Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

van thuyet minh pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.56 KB, 6 trang )

Bạn có thể tham khảo các thông tin về bút bi dưới đây:
Bút bi (tiếng Pháp: bille), hay còn gọi là bút Bic (theo tên một công ty của Pháp,
chuyên sản xuất bút là Société Bic), hoặc bút nguyên tử, là một công cụ dùng để
viết rất phổ biến ngày nay. Bút bi có chứa một ống mực đặc, khi viết, mực được in
lên giấy là nhờ chuyển động lăn của một viên bi nhỏ, với đường kính khoảng từ 0,7
đến 1 mm, gắn nơi đầu ống chứa mực. Loại mực dùng cho bút bi khô rất nhanh,ngay
sau khi được viết lên giấy.
Lịch sử
Hoàn toàn không phải là phóng đại khi khẳng định bất cứ ai có thể viết đều ít nhất
một lần trong đời sử dụng bút bi. Rẻ tiền, thuận tiện và không cần bảo dưỡng, bút bi
đã cách mạng hóa cách viết của con người.
Người xin cấp bằng sáng chế bút bi đầu tiên trên thế giới là một thợ thuộc da người
Mỹ tên John Loud vào năm 1888 nhưng không được khai thác thương mại. Đến năm
1938, một biên tập viên người Hungary là László Bíró, do quá thất vọng với việc sử
dụng bút mực (tốn thời gian tiếp mực, mực lâu khô, đầu bút quá nhọn ) đã tạo ra
loại bút bi sử dụng mực in báo khô rất nhanh. Loại bút này có chứa một ống mực
đặc, mực được viết lên giấy là nhờ chuyển động lăn của một viên bi nhỏ gắn nơi đầu
ống chứa mực. Bút bi thật sự xuất hiện từ đó.
Loại bút bi hiện đại được nhà báo László Bíró, sinh ra tại Hungary giới thiệu vào năm
1938. Vào những năm 1930, Bíró làm cộng tác viên biên tập cho một tờ báo nhỏ.
Điều làm ông thất vọng là việc những cây bút máy luôn làm bẩn giấy tờ và thường
xuyên bị hỏng. Bíró để ý rằng, loại mực dùng để in báo rất nhanh khô, nhờ đó giấy
không bị mực làm bẩn và ông quyết định tạo ra một loại bút sử dụng loại mực giống
như vậy. Từ khi đó, được sự giúp đỡ của anh trai tên George, là một nhà hóa học,
Bíró bắt đầu công việc thiết kế ra một loại bút mới. Bíró lắp vào đầu bút một viên bi
nhỏ, có thể xoay tự do trong một cái hốc. Khi di chuyển đầu bút trên giấy, viên bi đó
xoay tròn, và kéo mực xuống in trên giấy. Bíró nhận bằng sáng chế Anh Quốc vào
ngày 15 tháng 6, 1938.
Năm 1944, anh trai Bíró sang Argentina nhận bằng sáng chế khác vào ngày 10
tháng 6, với mẫu Bíró Pens of Argentina. Từ đó bút bi được bán tại Argentina với
thương hiệu Birome. Loại bút này được rất ít người biết. Bíró được biết đến ở


Agentina với cái tên Lisandro José Bíró. Mẫu bút mới này cũng được nhận bằng công
nhận bản quyền Anh Quốc.
Năm 1945, nhà sản xuất loại bút chì bấm Eversharp đã hợp tác với Eberhard-Faber
đăng ký kiểu dáng công nghiệp để bán ở thị trường Hoa Kỳ. Vào khoảng thời gian
này, một nhà kinh doanh người Hoa Kỳ cũng thấy một chiếc bút chì Bíró được trưng
bày tại Buenos Aires. Ông mua vài mẫu bút rồi quay về Hoa Kỳ, thành lập Công ty
Reynolds International Pen để sản xuất bút với nhãn hiệu là Reynolds Rocket. Cuối
năm 1945, công ty này chiếm lĩnh thị trường của Eversharp. Ngày 29 tháng 10,
1945, chiếc bút đầu tiên được bán tại khu trưng bày Gimbel, New York với giá mỗi
chiếc là 12,50 Đôla Mỹ (bằng khoảng 130 Đôla Mỹ ngày nay). Đây là loại bút được
biết đến rộng khắp tại Hoa Kỳ cho đến cuối thập niên 1950.
Tương tự, những ngày cuối năm 1945 và những ngày đầu năm sau đó, những chiếc
bút như vậy cũng được đem bán tại Anh Quốc và khắp Châu Âu lục địa. Những loại
bút rẻ tiền hơn được Société Bic sản xuất với thương hiệu "Bic", sau đó thương hiệu
'Hoover' và 'Xerox' tiếp tục được sử dụng rộng rãi. Trong một loạt các dòng sản
phẩm mới Société Bic được phát triển mới, nhãn hiệu bút bi nổi tiếng lúc đó là Bic
Cristal.
Kể từ năm 1990, ngày sinh nhật của Bíró (29 tháng 9) trở thành ngày của những
nhà phát minh tại Argentina.
Mô tả
Có hai loại bút bi chính: loại dùng một lần và loại có thể nạp lại mực. Loại dùng một
lần chủ yếu được làm từ nhựa và bỏ đi khi dùng hết mực. Loại có thể nạp lại mực
thường được làm bằng kim loại hoặc nhựa có chất lượng và giá cao hơn. Ống mực
của loại nạp lại được gồm ống mực và đầu bi gắn liền với nhau. Khi dùng hết mực thì
cần phải thay đổi cả ống mực và đầu bi này.
Bút bi có thể có nắp để đậy lại khi không dùng đến, hoặc nó dùng cách kéo đầu bi
vào trong khi không dùng. Để đưa đầu bi vào trong cần phải có lò xo để kéo vào.
Việc điều khiển đầu bi có thể dùng nhiều cách khác nhau như dùng nút bấm ở đầu,
xoay thân bút, hoặc trượt.
Ngoài ra còn có loại thiết kế giống bút bi nhưng sử dụng mực viết máy để nạp vào và

có hệ thống mực như viết máy.
Bút Space Pens, loại có thể viết được trong trạng thái chân không, được phát minh
bởi Fisher, có thiết kế phức tạp hơn. Nó dùng khí nén để dồn mực đổ về phía ngòi
bút. Do đó bút này có thể viết khi bút lật ngược lại hoặc trong trạng thái chân không.
Bút bi trong đời sống hằng ngày
Bút bi hiện diện khắp nơi trong đời sống hiện nay. Mặc dù có nhiều dạng bút khác
nhau, nhưng bút bi là dạng phổ biến nhất. Do bút bi rẻ và tiện dụng nên nó có thể
được tìm thấy trên bàn, trong túi, giỏ xách, xe hơi và bất kỳ nơi nào có thể cần
đến bút. Bút bi thường được tặng miễn phí như một dạng quảng cáo - tên công ty,
sản phẩm được in trên thân bút - có giá rẻ và hiệu quả cao (khách hàng sẽ dùng và
nhìn thấy dòng quảng cáo mỗi ngày).
Những năm gần đây, bút bi cũng trở thành phương tiện sáng tác nghệ thuật. Những
tác phẩm được giới thiệu ở một số trang web như [biro-art.com] và
[birodrawing.co.uk]. Nhiều người cũng dùng bút bi để vẽ hình lên người họ, còn được
gọi là hình xăm bằng bút bi. Vì lý do này, cùng với sự phổ biến đối với trẻ nhỏ, mực
bút bi phải không độc, và việc sản xuất bút và thành phần mực đã được quy định ở
nhiều nước.
Làm sao quên được khi cứ mỗi giây lại có 57 chiếc được bán ra. Sau đó mỗi chiếc bút
bi được truyền tay qua nhiều người, bị cắn, bị ném. Đó chính là giá trị của vật phẩm
bình thường này. Dù máy tính, điện thoại hiện đại và tiện dùng nhưng thử hỏi có ai
dám ném, cắn chúng khi suy tư hay bực tức.

Thuyết minh về chiếc nón lá
Việt Nam là một vùng nhiệt đới, nắng lắm mưa nhiều. Vì vậy chiếu nón đội đầu là
vật không thể thiếu được để che nắng che mưa.
Nón Việt Nam có lịch sử rất lâu đời. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón đã được chạm
khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng ào Thịnh vào 2.500-3.000 năm về
trước. Từ xa xưa, nón đã hiện diện trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam,
trong cuộc chiến đấu giữ nước, qua nhiều chuyện kể và tiểu thuyết.
Theo sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, nón cũng có nhiều biến đổi về kiểu

dáng và chất liệu. Lúc đầu khi chưa có dụng cụ để khâu thắt, nón được tết đan. Còn
loại nón khâu như ngày nay xuất hiện phải nhờ đến sự ra đời của chiếc kim, tức là
vào thời kỳ người ta chế luyện được sắt (khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên).
Theo lời các cụ, trước kia người ta phân thành 3 loại nón cổ có tên gọi nón mười (hay
nón ba tầm), nón nhỡ và nón đầu. Nhìn chung nón cổ vành rộng, tròn, phẳng như
cái mâm. Ở vành ngoài cùng có đường viền quanh làm cho nón có hình dáng giống
như cái chiêng. Giữa lòng có đính một vòng nhỏ đan bằng giang vừa đủ ôm khít đầu
người đội. Nón ba tầm có vành rộng nhất. Phụ nữ thời xưa thường đội nón này đi
chơi hội hay lên chùa. Nón đấu là loại nhỏ nhất và đường viền thành vòng quanh
cũng thấp nhất. Trước kia người ta còn phân loại nón theo đẳng cấp của người chủ
sở hữu nón. Các loại nón dành cho ông già, có loại cho nhà giàu và hàng nhà quan,
nón cho trẻ em, nón cho lính tráng, nón nhà sư
Ở Việt Nam, cả hai miền Bắc, Trung, Nam đều có những vùng làm nón nổi tiếng và
mỗi loại nón ở từng địa phương đều mang sắc thái riêng. Nón Lai Châu của đồng bào
Thái; nón Cao Bằng của đồng bào Tày sơn đỏ; nón Thanh Hoá có 16-20 vành; nón
Ba ồn (Quảng Bình) mỏng nhẹ và giáng thanh thoát; nón Gò Găng (Bình ịnh); nón
Huế nhẹ nhàng, thanh mỏng nhờ lót bằng lá mỏng; nón làng Chuông (Thanh Oai, Hà
Tây) là loại nón bền đẹp vào loại nhất ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Nguyên liệu làm nón không phức tạp. Ở nơi nào cũng vậy, muốn làm được một chiếc
nón phải dùng lá của một loại cọ nhỏ mọc hoang, dùng sợi nón - một loại sợi rất dai
lấy từ bẹ cây móc (ngày nay người ta thường dùng sợi chỉ nilon) và tre. Tàu lá nón
khi đem về vẫn còn xanh răn reo, được đem là bằng cách dùng một miếng sắt được
đốt nóng, đặt lá lên dùng nắm dẻ vuốt cho phẳng. Lửa phải vừa độ, nếu nóng quá
thì bị ròn, vàng cháy, nguội quá lá chỉ phẳng lúc đầu, sau lại răn như cũ. Người ta
đốt diêm sinh hơ cho lá trắng ra, đồng thời tránh cho lá khỏi mốc.
Tre chọn ống dài vuốt nhọn, gác lên dàn bếp hong khói chống mối mọt, dùng làm
vòng nón. Nón Chuông có 16 lớp vòng. Con số 16 là kết quả của sự nghiên cứu, lựa
chọn qua nhiều năm, cho đến nay đã trở thành một nguyên tắc không thay đổi.
Chúng đã tạo cho những chiếc nón Chuông có được dáng thanh tú, không quá cũn
cỡn, không xùm xụp. Nhưng vẻ đẹp của chiếc nón chủ yếu nhờ vào đôi bàn tay khéo

léo của người thợ tạo nên. Người thợ khâu nón được ví như người thợ thêu. Vòng tre
được đặt lên khuôn sẵn, lá xếp lên khuôn xong là đến công việc của người khâu.
Những mũi kim khâu được ước lượng mà đều như đo. Những sợi móc dùng để khâu
thường có độ dài, ngắn khác nhau. Muốn khâu cho liên tục thì gần hết sợi nọ phải
nối tiếp sợi kia. Và cái tài của người thợ làng Chuông là các múi nối sợi móc được dấu
kín, khiến khi nhìn vào chiếc nón chỉ thấy tăm tắp những mũi khâu mịn màng. Sợi
móc len theo từng mũi kim qua 16 lớp vòng thì chiếc nón duyên dáng đã thành hình.
Trong lúc khâu nón, các cô gái làng Chuông thường không quên tìm cách trang trí
thêm cho chiếc nón hấp dẫn. ơn giản nhất là họ dán vào lòng nón những hình hoa lá
bằng giấy nhiều màu sắc thường được in sẵn và bán ở các phiên chợ Chuông. Tinh tế
hơn, các cô còn dùng chỉ màu khâu giăng mắc ở hai điểm đối diện trong lòng nón để
từ đó có thể buộc quai nón bằng những giải lụa mềm mại, đủ màu sắc, làm tôn thêm
vẻ đẹp khuôn mặt các cô gái dưới vành nón.
Các cô gái Việt Nam chăm chút chiếc nón như một vật trang sức, đôi khi là vật để
trao đổi tâm tư tình cảm của riêng mình. Người ta gắn lên đỉnh của lòng nón một
mảnh gương tròn nho nhỏ để các cô gái làm duyên kín đáo. Công phu nhất là vừa vẽ
chìm dưới lớp lá nón những hoa văn vui mắt, hay những hình ảnh bụi tre, đồng lúa,
những câu thơ trữ tình, phải soi lên nắng mới thấy được gọi là nón bài thơ.
Chiếc nón Việt Nam được làm ra để che mưa, che nắng. Nó là người bạn thuỷ chung
của những con người lao động một nắng hai sương. Nhưng công dụng của nó không
dừng lại ở đấy, nó đã trở thành một phần cuộc sống của người Việt Nam. Trên đường
xa nắng gắt hay những phút nghỉ ngơi khi làm đồng, ngồi bên rặng tre cô gái có thể
dùng nón quạt cho ráo mồ hôi. Bên giếng nước trong, giữa cơn khát cháy cổ, nón có
thể trở thành chiếc cốc vại khổng lồ bất đắc dĩ, hay có thể thay chiếc chậu vục nước
mà áp mặt vào đó cho giải bớt nhiệt. Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô
gái người Kinh với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện tính dịu dàng, mềm mại và kín
đáo của phụ nữ Việt Nam. Với khúc hát quan họ Bắc Ninh, chàng trai và cô gái hát
đối giao duyên, cô gái bao giờ cũng cầm trên tay chiếc nón ba tầm, nó giúp cô giấu
khuôn mặt ửng hồng của mình khi chàng trai hát những lời bóng gió xa xôi về mối
tình của chàng, thảng hoặc khi cô muốn kín đáo ngắm khuôn mặt bạn tình của mình

mà không muốn để cho chàng biết.
Nón chính là biểu tượng của Việt Nam, là đồ vật truyền thống và phổ biến trên khắp
mọi miền đất nước. Nếu ở một nơi xa xôi nào đó không phải trên đất Việt Nam, bạn
bỗng thấy chiếc nón trắng, đó chính là tín hiệu Việt Nam.
CHIẾC NÓN VIỆT NAM DỊU DÀNG, DUYÊN DÁNG
Sự tích chiếc nón là một huyền thoại về mẹ. Ngày xưa, có một bà cao lơn, trên đầu
đội bốn cái tàu lá tròn như bầu trời được cài với nhau bằng mấy cái que, xuất hiện
khi trời đổ mưa như trút, con người không có chỗ trú thân. Bà rất nhân từ, đi đến
đâu mưa thuận gió hòa đến đó. Bà chỉ cần xoay mấy tàu lá trên đầu là mây mù thi
nhau chạy trốn. Con người đi theo bà, bà dạy cho cách trồng cây để sinh sống. Thế
rồi một hôm nghe bà kể chuyện, con người tự nhiên ngủ thiếp đi, lúc đó bà bay lên
trời. Để tưởng nhớ công lao của bà, con người đã suy tôn bà là Bà Chúa Che Người
và bắt chước bà đi tìm những lá tròn tán rộng tết lại với nhau thành hình chiếc tròn
như bầu trời xanh để đội lên đầu che mưa nắng. Con người gọi đó là chiếc nón.
Câu chuyện có yếu tố thần thoại nhưng phần nào đã nói lên được tác dụng chủ yếu
của chiếc nón là dùng để che mưa, che nắng.
Sau này, chiếc nón đã giúp đỡ con người nhiều việc: Là chiếc quạt tuỳ thân khi trời
tắt gió. là "cái rổ" khi cần để vật gì. Giữa cơn khát cháy cổ, nó là "cái bát" khổng lồ
đựng nước uống. Nó là vật kỉ niệm tặng cho nhau. Và còn là một thứ trang bị quân
sự của người linh thú thời xưa "đầu đội nón dấu vai mang súng dài". Với điệu múa
nón mềm mại, diệu kì, nó là đạo cụ của sân khấu nghệ thuật. Đặc biệt, đối với người
con gái, nó là một thứ đồ dùng trang sức không thể thiếu được, đồng thời cũng là để
làm duyên, e ấp, dịu dàng, tình tứ
Nón có chỗ đứng trong các câu ca dao, dân ca, chắp mối tình yêu cho trai gái:
"Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu"
Hay:
"Nón này che nắng che mưa
Nón này để đội cho vừa đôi ta".
Từ thủa xa xưa, có chiếc nón thần Tu Lờ của Sư Khổng Lồ dùng làm thuyền chở được

mười kho đồng của Bắc quốc đưa về nước Nam. Sau này có nón Ma Lôi (làng Ma Lôi
tỉnh Hải Dương), nón Mền Giải Ngoan Xác) còn gọi là nón Tam Giang (dùng cho các
ông già), nón Lá (dành cho con nhà giàu, học trò và người Kinh kỳ), nón dâu (dùng
cho họ hàng nhà quan), nón Lá sen (dành cho trẻ nhỏ), nón Chéo vành (dùng cho
lính tráng), nón Dấu (nón bằng tre có ***p, dùng cho lính thú), nón Khua (dành cho
người hầu hạ và vợ con lính), nón Mặt lờ (dành cho nhà sư và thầy tu), nón Capk
(dành cho người có tang); nón Cọ, nón Bạc, nón Mây (của đồng bào Tày Việt Bắc),
nón Cúp (của đồng bào Thái), nón Mõm bò (dành cho người kéo xe ở Hà Nội thời
Pháp thuộc), nón Dứa hay nón Gò Măng (của các cô gái Bình Định), nón Chằm (của
các cô gái Huế), nón Ba Đồn (Quảng Bình), nón Đanh (thôn Đanh Xuyển - Hà Tây),
nón gắn với địa danh: Nón Nghệ, nón Thanh, nón Huế
Đặc biệt, có hai loại nón đẹp dành riêng cho con gái, là nón Chuông và nón bài thơ.
Nón Chuông là nón được sản xuất ở làng Chuông, huỵên Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.
Nón Chuông xưa gồm 3 loại:
- Nón Mười (còn gọi là nón Ba Tầm).
- Nón Nhỡ (còn gọi là nón Ngang - nhỏ hơn nón Mười)
- Nón Đấu (nhỏ hơn nón Ngang).
Nón Mười là loại nón vành rộng, phẳng như một cái mâm. Ở vành ngoài cùng của
nón có một đường thành nhô lên cao chạy suốt vòng quanh, làm cho nón giống như
một chiếc chiêng lớn. Giữa lòng nón có đính một cái "khua" hình dáng tròn như cái
đấu, đan bằng giang vừa đủ ôm khít lấy đầu người đội. Quai nón đẹp, có tua rủ. Loại
nón này cũng được gọi là nón quai thao hay nón thúng quai thao. Ngày xưa, các cô
gái đội nón này đi chơi hội. Các cụ bà lên chùa lễ Phật, người ở nơi đất Kinh kỳ cũng
dùng nón Ba Tầm. Sau này, người làng Chuông chuyển sang làm nón có ***p nhọn
như hiện nay.
Nón bài thơ, cái tên rất mĩ miều và đẹp như một bài thơ, là loại nón trắng, mỏng,
nhẹ, không lót nang mà gài các hình như hoa, lá, con thuyền, khóm trúc, con
bướm trang trí hai lớp lá nón, khi soi lên ánh sáng, sẽ nhìn thấy rõ các hình trên
đó như muốn nói điều gì thầm kín, vấn vương, đầy tứ thơ
Để có một chiếc nón ra đời là cả một quá trình lao động nghệ thuật tài hoa, công

phu, tỉ mỉ, kiên nhẫn của người làm nón sao cho tròn, nhỏ, nhẵn đều, thanh tú và
chọn những chiếc lá non mỏng, sống nhỏ, trắng ngà, nõn nà, đến từng đường khâu
có khoảng cách ngắn, đều tăm tắp, không nhìn thấy chỗ nối sợi, tạo nên sự mịn
màng như đường may trên vải. Tất cả phối hợp nhịp nhàng, hòa nhập với nhau để
tạo nên chiếc nón xinh xắn, mộng mơ, nghiêng nghiêng làm nên nét duyên dáng của
con gái Việt Nam.

Thuyết minh về chiếc áo dài
I/Mở bài
-Nêu lên đối tượng:Chiếc áo dài VN
VD: Trên thê giới, mỗi Quốc gia đều có một trang phục của riêng mình.Từ xưa đến
nay, chiếc áo dài đã trở thành trang fục truyền thống của phụ nữ VN
II/Thân Bài
1.Nguồn gốc, xuất xứ
+Ko ai biết chính xác áo dài có từ bao giờ
+Bắt nguồn từ áo tứ thân TQuốc
+Căn cứ vào sử liệu, văn chương, điêu khắc, hội hoa, sân khấu dân gian chúng ta
đã thấy hình ảnh tà áo dài qua nhiều giai đoạn lịch sử
==> áo dài đã có từ rất lâu.
2.Hiện tại
+tuy đã xuất hiện rất nhiều nhữg mẫu mã thời trang, nhưng chiếc áo dài vẫn giữ
được tầm quan trọng của nó, và trở thành bộ lêx phục của các bà các cô mặc trog
các dịp lễ đặc biệt
+đã được tổ chức Unesco công nhận là 1 di sản Văn hoá phi vật thể, là biểu tượng
của người fụ nữ VN.
3.Hình dáng
-Cấu tạo
*Áo dài từ cổ xuống đến chân
*Cổ áo may theo kiểu cổ Tàu, cũng có khi là cổ thuyền, cổ tròn theo sở thik của
người mặc. Khi mặc, cổ áo ôm khít lấy cổ, tạo vẻ kín đáo.

*Khuy áo thường dùng = khuy bấm, từ cổ chéo sang vai rồi kéo xuống ngang hông.
*Thân áo gồm 2 phần: Thân trước và thân sau, dài suốt từ trên xuống gần mắt cá
chân.
*áo được may = vải 1 màu thì thân trước thân sau sẽ được trang trí hoa văn cho áo
thêm rực rỡ.
*thân áo may sát vào form người, khi mặc, áo ôm sát vào vòng eo, làm nổi bật
những đường cong gợi cảm của người fụ nữ.
*tay áo dài ko có cầu vai, may liền, kéo dài từ cổ áo > cổ tay.
*tà áo xẻ dài từ trên xuống, giúp người mặc đi lại dễ dàng, thướt tha, uyển chuyển.
*áo dài thường mặc với quần đồng màu hoặc màu trắng = lụa, satanh, phi
bóng với trang fục đó, người fụ nữ sẽ trở nên đài các, quý fái hơn.
-Thợ may áo dài phải là người có tay nghề cao, thợ khéo tay sẽ khiến áo dài khi mặc
vào ôm sát form người.
-Áo dài gắn liền tên tuổi của những nhà may nổi tiếng như Thuý An, Hồng Nhung,
Mỹ Hào, , đặc biệt là áo dài Huế màu tím nhẹ nhàng
-Chất liệu vải phong phú, đa dạng, nhưng đều có đặc điểm là mềm, nhẹ, thoáng
mát. Thường là nhiễu, voan, nhất là lụa tơ tằm
-Màu sắc sặc sỡ như đỏ hồng, cũng có khi nhẹ nhàng, thanh khiết như trắng, xanh
nhạt Tuỳ theo sở thích, độ tuổi. Thướng các bà, các chị chọn tiết dê đỏ thẫm
3.Áo dài trong mắt người dân VN và bạn bè quốc tế
-Từ xưa đến nay, áo dài luôn được tôn trọng, nâng niu
-phụ nữ nước ngoài rất thích áo dài
4.Tương lai của tà áo dài
III.Kết bài
Cảm nghĩ về tà áo dài,

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×