Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

TỪ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT, LÀM RÕ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CUỘC CÁCH MẠNG 4.0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.93 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------

TIỂU LUẬN
TỪ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT,
LÀM RÕ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG
CUỘC CÁCH MẠNG 4.0
GVHD
Họ và tên
MSV
Lớp

: Nghiêm Thị Châu Giang
: Nguyễn Thanh Hương
: 11222700
: Ngân Hàng CLC 64

HÀ NỘI, 2023


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ______________________________________________ 2
1. Lý do chọn đề tài: _______________________________________ 2
2. Phạm vi nghiên cứu: ____________________________________ 3
3. Phương pháp nghiên cứu: ________________________________ 3
4. Kết cấu của bài tiểu luận: ________________________________ 3
PHẦN NỘI DUNG__________________________________________ 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN
XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC


LƯỢNG SẢN XUẤT ______________________________________ 4
1.1 Các khái niệm liên quan: _____________________________ 4
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất: _____________________________________________ 7
1.3 Ý nghĩa của phương pháp luận trong đời sống xã hội: _____ 9
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CUỘC
CÁCH MẠNG 4.0 VÀ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ CHỦ YẾU VỀ ĐỔI
MỚI LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG BỐI CẢNH TỒN CẦU
HĨA VÀ CÁCH MẠNG CƠNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ ______ 10
2.1 Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng 4.0): 10
2.2 Người lao động trong Cuộc Cách mạng 4.0: ____________ 10
2.3 Liên hệ vai trò của người lao động trong Cuộc Cách mạng 4.0
ở Việt Nam: __________________________________________ 14
2.4 Giải pháp, kiến nghị chủ yếu về đổi mới lực lượng sản xuất
trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư:
____________________________________________________ 16
KẾT LUẬN CHUNG _______________________________________ 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO ___________________________________ 19


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong quá trình vận động lâu dài của lịch sử, xã hội loài người tồn
tại, phát triển và trải qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau trong đó
mỗi hình thái luôn gắn liền với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất khác nhau. Bên cạnh đó, quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất cũng đóng vai trị là nền tảng hình thành tất cả
các quan hệ xã hội. Qua đó, sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất chính là kết quả của tồn bộ quá trình lao động sản xuất của cải vật
chất.

Yếu tố người lao động là lực lượng sản xuất chính của xã hội, trực
tiếp tham gia vào công cuộc sản xuất của cải vật chất, là cơ sở tồn tại cho sự
phát triển của xã hội, giữ vai trò quyết định, không thể thiếu trong sản xuất
và phát triển nền kinh tế của mọi quốc gia trên thế giới. Bởi lẽ tất cả của cải
vật chất và tinh thần của xã hội đều là sản phẩm từ bàn tay, trí óc con người
tạo ra.
Khi nghiên cứu về xã hội loài người, C. Mác khẳng định mọi sự
thay đổi của đời sống xã hội, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ sự biến đổi của
lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh tồn cầu hóa và cuộc Cách mạng cơng
nghiệp lần thứ tư hiện nay, trình độ của lực lượng sản xuất đã có những bước
phát triển nhảy vọt so với trước kia. Từ đó ta càng nhận thấy rõ được vai trò
quan trọng của người lao động. Sự phát triển nhảy vọt đó đã cung cấp thêm
những chứng cứ thực tiễn thuyết phục để tiếp tục khẳng định quan điểm
đúng đắn của C. Mác về lực lượng sản xuất, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu
cần phải bổ sung, phát triển quan điểm của C. Mác về vấn đề này cho phù
hợp với thực tiễn.
Do vậy, nhờ những lý do trên mà đề tài “Từ quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, làm rõ vai trò
người lao động trong cuộc cách mạng 4.0.” đã được chọn làm đề tài nghiên
cứu bởi tính thực tiễn và vận dụng cao vào công cuộc đổi mới đất nước ta
hiện nay.
2


2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi phân tích, nghiên cứu đề tài: phạm vi phân tích xoay
quanh các lí luận về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển lực lượng sản xuất và vai trị của người lao động trong cuộc
cách mạng 4.0.


3. Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp luận: Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa
trên các nguyên lý, phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
đồng thời tuân thủ các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử để
xem xét, đánh giá vấn đề.
* Phương pháp chung: Phương pháp lơgic - lịch sử, quy nạp,
diễn dịch, phân tích tổng hợp...
* Phương pháp cụ thể: Phương pháp nghiên cứu tài liệu, thu thập
tài liệu, phân tích, sắp xếp,... để làm sáng tỏ vấn đề. Ngồi ra, trong
q trình nghiên cứu, tác giả còn tiến hành trao đổi, thảo luận với đồng
môn, tranh thủ sự giúp đỡ của thầy cô trong khoa để bổ sung cho tiểu
luận.

4 . Kết cấu của bài tiểu luận:
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận, cũng như các phần phụ lục
khác, kết cấu đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Chương 2: Vai trò của người lao động trong cuộc Cách mạng 4.0
và giải pháp, kiến nghị chủ yếu về đổi mới lực lượng sản xuất trong bối cảnh
tồn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

3


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT QUAN HỆ
SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT


1.1 Các khái niệm liên quan:
1.1.1 Khái niệm phương thức sản xuất:
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình
sản xuất vật chất ở những thời điểm lịch sử nhất định của xã hội lồi
người. Đồng thời đó cũng là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với
một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Phương thức
sản xuất là cách thức con người thực hiện đồng thời sự tác động giữa
con người với tự nhiên và sự tác động giữa người với người để sáng
tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội ở những
giai đoạn lịch sử nhất định.
1.1.2 Những vấn đề cơ bản về quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất.
a) Lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người và
giới tự nhiên trong quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất theo
mục đích của con người để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển, là
thước đo quan trọng trong sự tiến bộ của xã hội loài người. Trải qua
các giai đoạn phát triển khác nhau, lực lượng sản xuất sẽ có trình
độ và tính chất khác nhau. Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ
bản nhất – năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con người.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư
liệu sản xuất.
Người lao động: Là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao
động và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của
cải xã hội; đồng thời là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, vừa
là chủ thể sáng tạo, vừa là chủ thể tiêu dùng mọi của cải hữu hình
4


trong sản xuất xã hội. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận, quan trọng

và đặc biệt của sản xuất.
Tư liệu sản xuất: Là toàn bộ điều kiện vật chất cần thiết để người
lao động tiến hành quá trình lao động sản xuất, và được coi là yếu
tố thiết yếu của lực lượng sản xuất. Nó bao gồm tư liệu lao động và
đối tượng lao động.
Tư liệu lao động: Là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con
người dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi
đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu sản xuất của
con người. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện
lao động.
+ Phương tiện lao động: Là những yếu tố vật chất của sản xuất,
cùng với công cụ lao động giúp con người tác động lên đối tượng
lao động trong quá trình sản xuất vật chất.
+ Cơng cụ lao động: Là những phương tiện vật chất mà con người
sử dụng trực tiếp để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi
chúng, tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu của xã hội và
con người. Công cụ lao động là yếu tố giữ vai trò quyết định đến
năng suất lao động, động nhất, cách mạng nhất và cũng là nguyên
nhân sâu xa của mọi biến đổi kinh tế xã hội trong lịch sử, là thước
đo trình độ tác động, cải biến tự nhiên của con người và tiêu chuẩn
để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau.
Đối tượng lao động: là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao
động con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi
chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người.
Tư liệu lao động và đối tượng lao động là những yếu tố vật
chất của quá trình lao động sản xuất tạo nên tư liệu sản xuất. Do
con người tạo ra như phương tiện lao động và công cụ lao động.
Công cụ lao động được xem như hệ thống “chủ lực” của sản xuất,
là yếu tố cơ bản, quan trọng không thể thiếu được, thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của con người, kết nối trung gian giữa người

và tư liệu sản xuất làm giảm áp lực và tăng năng suất lao động của
con người. Trong toàn bộ yếu tố của lực lượng sản xuất, người lao
động là yếu tố không thể thiếu, là chủ thể sáng tạo có vai trị quyết
5


định nhất, sử dụng trí tuệ để chế tạo và vận dụng cơng cụ lao động
vào q trình sản xuất; là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản
xuất vật chất, nguồn gốc của sự phát triển sản xuất. Ngày nay, thế
giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại, từ
đó, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tạo ra những
của cải, hàng hóa đặc biệt. Qua đó, sự phát triển của khoa học đã
kích thích sự phát triển năng lực làm chủ sản xuất của con người.
b) Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất biểu hiện các quan hệ kinh tế - vật chất
giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất, cũng giống
như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống
xã hội. Đây chính là một quan hệ vật chất quan trọng nhất – quan
hệ kinh tế, trong các mối quan hệ vật chất giữa người với người. Nó
có tính khách quan và tồn tại độc lập với ý muốn chủ quan của con
người, thể hiện sự đặc trưng của mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất
định.
Quan hệ sản xuất bao gồm các kết cấu sau:
- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất: là quan hệ giữa các tập đoàn
người trong việc chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất xã hội; nó
quy định quan hệ địa vị kinh tế - xã hội, từ đó quy định quan hệ
quản lý và phân phối.
- Quan hệ tổ chức quản lí và trao đổi hoạt động với nhau: là quan
hệ giữa các tập đoàn người trong việc tổ chức sản xuất và phân cơng
lao động. Nó có vai trị quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ,

hiệu quả của nền sản xuất.
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động: là quan hệ giữa các tập
đoàn người trong việc phân phối sản phẩm lao động xã hội, quy
định cách thức và quy mô của cải vật chất mà các tập đồn người
được hưởng. Nó đóng vai trị là chất xúc tác trực tiếp đến lợi ích và
thái độ của con người trong quá trình lao động sản xuất.
Ba mặt nói trên có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng thống
nhất với nhau, mỗi mặt đều có tác động thúc đẩy, chi phối hoặc kìm
hãm qua lại, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trị
quyết định bản chất và tính chất của quan hệ sản xuất. Bởi vì, lực
6


lượng xã hội nào nắm phương tiện vật chất chủ yếu của quá trình
sản xuất thì sẽ quyết định việc quản lý quá trình sản xuất và phân
phối sản phẩm.

1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được xem là hai khía cạnh
của phương thức sản xuất, giữa chúng tồn tại mối quan hệ biện chứng chặt
chẽ với nhau. Cụ thể, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn
quan hệ sản xuất tác động ngược lại lực lượng sản xuất. Chúng phụ thuộc
và tác động lẫn nhau tạo thành quy luật xã hội cơ bản nhất của sự vận động
và phát triển xã hội. Quy luật thể hiện động lực và xu thế phát triển của lịch
sử.
1.2.1 Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và
của người lao động. Nó có tính cá thể hoặc xã hội, thể hiện sự địi hỏi trong
nền sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện qua trình độ

chun mơn, kỹ năng lao động của con người, sự phát triển của các cơng cụ
lao động, trình độ phân cơng lao động và tổ chức quản lí lao động xã hội,
quy mơ của nền sản xuất.
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời và
phát triển của quan hệ sản xuất, hình thành quan hệ chặt chẽ giữa người lao
động với nhau.
1.2.2 Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất:
Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì
lực lượng sản xuất đóng vai trị quyết định sự hình thành, phát triển và biến
đổi của quan hệ sản xuất. Tuy vậy, nó chỉ làm biến đổi cục bộ chứ khơng
thể thay đổi tồn diện bởi quy luật này thể hiện sự cân đối hài hòa của bản
chất mối quan hệ trên. Lực lượng sản xuất được xem là nội dung của q
trình sản xuất có tính năng động, cách mạng, có xu hướng vận động, phát
triển và biến đổi thường xuyên, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của
quá trình sản xuất có yếu tố tương đối ổn định và bảo thủ, khi nội dung thay
7


đổi làm hình thức thay đổi theo. Sự phù hợp giữa chúng tạo động lực giúp
cho sản xuất phát triển cân đối, có hiệu quả giữa các yếu tố, làm tăng năng
suất lao động đồng thời giảm chi phí và thời gian sản xuất.
Khi lực lượng sản xuất phát triển cao, thường ở giai đoạn cuối của
xã hội thì sẽ làm sản sinh ra lực lượng sản xuất mới mâu thuẫn với quan hệ
sản xuất hiện có, làm cho nó trở nên lỗi thời, lạc hậu. Bên cạnh đó, mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất lỗi thời sẽ biểu hiện
thành cuộc đấu tranh giữa các giai cấp lao động và cách mạng (đại biểu cho
lực lượng sản xuất mới vì họ có lợi ích do lực lượng sản xuất mới mang lại)
chống lại giai cấp thống trị lỗi thời, đại biểu cho quan hệ sản xuất cũ (vì lợi
ích của họ gắn liền với quan hệ sản xuất cũ). Các cuộc đấu tranh giai cấp
phát triển đến tột đỉnh sẽ chuyển thành cách mạng xã hội. Từ đó, phương

thức sản xuất cũ sẽ bị thay thế bằng phương thức sản xuất mới, cao hơn; làm
xuất hiện một xã hội mới cao hơn, văn minh, tiến bộ hơn.
1.2.3 Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Trong mối quan hệ biện chứng, quan hệ sản xuất giữ vai trị hình thức
kinh tế của q trình sản xuất, là tiền đề tạo ra mục tiêu thích hợp cho lực
lượng sản xuất. Do đó quan hệ sản xuất đã tác động trở lại, quy định mục
đích, cách thức sản xuất và phân phối những lợi ích từ q trình sản xuất,
gây ra tác động trực tiếp tới thái độ của người lao động, năng suất, chất
lượng cũng như hiệu quả của q trình sản xuất và cải tiến cơng cụ lao động
và ngược lại. Sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo
động lực và điều kiện giúp thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; quy định
mục đích, xu hướng phát triển của nền sản xuất xã hội; đem lại năng suất,
chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất.
Ngược lại, khi quan hệ sản xuất lỗi thời do tính chất ổn định khơng
cịn phù hợp với tính chất vận động của lực lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm,
thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất, điều này thường xảy ra trong lịch sử
do sự vận động của xã hội. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra trong điều
kiện nhất định và mức giới hạn quy định. Đây được xem là quy luật cơ bản,
chi phối sự vận động của xã hội lồi người và khơng ngừng phát triển phá
vỡ sự phù hợp. Khi cả hai không đồng nhất, phù hợp với nhau sẽ tạo ra mâu
thuẫn về mặt xã hội được gọi là mâu thuẫn giai cấp và chỉ mang tính chất
8


tạm thời, khi đó mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất
cũ sẽ được giải quyết bằng cách thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ
sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất.
Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
cùng các quy luật xã hội khác làm cho các phương thức sản xuất phát triển
thay thế kế tiếp nhau từ thấp đến cao, từ phương thức sản xuất cộng sản

nguyên thuỷ qua chiếm hữu nô lệ đến phong kiến, tư bản chủ nghĩa và đang
phát triển đến cộng sản chủ nghĩa.

1.3 Ý nghĩa của phương pháp luận trong đời sống xã hội:
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất có ý nghĩa phương pháp luận vô cùng quan trọng, việc nhận
thức đúng đắn quy luật này giúp cho việc nắm bắt quan điểm, hoạch định
đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức rõ sự đổi mới tư duy
kinh tế trong xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Trong thực tiễn, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực
lượng sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng lao động và công cụ lao
động. Khi có xuất hiện mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất
với sự lạc hậu của quan hệ sản xuất thì cần phải căn cứ vào trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, phải có những cuộc cải cách, đổi mới mà cao
hơn là một cuộc cách mạng chính trị để có thể giải quyết được mâu thuẫn,
từ đó từng bước khơi phục, tạo lập sự phù hợp giữa chúng, chứ không phải
kết quả của mệnh lệnh hành chính, chống tuỳ tiện, chủ quan, duy ý chí.

9


CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG
CUỘC CÁCH MẠNG 4.0 VÀ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ CHỦ
YẾU VỀ ĐỔI MỚI LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG BỐI
CẢNH TỒN CẦU HĨA VÀ CÁCH MẠNG CÔNG
NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
2.1 Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng 4.0):
2.1.1 Khái quát chung:
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư hay Cách mạng công nghệ 4.0

lần đầu tiên được nhắc đến thông qua cụm “Industrie 4.0” trong Hội nghị
Hannover Messe vào năm 2012 và được Chính phủ Đức đưa vào “Kế hoạch
hành động chiến lược công nghệ cao”. Kỷ nguyên Công nghiệp 4.0 ra đời
dựa trên cơ sở của sự phát triển trong lĩnh vực công nghệ bao gồm việc tạo
ra Hệ thống mạng vật lý điện tử (Cyber-Physical Systems - CPS) và Internet
kết nối vạn vật (Internet of Things - IoT).
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự dung hợp giữa các
công nghệ trên và sự tương tác của chúng trên các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật
số và sinh học, điều đó tạo nên sự khác biệt với những cuộc cách mạng trước
đó. (Klaus Schwab)
2.1.2 Bản chất:
Bản chất của Cách mạng 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và
tích hợp tất cả các cơng nghệ thơng minh để tối ưu hóa quy trình, phương
thức sản xuất. Từ đó cho thấy, cuộc Cách mạng 4.0 sẽ tận dụng tối đa cơng
nghệ thơng minh như robot trong q trình sản xuất vật chất, điều đó cũng
có nghĩa là tư liệu sản xuất đang phát triển với tốc độ rất nhanh.

2.2 Người lao động trong Cuộc Cách mạng 4.0:
2.2.1 Khái quát:
Cùng với sự phát triển vượt bậc của yếu tố tư liệu sản xuất, yếu tố
người lao động cũng không kém phần quan trọng. Bởi lẽ, công nghệ cũng
đều là sản phẩm của trí tuệ con người, vì thế, chúng ta cần đảm bảo con
người luôn là trung tâm của cuộc Cách mạng 4.0 hay là cả trong quá trình
sản xuất vật chất. (Hà Thu, 2018). Cụ thể, trong cuộc cách mạng 4.0, cơ hội
10


đem đến rất lớn, cùng với đó thách thức sẽ không hề nhỏ. Đứng trên phương
diện vĩ mô, việc ứng dụng các thành tựu khoa học - kĩ thuật, cách mạng công
nghiệp lần thứ tư giúp nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế, tiến bộ xã hội và chất lượng cuộc sống con người. Tuy nhiên, ngược
lại, việc ứng dụng khoa học – kỹ thuật cũng tạo ra quá trình dịch chuyển lao
động, sự biến mất của những việc làm cũ diễn ra nhanh hơn. Cạnh tranh lao
động không chỉ diễn ra giữa người với người mà giờ đây còn diễn ra giữa
con người với máy móc (rơ bốt, trí tuệ nhân tạo). (Bình Ngun, 2017)
Từ xưa đến giờ, để bước vào quy trình sản xuất, con người cần rèn
luyện thể lực và biết tận dụng sức mạnh cơ bắp. Tuy nhiên, trong thời đại
ngày nay, những bước ngoặt đột phá của khoa học, công nghệ của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 đã chứng minh được rằng, ngoài sức mạnh cơ bắp,
trong sản xuất, người lao động còn phải kết hợp và vận dụng các yếu tố tri
thức, kỹ năng, kĩ xảo đồng thời biết vận dụng các yếu tố khoa học kĩ thuật
tiên tiến hiện đại vào quá trình sản xuất để tạo ra những sản phẩm tốt nhất.
Ngồi ra, người lao động khơng nên chỉ thoả mãn và hài lòng với những
kiến thức hay kinh nghiệm mình sẵn có mà cần phải phát triển nhiều hơn
nữa, phải liên tục bồi dưỡng, trau dồi và học hỏi nhiều hơn. Mỗi người đều
phải ý thức được trách nhiệm của mình, chủ động trong cơng việc, học hỏi,
tìm kiếm những điều mới mẻ để khai phá. Và khi đã chuẩn bị có mình một
hành trang đầy đủ, cơng việc sẽ trở nên thuận tiện hơn, có thêm nhiều cơ
hội để phát triển bản thân, có thể đạt được hiệu quả và năng suất lớn nhất
trong sản xuất. Đặc biệt, đây cũng chính là động lực để xây dựng và thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
2.2.2 Yếu tố tri thức:
Tri thức được xem như là yếu tố quan trọng hàng đầu để đánh giá
người lao động, đó là sự hiểu biết, sáng tạo và khả năng ứng dụng nó vào
việc tạo ra những cái mới nhằm mục đích phát triển kinh tế xã hội. Tri thức
đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư duy thì
lúc đó đã có tri thức. Yếu tố này đã và đang ngày càng trở nên quan trọng
đối với đời sống xã hội bởi nó tác động trực tiếp đến các lĩnh vực của xã hội
như kinh tế, chính trị, văn hoá giáo dục. Tri thức là sức mạnh. Khi người lao
động am hiểu sâu rộng về lĩnh vực của mình thì càng dễ thực hiện được các

11


mục tiêu đã đề ra, có khả năng làm chủ cuộc sống, làm chủ bản thân. Một
xã hội với nhiều lao động có tri thức, học vấn, có nhận thức tốt thì càng phát
triển mạnh mẽ cả về chất và lượng. Trong thời đại công nghệ ngày càng tiên
tiến như hiện nay, tri thức sẽ là công cụ để đưa đất nước phát triển, hội nhập
quốc tế, có thêm nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi từ nhiều quốc gia khác nhau,
chia sẻ cho nhau những kinh nghiệm làm việc quý giá. Người lao động cần
vận dụng những tri thức, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo để đóng góp sức
mình trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, sáng chế ra những cái mới, tạo
ra được những sản phẩm có ích, phục vụ cho con người, thúc đẩy nền kinh
tế xã hội.
2.2.3 Yếu tố kỹ năng:
Cho đến nay, tất cả những phương tiện phục vụ con người trên trái
đất đều là kết quả của bàn tay con người sáng chế ra. Khơng chỉ riêng tri
thức, cuộc cách mạng 4.0 cịn địi hỏi ở người lao động cần phải có những
kỹ năng, kỹ xảo trong sản xuất. Kỹ năng là khả năng vận dụng các kiến thức,
sự hiểu biết của con người để thực hiện một công việc nhằm tạo ra những
kết quả mình mong muốn. Ví dụ như khi làm việc trong một dây chuyền sản
xuất, người lao động luôn cần phải phối hợp với nhau trong suốt các giai
đoạn tạo ra sản phẩm. Trong suốt quá trình ấy, người lao động cần phải biết
kết hợp các kỹ năng cứng, kỹ năng mềm, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng
giải quyết vấn đề… bởi trong bất kì hoạt động nào đều cần sự bổ trợ và
tương tác qua lại lẫn nhau giữa các kĩ năng. Dần dần những kỹ năng ấy trở
thành những kinh nghiệm trong lao động, giúp chúng ta vượt qua những trở
ngại và không bị lúng túng khi phải đối mặt với những khó khăn. Và trong
cơng việc luôn cần sự linh hoạt, không nên bị động, chỉ tập trung vào những
phương pháp cũ mà nên cải tiến nhiều hơn để đẩy nhanh tiến độ cũng như
đạt hiệu quả cao nhất.

2.2.4 Yếu tố khoa học - kỹ thuật:
Ngoài ra, người lao động cũng cần đẩy mạnh, tăng cường vận dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất của cải vật chất. Khi bàn đến các yếu tố cấu
thành lực lượng sản xuất, ngồi việc đề cao vai trị của người lao động và tư
12


liệu sản xuất, C. Mác nhấn mạnh vai trò của khoa học, coi đó là một trong
những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Thực tế, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm cải tiến công cụ
lao động, tạo ra những đối tượng lao động mới, hiện đại hoá các phương
tiện sản xuất. Khoa học kịp thời giải quyết những mâu thuẫn, những yêu cầu
do sản xuất đặt ra; có khả năng phát triển “vượt trước” và thâm nhập vào tất
cả các yếu tố của sản xuất, trở thành mắt khâu bên trong của quá trình sản
xuất. Tuy nhiên, đây cũng là điều đáng lo ngại bởi khoa học và công nghệ
đang dần thay thế vai trò quyết định của người lao động.
Hàng triệu lao động được dự kiến sẽ rơi vào cảnh thất nghiệp, đặc
biệt là nhân công trong ngành vận tải, kế tốn, mơi giới bất động sản hay
bảo hiểm. Ngồi ra, sự xuất hiện của “trí tuệ nhân tạo”, “người máy thông
minh” cũng là minh chứng cho sự phát triển khơng ngừng của khoa học,
cơng nghệ. Nhưng cũng vì vậy mà trong các nhà máy, xí nghiệp, số lượng
cơng nhân ngày càng giảm. Người máy không chỉ làm việc thay thế con
người những cơng việc nặng nhọc mà cịn có thể thay con nguời làm những
việc tinh vi và phức tạp hơn rất nhiều.
Song, điều đó khơng có nghĩa rằng khoa học, công nghệ, kỹ thuật
hiện đại trở thành yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất,
hay người lao động trở thành nhân tố thứ yếu, đứng ngồi q trình sản xuất.
Thực chất khoa học, cơng nghệ là sản phẩm của quá trình nhận thức, của sự
phát triển trí tuệ con người. Do yêu cầu sản xuất, nhu cầu ngày càng lớn mà
con người đã sáng tạo, quyết định khuynh hướng, tốc độ phát triển, đồng

thời sử dụng khoa học công nghệ vào sản xuất để phục vụ mục đích của
mình. Ví dụ trong hoạt động sản xuất lúa nước, để đạt được hiệu quả cao
nhất, người nông dân đã sáng chế ra nhiều loại máy móc mới để phục vụ
nhu cầu sản xuất như máy vét bùn, máy xúc lúa, máy lọc sạn… Nhờ vậy mà
năng suất lao động ngày càng cao, giúp ích cho bà con, khắc phục được
nhiều vấn đề khác nhau. Do đó, dù khoa học cơng nghệ có thể tạo ra một
cuộc cách mạng vĩ đại trong sự phát triển lực lượng sản xuất nhưng bản thân
nó khơng bao giờ có thể trở thành một yếu tố độc lập, đóng vai trị quyết
định mà chính con người, chính những người lao động mới là yếu tố không
thể thay thế được.
13


Như vậy, người lao động đóng vai trị rất lớn đối với cuộc cách
mạng khoa học công nghiệp lần thứ 4. Dù khoa học, công nghệ hiện đại đến
mấy cũng chỉ là sản phẩm do bàn tay và khối óc của con người tạo ra và
chịu sự điều khiển, giám sát của con người. Trí tuệ nhân tạo dẫu tiên tiến
đến đâu cũng chỉ là sản phẩm của con người, hoạt động của nó phụ thuộc
vào sự lập trình của con người. Vì vậy, khoa học - cơng nghệ là của con
người, gắn liền với con người, phụ thuộc vào con người và phải thông qua
hoạt động của con người mới có thể được vật hóa vào q trình sản xuất. Vì
thế, trong bất cứ thời đại nào, kể cả thời đại của khoa học - công nghệ hiện
đại, người lao động vẫn là nhân tố đóng vai trị quyết định sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Điều đó cho thấy, dù quan điểm của C. Mác về vai trò
quyết định của người lao động trong lực lượng sản xuất đã ra đời cách đây
gần hai thế kỷ nhưng vẫn có giá trị đúng đắn, bền vững trong giai đoạn hiện
nay.

2.3 Liên hệ vai trò của người lao động trong Cuộc Cách mạng 4.0
ở Việt Nam:

Cách mạng công nghiệp 4.0 đang là xu thế tất yếu, diễn ra ở tất cả
quốc gia trên thế giới. Từ đó, Việt Nam đang trong q trình hội nhập một
cách tích cực, sâu rộng cùng với đó là sự chuẩn bị một cách chủ động nhằm
đón bắt cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0. Cùng với bước xác lập về nhận
thức và hành động của Chính phủ, những người lao động khơng thể đứng
ngồi xu thế tất yếu ấy.
2.3.1 Thực trạng người lao động trong Cuộc Cách mạng 4.0 ở Việt Nam:
a) Thuận lợi:
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (TCTK), trong năm 2019, quy
mô dân số Việt Nam hiện đang đạt trên 95 triệu người và đang trong thời kỳ
dân số vàng; lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý I năm
2019 ước tính là 55,4 triệu người, chiếm hơn 50% tổng dân số. Số liệu cho
thấy, Việt Nam đang có nguồn nhân lực khá dồi dào và lực lượng lao động
trẻ, năng động, ham học hỏi, có thể nhanh chóng tiếp cận với các cơng nghệ
mới. Đây là một trong những lợi thế cho thị trường lao động Việt Nam trong
thời kỳ Cách mạng công nghệ 4.0. Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực đã
14


qua đào tạo ở Việt Nam cũng có thể được xem là thế mạnh. Theo Báo cáo
điều tra lao động việc làm quý IV năm 2017 của TCTK, Việt Nam có gần
12 triệu nhân lực đã qua đào tạo, có trình độ từ đào tạo nghề trở lên, trong
đó nhân lực có trình độ từ đại học trở lên có khoảng hơn 5 triệu người, chiếm
44% trong tổng số nhân lực đã qua đào tạo.
b) Hạn chế:
Tỷ lệ lực lượng lao động chưa qua đào tạo chiếm tỉ lệ khá cao,
khoảng 78% trong năm 2019. Lực lượng lao động chủ yếu ở Việt Nam mới
chỉ tập trung vào các phân khúc lao động phổ thông, lao động bậc thấp và
bậc trung dẫn đến thiếu hụt lao động chất lượng cao. Hạn chế này đã đưa
đến nhiều hệ lụy như: năng suất lao động thấp, năng lực cạnh tranh cũng

như giá trị nguồn nhân lực Việt Nam trên thị trường lao động khơng cao.
Bên cạnh đó, số liệu của Tổng cục Thống kê (TCTK) cho thấy, số
lao động làm các nghề giản đơn chiếm tỷ lệ cao nhất (37- 40%), tỷ lệ lao
động làm công việc chuyên môn kỹ thuật bậc cao chỉ dao động trong khoảng
6 -7%. Theo số liệu của Ban Kinh tế Trung Ương, trong 9 ngành kinh tế, có
tới 50-88% người sử dụng lao động báo cáo có vấn đề về tuyển dụng do
thiếu các ứng viên có tay nghề. Một số ngành nghề liên quan đến công nghệ
thông tin, công nghệ cao, công nghệ sạch, công nghệ xanh, công nghệ tái
tạo, hoặc trong các lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, kiểm tốn đang thiếu
hụt nhân lực ở phân khúc cao.
Ngoài ra, năng lực đổi mới sáng tạo của đội ngũ lao động tại Việt
Nam còn hạn chế, trong khi đây lại là yếu tố quyết định trong Cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới và Tổ chức
hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), có rất ít doanh nghiệp Việt Nam thực
hiện R&D (nghiên cứu và phát triển), hoặc nếu có thì kinh phí cho các hoạt
động R&D chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong nguồn tài chính của doanh
nghiệp.
Một hạn chế nữa của thị trường lao động Việt Nam hiện nay là
năng suất lao động còn thấp dù đã có nhiều cải thiện qua các năm. Tính theo
sức mua tương đương năm 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm
2017 đạt 10.232 USD, chỉ bằng 7,2% của Singapore; 18,4% của Malaysia;
36,2% của Thái Lan; 4,3% của Indonesia; 55% của Philippines. Đáng chú ý
15


là chênh lệch về năng suất lao động giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp
tục gia tăng. Với những vấn đề kéo theo như lao động chất lượng cao phải
thuê nước ngoài, tỷ lệ thất nghiệp tăng nhưng năng suất lao động không
được cải thiện,… Nếu lao động Việt Nam khơng đổi mới và cải thiện, có
khả năng chúng ta sẽ bỏ lỡ Cách mạng 4.0. (Th.Sỹ Phạm Thị Thu Hiền,

2019) (Nguyễn Lam, 2018)

2.4 Giải pháp, kiến nghị chủ yếu về đổi mới lực lượng sản xuất
trong bối cảnh tồn cầu hóa và cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư:
2.4.1 Nhóm giải pháp xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao:
Một là, thúc đẩy phát triển hơn nữa thị trường lao động chất lượng
cao. Hoàn thiện khung pháp luật cho thị trường lao động phát triển theo
hướng phù hợp với quy luật của thị trường, bảo vệ lợi ích hợp pháp của
người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời tạo điều kiện thuận
lợi cho người lao động tham gia vào thị trường lao động, nâng cao trình độ,
đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Tạo sự kết nối với thị trường lao động quốc tế, trong đó, trước mắt
cần tập trung thiết lập hệ thống thúc đẩy sự lưu chuyển của lao động có kỹ
năng trong ASEAN, tạo lập thông tin về thị trường lao động, thường xuyên
cập nhật và phổ biến hiệu quả.
Hai là, điều chỉnh, cơ cấu lại lực lượng lao động. Quan tâm, giải
quyết và phân luồng “mạnh” lực lượng lao động; đào tạo lại người lao động
đang làm việc nhưng có nguy cơ mất việc, sa thải, đặc biệt ở các lĩnh vực:
giày da, dệt may, cơng nghệ. Bên cạnh đó, cần trang bị nhiều hơn những kỹ
năng và trình độ về ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ năng mềm như tự
quản lý và tự tổ chức, kỹ năng giao tiếp, tương tác và giải quyết vấn đề,
quản lý dự án... Đây là những kỹ năng rất quan trọng của người lao động
trong Cách mạng cơng nghiệp 4.0.
2.4.2 Nhóm giải pháp nâng cao năng lực đổi mới, sáng tạo của lực lượng
lao động:
Nhà nước cần đẩy mạnh q trình hồn thiện thể chế về đổi mới,
sáng tạo như khung khổ pháp luật về doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh và các
điều kiện tiếp cận tài chính... Cần khuyến khích các chương trình hợp tác
16



công - tư về R&D (Nghiên cứu và Phát triển) và đổi mới sáng tạo nhằm tập
trung và tận dụng nguồn lực, đồng thời tăng cường hợp tác giữa các cơ quan
nghiên cứu nhà nước với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.
2.4.3 Nhóm giải pháp tăng cường sự kết nối cung - cầu cho thị trường lao
động
Phát triển hệ thống cung cấp thông tin định hướng nghề nghiệp, hệ
thống dịch vụ việc làm và hệ thống thông tin thị trường lao động để người
lao động và người sử dụng lao động dễ dàng nắm bắt thông tin và kết nối
với nhau. Cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại vào việc kết nối cung
- cầu lao động trong nước và quốc tế.

17


KẾT LUẬN CHUNG
Xu hướng của sản xuất vật chất là khơng ngừng biến đổi, sự biến đổi
đó bao giờ cũng bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trước
hết là công cụ lao động, công cụ lao động phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay
gắt với quan hệ sản xuất hiện có, địi hỏi khách quan phải xoá bỏ quan hệ
sản xuất cũ thay thế bằng quan hệ sản xuất mới. Quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung phổ
biến đối với sự phát triển của xã hội, chính quy luật này đã đưa xã hội lồi
người trải qua 5 hình thái xã hội chi phối tồn bộ tiến trình phát triển của
lịch sử: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa
và xã hội chủ nghĩa. Trong đó lực lượng sản xuất là nội dung, là quá trình
sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức của quá trình sản xuất, hình thức
của sản xuất bao giờ cũng ổn định hơn. Song sự ổn định đó chỉ mang tính
chất tạm thời bởi sớm muộn nó cũng sẽ thay đổi cho phù hợp. Quan hệ sản
xuất ra đời từ lực lượng sản xuất, nhưng khi ra đời nó có vai trị tác động

tích cực trở lại theo hai khuynh hướng. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, nó thúc đẩy sản xuất phát triển
nhanh. Ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Khi ra đời, quan
hệ sản xuất quy định mục đích, tính chất, khuynh hướng phát triển của sản
xuất, quy định hệ thống quản lí sản xuất, quản lí phân phối và quy định phân
phối người lao động được hưởng ít hay nhiều.
Từ đó, trong lực lượng sản xuất, con người là yếu tố chính, cốt lõi
và trực tiếp tham gia vào q trình sản xuất của cải vật chất, là cơ sở tồn tại
cho sự phát triển của xã hội, giữ vai trò quyết định, không thể thiếu trong sự
phát triển nền kinh tế. Và cũng bởi vì thế, trong thời đại 4.0, vai trò của
người lao động càng được xem trọng hơn bao giờ hết. Những con người có
tri thức, kỹ năng, khả năng ứng dụng khoa học - cơng nghệ đóng vai trò then
chốt trong lực lượng sản xuất, trở thành động lực đối với sự phát triển của
xã hội.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác Lê-Nin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự
thật, Hà Nội.
2. TS. Lê Thị Chiên (2021), “Quan điểm của C.Mác về lực lượng sản xuất
và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay” truy
cập
lần
cuối
ngày
7
tháng
6

năm
2023
từ
/>rlTitle=quan-diem-cua-c.-mac-ve-luc-luong-san-xuat-va-van-de-bo-sung,phat-trien-quan-diem-nay-trong-giai-doan-hien-nay
3. Bình Nguyên (2017), Người lao động 4.0 truy cập lần cuối ngày 7 tháng
6 năm 2023 từ />4. Cục thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (2017), Cách mạng công
nghiệp 4.0: Cơ hội và Thách thức truy cập lần cuối ngày 7 tháng 6 năm 2023
từ />5. Hà Thu (2018), Cha đẻ của khái niệm công nghiệp 4.0: “Đừng để con
người thành nô lệ của robot” truy cập lần cuối ngày 7 tháng 6 năm 2023 từ
/>6. Klaus Schwab trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, do Bộ Ngoại
giao dịch, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
7. Nguyễn Lam (2018), Cách mạng 4.0: Giải phảp nào cho lao động Việt
Nam truy cập lần cuối ngày 7 tháng 6 năm 2023 từ />8. Th. Sỹ Phạm Thị Thu Hiền (2019), Thị trường lao động Việt Nam trong
bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0 truy cập lần cuối ngày 7 tháng 6 năm
2023 từ />19



×