh tranh của
cơng ty, từ đó thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng dân chủ và văn minh.
3.Các hình thức cơ bản của tiền công trong chủ nghĩa tư bản.
Dựa vào cách thức tính tiền cơng, người ta chia tiền cơng thành hai loại
cơ bản:
*Tiền cơng tính theo thời gian: là hình thức tiền cơng mà số lượng của

nó phụ thuộc vào độ dài thời gian lao động của công nhân.
-Cơ sở trả công là độ dài của thời gian lao động ( giờ, ngày, tuần,
tháng) + trình độ tay nghề + cường độ lao động + tính chất cơng việc.
-Phạm vi áp dụng:
+Tiền cơng tính theo thời gian thường được áp dụng trong các công
việc không định lượng được một cách cụ thể.
+Trả tiền công theo chế độ này, nhà tư bản có thể dùng biện pháp tăng
cường độ lao động và tăng năng suất lao động để bóc lột cơng nhân nhiều hơn
*Tiền cơng tính theo sản phẩm: là hình thức tiền cơng tính theo số
lượng sản phẩm đã làm ra, hoặc số lượng công việc đã hoàn thành trong một
thời gian nhất định.
-Đo lường: Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định,
gọi là đơn giá tiền công. Để quy định đơn giá tiền cơng, người ta lấy tiền cơng
trung bình một ngày của một công nhân chia cho số lượng sản phẩm của một
công nhân sản xuất ra trong một ngày lao động bình thường.
-Tác dụng:
+Đối với nhà tư bản: Tiền cơng tính theo sản phẩm một mặt giúp cho
nhà tư bản trong việc quản lý, giám sát quá trình làm việc của cơng nhân dễ
dàng hơn.
+Đối với người lao động: Kích thích cơng nhân lao động tích cực, khẩn
trương tọ ra nhiều sản phẩm để thu được lượng tiền công cao hơn.

5


+Đối với xã hội: Cơng bằng hơn, ai có khả năng, lao động tích cực thì
thu nhập sẽ cao hơn.
4.Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế. Xu hướng vận động
của tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản.
Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán

sức lao động của mình cho nhà tư bản. Tiền công được sử dụng để tái sản
xuất sức lao động,nên tiền cơng danh nghĩa phải được chuyển hóa thành tiền
công thực tế.
Tiền công tực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa
tiêu dùng và dịch vụ mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của
mình.
Tiền cơng danh nghĩa là giá cả sức lao động, nên nó có thể tăng lên hay
giảm xuống tùy theo sự biến động của quan hệ cung cầu về hành hóa sức lao
động trên thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền cơng danh nghĩa
khơng thay đổi nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hoặc giảm
xuống, thì tiền cơng thực tế sẽ giảm xuống hay tăng lên.
Tiền công là giá cả của sức lao động, nên sự vận động của nó gắn liền
với sự biến đổi của giá trị sức lao động. Lượng giá trị sức lao động chịu ảnh
hưởng của các nhân tố tác động ngược chiều nhau. Nhân tố tác động làm tăng
giá trị sức lao động như: sự nâng cao trình độ chun mơn của người lao
động, sự tăng cường độ lao động và sự tăng lên của nhu cầu cùng với sự phát
triển của xã hội. Nhân tố tác động làm giảm giá trị sức lao động, đó là sự tăng
năng suất lao động làm cho giá cả tiêu dùng rẻ đi. Sự tác động qua lại của các
nhân tố đó dẫn tới q trình phức tạp của sự biến đổi giá trị sức lao động, do
đó dẫn đến sự biến đổi phức tạp của tiền công thực tế.
Tuy nhiên, C Mác đã vạch ra rằng xu hướng chung của sản xuất tư bản
chủ nghĩa không phải là nâng cao mức tiền cơng trung bình mà là hạ thấp
mức tiền cơng ấy. Bởi lẽ trong q trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền
công danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi
6


không theo kịp mức tăng giá cả tư lệu tiêu dùng và dịch vụ, đồng thời thất
nghiệp là hiện tương thường xuyên khiến cho cung về lao động làm thuê vượt
quá cầu về lao động, điều đó cho phép nhà tư bản mua sức lao động dưới giá

trị của nó, vì vậy tiền cơng thực tế của giai cấp cơng nhân có xu hướng hạ
thấp.
Nhưng sự hạ thấp của tiền cơng thực tế chỉ diễn ra như một xu hướng,
vì có những nhân tố chống lại sự hạ thấp tiền cơng. Một mặt, đó là cuộc đấu
tranh của giai cấp cơng nhân địi tăng tiền cơng. Mặt khác trong điều kiện của
chủ nghĩa tư bản ngày nay, do sự tác động của cuộc khoa học và công nghệ
nên nhu cầu về sức lao động có chất lượng cao ngày càng tăng đã buộc giai
cấp tư sản phải cải tiến tổ chức lao động cũng như kích thích người lao động
bằng lợi ích vật chất. Đó cũng là nhân tố cản trở xu hướng hạ thấp tiền công.
II.THỰC TRẠNG TIỀN LƯƠNG HIỆN NAY Ở VIỆT NAM.
Theo thống kê của liên đoàn Việt Nam thì tính đến thời điểm này có
rất nhiều cuộc ngưng việc chủ yếu là vấn đề tiền lương và cải thiện điều kiện
làm việc. Hàng triệu công nhân đang cõng trên lưng gánh nặng cơm áo của
bản thân và gia đình họ. Là lực lượng quan trọng làm ra của cải vật chất cho
xã hội thế nhưng hiện nay mức lương tối thiểu vùng áp dụng cho các loại hình
doanh nghiệp mới chỉ đáp ứng khoảng 70% nhu cầu sống tối thiểu của cơng
nhân,người lao động.Có những gia đình cơng nhân với đồng lương thu nhập
q ít ỏi thì họ buộc phải dành những ngày nghỉ cuối tuần của mình để đi làm
thêm, tăng ca ở cơng ty, doanh nghiệp để tăng thêm thu nhập. Với mức lương
tối thiểu vùng khu vực Hà Nội hiện nay là 3.100.000 nghìn đồng , số tiền này
chưa đủ để bù đắp chi trả hàng tháng của gia đình, chỉ đủ trong chi tiêu ăn
uống và phải thật tiết kiệm mới tích lũy được khoản tiền dư. Như vậy với mức
lương từ 2.500.000 đến 3.100.000 nghìn đồng như hiện nay, lương thấp
khiến người công nhân coi làm thêm là việc làm duy nhất để tăng thu nhập và
có tích lũy. Có những ngày người công nhân phải làm 12 tiếng mới đủ đáp
ứng cuộc sống trong gia đình. Ở những doanh nghiệp mà được làm thêm thì
7


công nhân đang được hưởng “ phúc lợi” của doanh nghiệp. Với đồng lương

hạn hẹp, mỗi người đều có tính toán riêng trong chi tiêu, những quầy hàng
rong, những khu chợ cóc là sự lựa chọn của rất nhiều người. Một bó rau, một
con cá có thể rẻ hơn nhiều so với siêu thị nhưng không ai đảm bảo chất lượng
là an toàn.Qua đây ta thấy rõ người lao động đang phải làm việc trong các loại
hình doanh nghiệp mức lương tối thiểu vùng chưa đáp ứng được cuộc sống tối
thiểu của gia đình họ. Cịn với cán bộ cơng nhân viên chức được hưởng mức
lương theo ngân sách nhà nước nhà nước thì như thế nào. Theo bộ Nội Vụ
mức lương cơ sở là 1.150.000 nghìn đồng 1 tháng mới chỉ đạt gần 40% mức
chi tiêu của người dân. Vì vậy thời gian vừa qua đã khơng ít người từ dã nơi
đã nhiều năm gắn bó để gia nhập khu vực ngồi nhà nước, tìm đến mơi trường
mới phù hợp hơn. Và đây có thể là tín hiệu tốt cho xã hội bởi đây là sự cạnh
tranh giữa cơ quan đơn vị sự nghiệp nhà nước với tổ chức tư nhân. Mức điều
chỉnh lương cơ sở lâu nay chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, chưa dựa vào
mức sống tối thiểu và hiệu quả công việc nên chưa khuyến khích cán bộ nhiệt
huyết, sáng tạo trong cơng việc.
III.CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG Ở VIỆT NAM.
Chính sách tiền lương ở nước ta đã trải qua 4 lần cải cách (năm 1960,
năm 1985, năm 1993 và năm 2003), nhưng vẫn cịn nhiều bất cập, Chính sách
tiền lương là một bộ phận đặc biệt quan trọng, quan hệ chặt chẽ với các chính
sách khác trong hệ thống chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, đời sống
của đa số người hưởng lương cịn khó khăn; tiền lương trong khu vực doanh
nghiệp vẫn chưa theo kịp sự phát triển của thị trường lao động; tiền lương
trong khu vực công vẫn còn thấp so với khu vực doanh nghiệp và yêu cầu
phát triển của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; việc điều chỉnh tiền
lương của người đang làm việc vẫn chưa độc lập với việc điều chỉnh lương
hưu và trợ cấp ưu đãi người có cơng; việc thể hóa chủ trương của Đảng về
tiền tệ hóa các chế độ ngồi lương (ơ tơ, nhà ở, khám chữa bệnh,...) cịn chậm.

8



Thực hiện đường lối đổi mới theo cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo ban hành nhiều văn bản điều chỉnh,
bổ sung, từng bước hồn thiện chính sách tiền lương, hồn thiện cơ chế quy
định mức lương tối thiểu vùng và chế độ tiền lương của khu vực doanh
nghiệp theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước;
thực hiện nguyên tắc chỉ điều chỉnh mức lương cơ sở và ban hành chính sách,
chế độ mới đối với khu vực cơng khi đã bố trí đủ nguồn lực, không ban hành
mới các chế độ phụ cấp theo nghề, bước đầu triển khai xây dựng danh mục vị
trí việc làm để làm cơ sở cho việc trả lương.... Cụ thể là
Trong khu vực công, tiền lương từng bước được cải thiện, góp phần
nâng cao đời sống của người hưởng lương. Từ năm 2003 đến nay đã 11 lần
điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung từ 210.000 đồng lên 1.300.000
đồng/tháng (tăng thêm 519%, cao hơn mức tăng chỉ số giá tiêu dùng cùng kỳ
là 208,58%), thu gọn hệ thống bảng lương, rút bớt số bậc và mở rộng khoảng
cách giữa các bậc lương. Quy định bảng lương chuyên môn theo ngạch, bậc
đối với công chức, viên chức; quy định các chức danh lãnh đạo từ thứ trưởng
và tương đương trở xuống thực hiện xếp lương ngạch, bậc và hưởng phụ cấp
chức vụ lãnh đạo, tạo thuận lợi cho việc điều động, luân chuyển cán bộ trong
hệ thống chính trị. Bảng lương của lực lượng vũ trang được quy định riêng
thể hiện rõ sự ưu đãi của Nhà nước. Thực hiện nâng bậc lương đối với cán bộ,
công chức, viên chức; xét thăng quân hàm đối với sĩ quan; nâng ngạch công
chức theo nguyên tắc cạnh tranh. Quy định phụ cấp theo 5 nhóm gồm: Phụ
cấp chức vụ lãnh đạo; phụ cấp theo vùng; phụ cấp theo điều kiện lao động, ưu
đãi nghề, công việc; phụ cấp theo thời gian công tác; phụ cấp theo cơ quan.
Từng bước đổi mới và tách riêng cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập của
cơ quan Nhà nước với đơn vị sự nghiệp công lập để tăng thêm thu nhập cho
cán bộ, cơng chức và viên chức; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của cơ quan Nhà nước và chất lượng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công.
Đổi mới giải pháp tạo nguồn cải cách tiền lương, gồm 4 nguồn thay cho việc

9


bảo đảm toàn bộ từ ngân sách Trung ương như trước năm 2003. Cũng nhiều
trường hợp có các khoản ngồi lương như bồi dưỡng họp, xây dựng đề án, đề
tài... chiếm tỷ lệ lớn trong thu nhập của cán bộ, cơng chức, làm mất vai trị
địn bẩy của tiền lương. Chưa có giải pháp gắn cải cách tiền lương với sắp xếp
tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế. Việc đổi mới tổ chức và quản lý, cơ chế
tài chính đối với khu vực sự nghiệp công lập chưa đáp ứng yêu cầu. Nguồn
kinh phí thực hiện cải cách tiền lương cơ bản vẫn do ngân sách Nhà nước
(NSNN) bảo đảm (khoảng 98%) và chủ yếu từ ngân sách Trung ương
(khoảng 68%). Việc điều chỉnh giá, phí dịch vụ cơng nhiều lĩnh vực còn
chậm. Một số địa phương còn dư nguồn cải cách tiền lương nhưng không
được chi lương cao hơn. Chưa có cơ chế tiền thưởng gắn với kết quả thực
hiện nhiệm vụ. Công tác thông tin, báo cáo, thống kê và cơ sở dữ liệu quốc
gia về đối tượng và tiền lương trong khu vực cơng cịn hạn chế.[Trích theo
Báo Điện Tử CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM VGPNEWS đăng 08/05/2018]
Những hạn chế bất cập trong chính sách tiền lương ở Việt Nam.
Đối với khu vực doanh nghiệp, quy định về tiền lương tối thiểu chưa cụ
thể, tiêu chí xác định cịn nhấn mạnh vào nhu cầu sống tối thiểu; chưa quy
định mức lương tối thiểu theo giờ; chức năng bảo vệ người lao động yếu thế
còn hạn chế. Việc quy định một số nguyên tắc xây dựng thang, bảng lương
còn ảnh hưởng đến quyền tự chủ tiền lương của doanh nghiệp. Chưa thực sự
phát huy được vai trò, tác dụng của cơ chế thương lượng. Vi phạm quy định
pháp luật về tiền lương cịn nhiều; cơng tác hướng dẫn, tun truyền, kiểm
tra, thanh tra, xử lý vi phạm còn hạn chế. Cơ chế quản lý tiền lương đối với
doanh ngiệp Nhà nước còn nhiều bất cập. Tiền lương của người lao động
chưa thực sự gắn với năng suất lao động; chưa tách bạch giữa tiền lương của
hội đồng quản trị, hội đồng thành viên với ban giám đốc.

Những hạn chế, bất cập của chính sách tiền lương có ngun nhân
khách quan nhưng ngun nhân chủ quan là chủ yếu, cụ thể như sau: Tiền
10


lương là vấn đề phức tạp, ảnh hưởng lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội;
cịn tư tưởng bình qn, cào bằng; chưa có nghiên cứu tồn diện về tiền lương
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; đối tượng hưởng lương,
phụ cấp từ NSNN quá lớn và ngày càng tăng, nhất là biên chế viên chức trong
các đơn vị sự nghiệp công lập và người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã, ở thôn và tổ dân phố dẫn đến tổng quỹ lương và phụ cấp từ NSNN ngày
càng lớn (khoảng 20% chi NSNN). Việc xác định vị trí việc làm còn chậm,
chưa thực sự làm cơ sở để xác định biên chế và trả lương. Nguồn kinh phí
được giao tự chủ trong tổng chi NSNN cấp cho cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa
hợp lý, dẫn đến việc sử dụng các khoản chi hoạt động hành chính để bổ sung
thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức khá lớn và trở thành phổ biến.
Việc gắn điều chỉnh tiền lương với điều chỉnh lương hưu và trợ cấp ưu đãi
người có cơng, dẫn đến thay đổi lộ trình của từng chính sách. Chưa phân định
rõ mối quan hệ giữa quản lý Nhà nước và quản trị doanh nghiệp, giữa đại diện
chủ sở hữu với ban điều hành doanh nghiệp. Công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát và việc phát huy vai trị của tổ chức cơng đồn cịn nhiều hạn chế.
Cơng tác hướng dẫn, tun truyền về chính sách tiền lương chưa tốt, chưa tạo
được đồng thuận cao.
Việc cải cách chính sách tiền lương thời gian tới có những cơ hội,
thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Chúng ta được kế thừa thành tựu
của hơn 30 năm đổi mới, phát triển và hội nhập; nhận thức về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ, hoàn thiện. Nhiều
quyết sách quan trọng của Đảng và Nhà nước tạo nền tảng cho cải cách chính
sách tiền lương đã được ban hành, nhất là về hoàn thiện thể chế kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Thế và lực của
nền kinh tế đã lớn mạnh hơn; thị trường lao động ngày càng phát triển; năng
11


suất lao động, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh ngày càng tăng, tạo nền
tảng và điều kiện thuận lợi cho cải cách chính sách tiền lương.
Tuy nhiên, khó khăn, thách thức còn rất lớn; tiềm lực NSNN còn hạn
hẹp trong khi nhu cầu chi rất lớn cho đầu tư phát triển, cải cách chính sách
tiền lương, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ mơi trường, ứng phó với biến đổi
khí hậu và quốc phịng an ninh. Việc cải cách chính sách tiền lương liên quan
đến nhiều cơ chế, chính sách, ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp nhân dân, các đối
tượng trong xã hội nên đòi hỏi phải có sự đồng thuận, quyết tâm chính trị cao
và cần có thời gian phát huy hiệu quả. Trong khi đó, hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, khoa học công nghệ biến đổi rất nhanh và Cách mạng công
nghiệp 4.0 địi hỏi phải tiếp tục đổi mới, cải cách tồn diện, tổng thể chính
sách tiền lương để khơng là trở ngại mà trở thành một cơng cụ quan trọng
khuyến khích và thu hút các nguồn lực lao động, thúc đẩy tăng năng suất lao
động phục vụ mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.[Theo VGPNEWS]
III. GIẢI PHÁP,KIẾN NGHỊ ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
TIỀN LƯƠNG Ở VIỆT NAM:
Trước yêu cầu phát triển trong điều kiện những cơ hội, thuận lợi và khó
khăn, thách thức đan xen địi hỏi chúng ta phải có quan điểm đúng đắn, phù
hợp với bối cảnh mới.
+Đối với Nhà nước:
-Tổ chức nghiên cứu tổng thể về mối quan hệ vĩ mơ của tiền lương,
trên cơ sở đó xem xét thể hiện các nội dung hịan thiện nói trên vào đề án cải
cách lương Nhà nước trong giai đoạn tới.

-Quy định những quy tắc chung nhất về việc xây dựng thang lương,
bảng lương cho các doanh nghiệp vận dụng. Theo đó các doanh nghiệp có
trách nhiệm xây dựng hệ thống thang lương, bảng lương, phụ cấp lương phù
hợp với quy mô, tổ chức sản xuất và tổ chức lao động, tự lựa chọn mức lương
tối thiểu không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định, hình

12


thành các phương pháp trả lương và thu nhập gắn với năng suất, chất lượng
và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
-Hướng dẫn xây dựng hệ thống tiền lương, định mức lao động, đơn giá
tiền lương, phương pháp tính năng suất lao động gắn với tiền lương.
-Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về tiền lương, sửa đổi,
hoàn thiện pháp luật về cán bộ công viên chức, lao động, doanh nghiệp,bảo
hiểm xã hội và pháp luật có liên quan đến chính sách tiền lương theo hướng
đẩy mạnh phân cấp, giao quyền tự chủ cho các cơ quan đơn vị.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của nhân dân,
Mặt trận Tổ quốc và các địan thể chính trị xã hội trong việc hoạch định và
nghiên cứu chính sách có liên quan đến lao động và tiền lương đồng bộ với
sáp xếp bộ máy, tinh giảm biên chế, đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý đói
với đơn vị sự nghiệp cơng lâp.
- Quyết liệt thực hiện các giải pháp tài chính, ngân sách tạo nguồn lực
cho cải cách chính sách tiền lương, gồm: (1) Thực hiện có hiệu quả các Nghị
quyết của Trung ương về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng
trưởng, về phát triển kinh tế tư nhân, về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động
của DNNN; về quản lý nợ công; (2) Cơ cấu lại thu NSNN bảo đảm tỷ lệ huy
động vào NSNN ở mức phù hợp; (3) Hàng năm, ưu tiên dành khoảng 50%
tăng thu dự toán và 70% tăng thu thực hiện của ngân sách địa phương, khoảng
40% tăng thu ngân sách Trung ương cho cải cách chính sách tiền lương; (4)

Tiếp tục thực hiện tiết kiệm 10% dự toán chi thường xuyên tăng thêm hàng
năm; (5) Nguồn thực hiện cải cách chính sách tiền lương cịn dư hàng năm
phải tiếp tục sử dụng để thực hiện cải cách chính sách tiền lương cho các năm
sau, không sử dụng vào mục đích khác khi khơng được cấp có thẩm quyền
cho phép; (6) Cơ cấu lại chi NSNN gắn với cải cách tiền lương, cơ cấu lại chi
một số lĩnh vực sự nghiệp cơng gắn với việc điều chỉnh giá, phí đối với các
dịch vụ sự nghiệp công. Bãi bỏ các khoản chi ngồi lương của cán bộ, cơng
chức, viên chức có nguồn gốc từ NSNN. Thực hiện khoán quỹ lương cho các
13


cơ quan, đơn vị; khốn các chế độ ngồi lương (xe ô tô, nhà ở, khám chữa
bệnh...); (7) Đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi từ phí sang thực hiện giá dịch vụ
sự nghiệp công theo hướng Nhà nước quy định khung giá dịch vụ, từng bước
tính đủ các chi phí đối với các loại dịch vụ cơ bản, thiết yếu, đồng thời gắn
với chính sách hỗ trợ phù hợp cho người nghèo, đối tượng chính sách.[Trích
VGPNEWS]
+Đối với các bộ nghành liên quan.
-Thực hiện ngay việc cụ thể hóa và hướng dẫn các quy định mới của
Nhà nước về chính sách tiền lương, đối với khu vực sản xuất, kinh doanh.
-Chuyển đổi cơ chế quản lý hành chính áp đặt tiền lương trong khu vực
sản xuất kinh doanh hiện nay sang cơ chế mang tính chất hướng dẫn là chủ
yếu.Đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc bảo đảm
thực hiện chính sách tiền lương trong khu vực này đúng với quỹ đạo chung và
bảo vệ quyền lợi người lao động trong doanh nghiệp.
-Đồng bộ đổi mới các cơ chế quản lý khác trong doanh nghiệp cho phù
hợp với q trình đổi mới phù hợp với chính sách tiền lương.
-Tổ chức bộ phận nghiên cứu hoạch định chính sách tiền lương,bộ phận
kiểm tra,giám sát thực hiện chính sách tiền lương phù hợp với yêu cầu quản
lý mới. Kịp thời xử lý những vướng mắc phát sinh trong vấn đề tiền lương thu

nhập cũng như đề xuất với nhà nước việc điều chỉnh bổ sung , sửa đổi khi
phát sinh bất hợp lý.
Đối với doanh nghiệp:
-Trả lương đúng cho công nhân là đầu tư cho phát triển nguồn nhân
lực, tạo động lực nâng cao năng suất lao động v làm và hiệu quả làm việc của
người lao động, góp phần thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, năng cao
tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
-Doanh nghiệp cần đảm bảo nguyên tắc tốc độ tăng tiền lương bình
quân thắp hơn tốc độ tăng năng suất lao động bình quân, lợi nhuận bình quân

14


đầu người không thấp hơn năm trước liền kề. Đây là tách nhiệm quản lý tự
thân của doanh nghiệp, không phải sự áp đặt hành chính của Nhà nước.
- Tổ chức cơng tác hoạch tốn kế tốn, kế tốn, phân tích hiệu quả
doanh nghiệp để thực hiện điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu vùng phù hợp
với tình hình phát triển kinh tế xã hội, khả năng chi trả của doang nghiệp và
mức sống của người lao động đồng thời đảm bảo vai trị của tổ chức Cơng
Đồn trong vấn đề này theo quy định của pháp luật.

15


KẾT LUẬN
Như vậy tiền cơng có vai trị đặc biệt quan trọng trong cơng tác kế tốn
của các cơ quan, doanh nghiệp. Hiện nay xã hội ngày càng phát triển theo
hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thì hoạt động sản xuất, kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường càng đòi hỏi các các cơ quan đầu nghành, các doanh
nghiệp phải vận dụng linh hoạt các phương pháp quản lý, đặc biệt là các biện

pháp kinh tế về vấn đề tiền công,tiền thưởng. Mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của con người đều vì lợi ích kinh tế để đáp ứng nhu cầu cuộc sống. Do
vậy tiền lương là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến hiệu quả sản xuất,
thế nên việc gắn liền tiền lương với hiệu quả sản xuất kinh doanh đến việc
nâng cao mức sống ổn địnhvà phát triển là việc không thể tách rời. Song song
với đó thì việc cải cách chính sách tiền lương cho cán bộ công chức,người lao
động theo hướng tiền tệ hóa đầy đủ tiền lương, điều chỉnh tiền lương ứng với
nhịp độ đi lên của xã hội, hệ thống thang lương hợp lý,khuyến kích người tài
giỏi là việc làm mà Đảng và Nhà nước cần tiếp tục quan tâm cải cách để tiền
lương gắn liền với sự phát triển kinh tế, xã hội của đât nước.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình “ Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mac Leelin” NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
2.Cải cách chính sách tiền lương để nâng cao đời sống cho
CBCCVC,LLVT và người lao động trong doanh nghiệp. [Theo báo điện tử
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VGPNEWS]

17



×