Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Biểu thức miêu tả chiếu vật trong tiểu thuyết số đỏ và giông tố của Vũ Trọng Phụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.74 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

ĐẶNG NHẬT MINH

BIỂU THỨC MIÊU TẢ CHIẾU VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ VÀ GIÔNG TỐ
CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

HẢI PHÒNG - 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

ĐẶNG NHẬT MINH

BIỂU THỨC MIÊU TẢ CHIẾU VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ VÀ GIÔNG TỐ
CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN


CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ VIỆT NAM
Mã số:

8.22.01.02

Người HD khoa học: TS. Tống Thị Hường

HẢI PHÒNG - 2022


i
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu này là của riêng tôi, chưa từng
được công bố và không trùng lặp với nghiên cứu nào. Mọi số liệu trong
nghiên cứu đều có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được dùng ở một nghiên
cứu nào trước đây.
Hải Phòng, ngày 30 tháng 11 năm 2022
Tác giả

Đặng Nhật Minh


ii
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới TS. Tống Thị Hường,
người đã tận tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tơi trong suốt thời gian
thực hiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, phòng Quản lý sau đại học và q
thầy, cơ giảng viên tại trường Đại học Hải Phịng, những người đã hết lòng
truyền đạt kiến thức và những kinh nghiệm q báu cho học viên cả khóa học.

Tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong Hội đồng
khoa học bảo vệ luận văn đã góp ý, bổ sung cho luận văn được hồn thiện.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn gia đình, đồng nghiệp và các bạn học
viên trong lớp Cao học Ngôn ngữ Việt Nam K11B – Khóa 2020 - 2022 đã
ln ủng hộ, giúp đỡ, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và tài liệu cho tơi trong
q trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Hải Phòng, ngày 30 tháng 11 năm 2022
Tác giả

Đặng Nhật Minh


iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC BẢNG................................................................................ v
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT ................................................................. 10
1.1. Lí thuyết chiếu vật .................................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm chiếu vật .............................................................................. 10
1.1.2. Phương thức chiếu vật ........................................................................... 11
1.2. Khái quát về hoạt động giao tiếp ............................................................. 21
1.2.1. Nhân vật giao tiếp ................................................................................. 21
1.2.2. Hoàn cảnh giao tiếp............................................................................... 22
1.2.3. Nội dung giao tiếp ................................................................................. 23
1.2.4. Mục đích giao tiếp ................................................................................. 24
1.2.5. Phương tiện và cách thức giao tiếp ....................................................... 25
1.3. Vài nét về tác giả Vũ Trọng Phụng và hai cuốn tiểu thuyết Số đỏ, Giông

tố ...................................................................................................................... 25
1.3.1. Sơ lược về tiểu sử, con người Vũ Trọng Phụng ................................... 25
1.3.2. Sự nghiệp văn học Vũ Trọng Phụng ..................................................... 26
1.3.3. Vài nét về tiểu thuyết “Số đỏ” và tiểu thuyết “Giông tố” ..................... 27
1.4. Tiểu kết chương 1..................................................................................... 30
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA BIỂU THỨC MIÊU TẢ CHIẾU
VẬT TRONG TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ VÀ GIÔNG TỐ CỦA VŨ TRỌNG
PHỤNG ........................................................................................................... 31
2.1. Biểu thức miêu tả là danh từ trung tâm + danh từ (cụm danh từ)............ 31
2.1.1. Biểu thức miêu tả là danh từ trung tâm + danh từ (cụm danh từ) riêng .......... 32
2.1.2. Biểu thức miêu tả là danh từ trung tâm + danh từ (cụm danh từ) chung........... 35


iv
2.2. Biểu thức miêu tả là danh từ trung tâm + tính từ (cụm tính từ) ............... 39
2.2.1. Biểu thức miêu tả là danh từ trung tâm + tính từ (cụm tính từ) chỉ màu
sắc .................................................................................................................... 41
2.2.2. Biểu thức miêu tả là danh từ trung tâm + tính từ (cụm tính từ) chỉ đặc
điểm, tính chất sự vật ...................................................................................... 42
2.3. Biểu thức miêu tả là danh từ trung tâm + động từ (cụm động từ) ........... 43
2.4. Biểu thức miêu tả là danh từ trung tâm + số từ (cụm số từ) .................... 45
2.5. Tiểu kết chương 2..................................................................................... 47
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM KHẢ NĂNG CHIẾU VẬT VÀ GIÁ TRỊ CỦA
BIỂU THỨC MIÊU TẢ CHIẾU VẬT TRONG TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ VÀ
GIÔNG TỐ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG ........................................................ 48
3.1. Đặc điểm khả năng chiếu vật của biểu thức miêu tả chiếu vật trong tiểu
thuyết Số đỏ và Giông tố của Vũ Trọng Phụng .............................................. 48
3.1.1. Chiếu vật cá thể ..................................................................................... 49
3.1.2. Chiếu vật một số cá thể ......................................................................... 50
3.1.3. Chiếu vật loại ........................................................................................ 51

3.2. Giá trị của biểu thức miêu tả chiếu vật trong tiểu thuyết Số đỏ và Giông
tố của Vũ Trọng Phụng ................................................................................... 52
3.2.1. Biểu thức miêu tả chiếu vật và mối liên kết văn bản ............................ 52
3.2.2. Biểu thức miêu tả chiếu vật và hiện thực đề tài trong tiểu thuyết của Vũ
Trọng Phụng .................................................................................................... 58
3.3. Tiểu kết chương 3..................................................................................... 67
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 70


v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
1.1
2.1

2.2

2.3

2.4

3.1


3.2

Cấu tạo của cụm danh từ
Biểu thức miêu tả chiếu vật là danh từ trung tâm + danh
từ (cụm danh từ) trong tiểu thuyết Số đỏ
Biểu thức miêu tả chiếu vật là danh từ trung tâm + danh
từ (cụm danh từ) trong tiểu thuyết Giông tố
Biểu thức miêu tả chiếu vật là danh từ trung tâm + tính từ
(cụm tính từ trong tiểu thuyết Số đỏ
Biểu thức miêu tả chiếu vật là danh từ trung tâm + tính từ
(cụm tính từ) trong tiểu thuyết Giơng tố
Đặc điểm khả năng chiếu vật của các biểu thức miêu tả
trong tiểu thuyết Số đỏ
Đặc điểm khả năng chiếu vật của các biểu thức miêu tả
trong tiểu thuyết Giông tố

19
32

32

40

40

48

48



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
1.1. Giao tiếp bằng ngôn ngữ là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống
của con người. Nhờ vào việc sử dụng ngôn ngữ, con người có thể truyền đi tất
cả các loại thơng tin như ám chỉ, diễn tả tình cảm, miêu tả sự vật hiện tượng.
Trong quá trình giao tiếp hằng ngày, ngơn ngữ sẽ bộc lộ ra những thuộc tính
và đặc điểm bản chất nhất, sinh động nhất. Quá trình giao tiếp đó sẽ có sự
tham gia và chi phối của các nhân tố như: nhân vật giao tiếp, hoàn cảnh giao
tiếp, thoại trường,... Chính vì thế nên việc nghiên cứu ngơn ngữ dưới góc nhìn
của ngữ dụng học là rất cần thiết.
1.2. Chiếu vật là phương diện đầu tiên của diễn ngôn, là dấu hiệu đầu
tiên thể hiện mối quan hệ giữa diễn ngôn với ngữ cảnh. Muốn xác định được
nghĩa của một phát ngôn, diễn ngôn, đầu tiên ta cần phải xác định nghĩa chiếu
vật của các biểu thức chiếu vật trong phát ngơn, diễn ngơn, đó có thể là sự vật
(bao gồm cả con người), hành động hoặc tính chất. Hay nói cách khác, giá trị
đúng sai của một câu sẽ còn tùy thuộc vào sự chiếu vật của các từ tạo nên câu
và sự chiếu vật của cả câu. Chính vì vậy, chiếu vật được các nhà logic và các
nhà ngữ dụng học xem là vấn đề dụng học đầu tiên cần phải quan tâm.
1.3. Vũ Trọng Phụng là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc tiêu
biểu của nền văn học Việt Nam. Với 27 năm của cuộc đời và mười năm cầm
bút, Vũ Trọng Phụng đã để lại trong kho tàng văn học Việt Nam một số lượng
tác phẩm khá đồ sộ với 9 cuốn tiểu thuyết, 1 truyện vừa, 9 phóng sự, 6 vở
kịch, 35 truyện ngắn, 2 tác phẩm dịch và nhiều bài báo có những thành tựu
đứng ở đỉnh cao và có giá trị lâu dài. Trong các thể loại sáng tác, tài năng Vũ
Trọng Phụng được thể hiện tập trung nhất, kết tinh chói sáng và rực rỡ nhất ở
thể loại tiểu thuyết. Ở tiểu thuyết, ơng có những đóng góp đáng kể cho tiến
trình hiện đại hóa của thể loại này. Sớm mưu sinh và những năm tháng làm
báo đem đến cho Vũ Trọng Phụng có cơ hội tiếp xúc với nhiều hạng người,



2
nhiều mảnh đời trong xã hội. Khác với nhiều nhà văn cùng thời, Vũ Trọng
Phụng không quan tâm xã hội biến đổi hay đả phá chế độ thực dân, cái ơng
quan tâm duy nhất chính là con người, điều đó được thể hiện rõ nhất trong hai
cuốn tiểu thuyết là Giông tố và Số đỏ. Độc giả dễ dàng nhận ra số phận con
người trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đều có một điểm chung, đó là
đều được khai thác một cách tồn diện dưới mọi khía cạnh. Những tâm tính
ẩn sâu trong con người, tốt đẹp hay thiện ác, xấu xa hay đê tiện cũng đều
được ông dùng ngịi bút sắc sảo của mình soi chiếu.
1.4. Việc chúng ta đi nghiên cứu một tác phẩm văn học thì đó cũng chính
là chúng ta đi nghiên cứu những phong cách, quan điểm nghệ thuật, cách sử
dụng từ ngữ, hình ảnh,… trong tác phẩm của tác giả đó. Việc nghiên cứu biểu
thức miêu tả có chức năng chiếu vật trong hai cuốn tiểu thuyết Số đỏ và
Giông tố của Vũ Trọng Phụng chính là một hướng tiếp cận văn bản nghệ
thuật dưới góc độ dụng học.
Từ những lý do trên, chúng tôi đã mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đề tài:
Biểu thức miêu tả chiếu vật trong tiểu thuyết “Số đỏ” và “Giông tố” của Vũ
Trọng Phụng với mong muốn tiếp cận hai tác phẩm này từ góc độ dụng học,
đặc biệt là tìm hiểu biểu thức miêu tả chiếu vật.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu chiếu vật trên thế giới và ở Việt Nam
2.1.1. Tình hình nghiên cứu chiếu vật trên thế giới
Trên thế giới có ba giai đoạn nghiên cứu chiếu vật gồm: giai đoạn một
(từ 1882 – khoảng 1950): chiếu vật ngữ nghĩa; giai đoạn hai (từ khoảng 1950
- cuối thế kỷ XX): chiếu vật của người; giai đoạn ba (khoảng từ cuối thế kỷ
XX - nay): chiếu vật được nghiên cứu trong phối cảnh liên ngành.
Chiếu vật là một trong những vấn đề thuộc ngữ dụng học được nhiều học
giả quan tâm. Vì vậy đã có nhiều bài viết cũng như các cơng trình nghiên cứu
về chiếu vật, đóng góp nhiều luận điểm quan trọng cho vấn đề này. Đầu tiên,

chúng ta phải kể đến bài viết của hai tác giả N. Archiunova và E. Paducheva


3
(1999) về Nguồn gốc, vấn đề và phạm trù của dụng học. Bài viết đã đưa ra
những luận điểm về sự ra đời của dụng học và lý thuyết về ngữ cảnh, chiếu
vật, chỉ xuất, diễn ngôn, hành động ngôn từ. Những luận điểm nêu trên có tính
bao qt cho mọi ngơn ngữ. Do đó, luận văn có thể vận dụng những kết luận
xác đáng trong bài viết nêu trên như một cơ sở lí luận quan trọng để lí giải
những vấn đề có tính phổ qt trong chiếu vật bằng biểu thức miêu tả cho đề
tài nghiên cứu.
Ngoài ra, ta cũng khơng thể khơng nhắc đến cơng trình nghiên cứu
Pragmatics and Natural language Understanding, LEA London của tác giả
G. Green. Đầu tiên, tác giả đã nêu quan niệm về thuật ngữ chiếu vật: Thuật
ngữ chiếu vật được dùng để chỉ phương tiện nhờ đó người nói phát ra một
biểu thức ngơn ngữ, với biểu thức này người nói nghĩ rằng nó sẽ giúp cho
người nghe suy ra được một cách đúng đắn thực thể nào, đặc tính nào, quan
hệ nào, sự kiện nào anh ta định nói đến. Tiếp theo, tác giả cũng bàn đến vai
trò của chiếu vật đối với việc hiểu nghĩa của một phát ngôn: các nhà logic học
chú ý đến việc xác định tính đúng - sai của các mệnh đề logic được diễn đạt
bằng ngôn ngữ. Nhưng trong ngôn ngữ tự nhiên, ta thấy vẫn có những câu cụ
thể mà các nhà nghiên cứu không thể kết luận được nội dung của chúng là
đúng hay sai nếu như không xác định được chúng quy chiếu với sự vật nào
đang được nói tới ở hiện thực.
Từ những năm 90 của thế kỷ XX cho đến nay đã có nhiều tác giả quan tâm
về vấn đề chiếu vật, thể hiện tầm quan trọng của một vấn đề có tính phổ qt
trong ngơn ngữ học. Ngữ dụng học của Jacob L. Mey được xuất bản năm 1993
lúc đầu để dùng cho những lớp cao học và nghiên cứu sinh ở Trường Đại học
Odense (Đan Mạch). Năm 1994 đã có 4 hội nghị quốc tế về ngữ dụng học và đã
xuất bản một tạp chí quốc tế về ngữ dụng học: The Journal of Pragmatics.

2.1.2. Tình hình nghiên cứu chiếu vật ở Việt Nam
Ở Việt Nam, chiếu vật là vấn đề dụng học đầu tiên mà các nhà lơgic học
quan tâm, vì vậy đó cũng là vấn đề thứ nhất của dụng học. Dụng học ở Việt


4
Nam được quan tâm từ năm 1980 trong các công trình nghiên cứu về ngữ
pháp và ngữ nghĩa. Từ năm 1989 đến nay có khá nhiều nhà nghiên cứu khoa
học và giảng dạy ngôn ngữ học khác quan tâm đến Ngữ dụng học như:
Nguyễn Đức Dân (1989), Đỗ Hữu Châu (1989), Đỗ Việt Hùng (1989), Hoàng
Phê (1989), Cao Xuân Hạo (1991), Lê Đông (1996), Hồ Lê (1996), Nguyễn
Thiện Giáp (2001), Đỗ Thị Kim Liên (2003), Diệp Quang Ban (2009),
Nguyễn Thị Thuận (2014),… Các nhà khoa học kể trên đều có một điểm
chung là chỉ ra lý thuyết về phương thức chiếu vật, biểu thức chiếu vật, nghĩa
chiếu vật, hành vi chiếu vật, điều kiện thực hiện chiếu vật, các dạng chiếu
vật,...
Trong số các nhà nghiên cứu vừa kể ở trên, Đỗ Hữu Châu được coi là
người có cơng giới thuyết lý thuyết ngữ dụng học một cách có hệ thống, đầy
đủ và tiêu biểu nhất tại Việt Nam. Trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học, năm
2001, tập 2 [11], tác giả đã bàn về những vấn đề có liên quan đến chiếu vật
bằng các biểu thức miêu tả như: các loại sự vật - nghĩa chiếu vật được tạo ra
từ các biểu thức miêu tả, đó là chiếu vật loại và chiếu vật cá thể; hay phân biệt
biểu thức miêu tả có chức năng chiếu vật với biểu thức miêu tả có chức năng
thuộc ngữ. Tiếp theo là cuốn Cơ sở Ngữ dụng học, năm 2003, tập 1 [7], tác
giả Đỗ Hữu Châu xem xét nội dung của biểu thức miêu tả có chức năng chiếu
vật một cách cụ thể hơn. Tác giả cũng chỉ ra cấu tạo của biểu thức miêu và
cấu tạo của biểu thức có chức năng chiếu vật loại, chiếu vật cá thể. Cũng tại
cơng trình này, Đỗ Hữu Châu đã đưa ra những lời nhận xét mang tính định
hướng quý báu cho những người đi nghiên cứu sau đầy đủ hơn về chiếu vật
và về nội dung, chức năng, đặc điểm cấu tạo của biểu thức miêu tả.

Tiếp theo, ta phải kể đến cơng trình Dụng học Việt ngữ của Nguyễn
Thiện Giáp năm 2000 [16], tác giả đã sử dụng thuật ngữ quy chiếu, nhưng
thực chất nội hàm của khái niệm đó lại tương ứng với nội hàm của khái niệm
chiếu vật của Đỗ Hữu Châu. Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp, quy chiếu


5
được hiểu là hành động mà trong đó người nói và người viết sử dụng các hình
thức ngơn ngữ cho phép người nghe, người đọc nhận diện một cái gì đó.
Giáo trình Ngữ dụng học của tác giả Đỗ Thị Kim Liên năm 2003 đã kế
thừa các cơng trình nghiên cứu dụng học của các tác giả Việt ngữ học trước
đó. Cuốn giáo trình này đã đưa ra những vấn đề hết sức quan trọng trong giao
tiếp: phát ngôn trong sự quy chiếu, các phương thức quy chiếu; chỉ ra các mặt
ngữ nghĩa trong lời bao gồm nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn, nghĩa tình thái;
các phương thức biểu hiện hàm ngơn trong hội thoại, từ đó nhân vật tham gia
giao tiếp có cách sử dụng và tiếp nhận nghĩa đích thực của một phát ngơn.
Cuốn Ngữ dụng học của Đỗ Việt Hùng (2011) lại chú trọng đến việc vận
dụng lí thuyết ngữ dụng học vào phân tích thực hành diễn ngơn. Chiếu vật,
hành động nói, lập luận, hội thoại, nghĩa hàm ẩn, nghĩa tường minh và các
luồng quan điểm khác nhau xoay quanh năm vấn đề kể trên được trình bày
một cách mạch lạc, sáng tỏ về lý thuyết liên quan và phân tích thực hành ngữ
liệu Việt ngữ, giúp cho cuốn sách đạt được tính thiết dụng, tinh gọn.
Ngồi ra, trong q trình tìm hiểu và khảo sát, chúng tơi nhận thấy cịn
có các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học khác, và các luận văn thạc
sĩ tìm hiểu về chiếu vật: Năm 2001 trong một khía cạnh của luận văn thạc sĩ
Quy chiếu với tư cách là phương thức liên kết văn bản, tác giả Bùi Thị Lý có
đề cập đến vấn đề quy chiếu và các trường hợp quy chiếu.
Năm 2003, luận văn thạc sĩ Sự chiếu vật và phương thức chiếu vật của
tác giả Đỗ Xuân Quỳnh đã đi nghiên cứu khá đầy đủ về những nội dung như:
đặc điểm cấu tạo, đặc điểm từ loại, tính chất chiếu vật, số lượng và trật tự sắp

xếp của các yếu tố chiếu vật.
Năm 2010, luận văn Biểu thức miêu tả chiếu vật trong câu đố Việt Nam
của tác giả Nguyễn Thị Chiên đã chỉ ra những lý thuyết chung về chiếu vật,
những đặc điểm về hình thức, nội dung của biểu thức miêu tả chiếu vật trong
câu. Tuy nhiên, luận văn lại chưa đề cập đến cấu tạo của biểu thức miêu tả và
chức năng của chúng.


6
Năm 2018, trong luận văn thạc sĩ Biểu thức miêu tả chiếu vật trong
truyện ngắn Nam Cao [17], tác giả Vũ Thị Huệ đã nghiên cứu khá đầy đủ về
vị trí, vai trị, đặc điểm cấu tạo và chức năng của biểu thức miêu tả chiếu vật,
đồng thời làm toát lên giá trị nghệ thuật mà biểu thức miêu tả chiếu vật thể
hiện trong sáng tác của Nam Cao.
Thông qua các cơng trình nghiên cứu được kể ở trên, chúng ta có được
những kết quả nghiên cứu hết sức quan trọng có liên quan đến chiếu vật.
Khơng những thế, các cơng trình nghiên cứu đó cịn có tác dụng giúp cho
những người nghiên cứu đi sau có cơ sở để tiến hành nghiên cứu về chiếu vật
theo những hướng khác như nghiên cứu đặc điểm cấu tạo, đặc điểm về khả
năng chiếu vật và giá trị của biểu thức miêu tả chiếu vật.
2.2. Tình hình nghiên cứu biểu thức miêu tả chiếu vật trong tiểu thuyết
“Số đỏ” và “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng
Tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng đã nhận được sự quan tâm của độc giả
và các nhà phê bình, nghiên cứu. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết
về tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, chẳng hạn như tác giả Bùi Việt Thắng với
chuyên luận Tiểu thuyết phóng sự của Vũ Trọng Phụng và những lằn ranh thể
loại văn học; Thi pháp tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng của TS. Nguyễn Thành;
Một hướng tiếp cận mới tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng của Yến Thanh,…
Tuy nhiên, theo hiểu biết của chúng tơi, chưa có một cơng trình nào nghiên
cứu về biểu thức miêu tả chiếu vật trong tiểu thuyết của ơng. Vì vậy, với việc

lựa chọn đề tài Biểu thức miêu tả chiếu vật trong thiểu thuyết “Số đỏ” và
“Giông tố” của Vũ Trọng Phụng, luận văn mong muốn làm sáng tỏ biểu
thức miêu tả chiếu vật trong hai cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của ông, đồng thời
hi vọng góp thêm một tiếng nói vào việc tìm hiểu chiếu vật trong tiểu thuyết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là chỉ ra được những đặc điểm cấu
tạo, đặc điểm về khả năng chiếu vật và giá trị của biểu thức miêu tả chiếu vật
trong hai cuốn tiểu thuyết Số đỏ và Giông tố của Vũ Trọng Phụng.


7
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn đã đi nhận diện, phân tích những
đặc điểm riêng của biểu thức miêu tả chiếu vật trong hai cuốn tiểu thuyết Số
đỏ và Giông tố của Vũ Trọng Phụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu như ở trên, chúng tơi xác định cần phải thực
hiện các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống được cơ sở lý thuyết cho đề tài.
- Khảo sát, thống kê các biểu thức miêu tả chiếu vật có trong hai cuốn
tiểu thuyết Số đỏ và Giơng tố của Vũ Trọng Phụng.
- Phân loại, thống kê, đánh giá, nhận xét các yếu tố đóng vai trị là định
ngữ cho danh từ trung tâm, ý nghĩa chiếu vật trên các phương diện cấu tạo và
chức năng.
- Chỉ ra được hiệu quả sử dụng biểu thức miêu tả chiếu vật trong mối
quan hệ với phong cách sáng tác của Vũ Trọng Phụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là biểu thức miêu tả chiếu vật
trong tiểu thuyết Số đỏ và Giông tố của Vũ Trọng Phụng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn này là biểu thức miêu tả chiếu vật
trong tiểu thuyết Số đỏ và Giông tố của Vũ Trọng Phụng. Trong đề tài này,
luận văn khảo sát và phân tích, đánh giá biểu thức miêu tả chiếu vật trong tiểu
thuyết Số đỏ và Giông tố của Vũ Trọng Phụng trên hai phương diện cấu tạo
và chức năng của biểu thức miêu tả chiếu vật.
Phạm vi nguồn ngữ liệu: Luận văn tiến hành khảo sát 2 tiểu thuyết Số đỏ và
Giông tố của nhà văn Vũ Trọng Phụng trong hai cuốn Danh tác văn học Việt
Nam Vũ Trọng Phụng, Giông tố; Danh tác văn học Việt Nam Vũ Trọng Phụng,
Số đỏ (Nhà xuất bản văn học, 2020) do Nhà sách Minh Thắng phát hành.


8
5. Phương pháp nghiên cứu
Với đối tượng và mục đích nghiên cứu được xác định như trên, chúng tôi
sẽ sử dụng chủ yếu các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu như sau:
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được chúng tôi sử dụng chủ yếu trong luận văn
này là phương pháp miêu tả. Từ những ngữ liệu thu thập được, luận văn tiến
hành phân tích miêu tả, đối chiếu để nhận biết đặc điểm của biểu thức miêu tả
chiếu vật trong tiểu thuyết Số đỏ và Giông tố của Vũ Trọng Phụng.
5.2 Thủ pháp nghiên cứu
Thủ pháp nghiên cứu được chúng tôi sử dụng chủ yếu trong luận văn là
thống kê, phân loại. Thủ pháp này dùng để thu thập tư liệu trong hai cuốn tiểu
thuyết Số đỏ và Giông tố của Vũ Trọng Phụng và phân loại chúng theo quan
hệ ngữ đoạn của biểu thức miêu tả chiếu vật gồm danh từ (cụm danh từ), động
từ (cụm động từ), tính từ (cụm tính từ), số từ (cụm số từ),...
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về mặt lí luận
- Luận văn sẽ cụ thể hóa những nội dung lí thuyết về biểu thức miêu tả

chiếu vật như: hồn thiện lí thuyết về mối quan hệ giữa hình thức của biểu
thức miêu tả chiếu vật với hoàn cảnh giao tiếp bằng những cứ liệu cụ thể, sinh
động trong hai cuốn tiểu thuyết Số đỏ và giông tố của Vũ Trọng Phụng.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Thông qua việc khảo sát biểu thức miêu tả chiếu vật trong hai cuốn tiểu
thuyết Số đỏ và Giông tố của Vũ Trọng Phụng, khẳng định nét độc đáo trong
phong cách sáng tác của nhà văn này ở phương diện nghệ thuật.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được vận dụng cho việc nghiên
cứu, học tập, giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông nhằm nâng
cao chất lượng giảng dạy của giáo viên và năng lực cảm thụ văn chương của
học sinh cũng như của độc giả yêu thích văn chương, đặc biệt đối với các tác
phẩm tiểu thuyết của nhà văn Vũ Trọng Phụng.


9
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của luận văn được chúng
tôi triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Chương 2: Đặc điểm cấu tạo của biểu thức miêu tả chiếu vật trong tiểu
thuyết Số đỏ và Giông tố của Vũ Trọng Phụng
Chương 3: Đặc điểm khả năng chiếu vật và giá trị của biểu thức miêu tả
chiếu vật trong tiểu thuyết Số đỏ và Giông tố của Vũ Trọng Phụng.


10
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Lí thuyết chiếu vật
1.1.1. Khái niệm chiếu vật
Nếu muốn có căn cứ để có thể xác định được nghĩa của một đơn vị ngôn

ngữ đang thực hiện chức năng giao tiếp, thông thường chúng ta sẽ nhờ vào
chiếu vật vì nhờ có chiếu vật mà ngôn ngữ gắn liền với ngữ cảnh. Như vậy, có
thể thấy chiếu vật là vấn đề dụng học đầu tiên mà các nhà logic và các nhà
ngữ dụng học quan tâm, nó được coi là hiện tượng ngữ dụng học đầu tiên.
Ta có thể kể đến G. Green với cơng trình nghiên cứu tiêu biểu
Pragmatics and Natural language Understanding, LEA London, tác giả cho
rằng: Thuật ngữ chiếu vật (reference) được dùng để chỉ phương tiện nhờ đó
người nói phát ra một biểu thức ngôn ngữ, với biểu thức này người nói nghĩ
rằng nó sẽ giúp cho người nghe suy ra được một cách đúng đắn thực thể nào,
đặc tính nào, quan hệ nào, sự kiện nào anh ta định nói đến.
Hay tác giả Đỗ Hữu Châu quan niệm: Sự chiếu vật là sự tương ứng của
các yếu tố ngôn ngữ (của các tín hiệu) trong diễn ngơn với các sự vật hiện
tượng đang được nói đến trong một hồn cảnh giao tiếp nhất định. Nó là dấu
hiệu đầu tiên thể hiện quan hệ giữa hoàn cảnh giao tiếp (ngữ cảnh) với diễn
ngôn. [9, tr.61]
Thuật ngữ chiếu vật được dùng để chỉ phương tiện nhờ đó người phát
ra một biểu thức ngơn ngữ, với biểu thức này người nói nghĩ rằng nó sẽ
giúp cho người nghe suy ra được một cách đúng đắn thực thể nào, đặc tính
nào, quan hệ nào, sự kiện nào anh ta định nói đến. [5, tr 61]
Chiếu vật có vai trị quan trọng trong hoạt động giao tiếp, nó là phương
diện ngữ dụng đầu tiên của diễn ngôn, không xác định được nghĩa chiếu vật của
biểu thức chiếu vật thì khơng thể hiểu được nghĩa, đích của phát ngơn. Vì vậy:
- Chiếu vật là điều kiện để hiểu được phát ngôn. Một phát ngôn chứa
những từ ngữ quen thuộc nhưng có thể người nhận sẽ không hiểu được nếu


11
như khơng biết những từ ngữ đó trong phát ngơn được sử dụng để quy chiếu
vào sự vật nào.
- Chiếu vật đóng vai trị quan trọng trong việc xác định giá trị đúng/sai

của phát ngôn. Nhờ chiếu vật, người nhận mới hiểu được phát ngơn và có thể
xác định được giá trị đúng/sai của phát ngơn đó.
Từ quan điểm của hai tác giả G.Green và Đỗ Hữu Châu, chúng ta có thể
nhận thấy sự quan trọng của chiếu vật trong phát ngôn cũng như trong tác
phẩm văn học. Nếu như không thể xác định được nghĩa chiếu vật của biểu
thức chiếu vật trong phát ngơn thì chúng ta sẽ khơng thể hiểu được nghĩa,
được đích của phát ngơn, tức là lời đáp của mình sẽ khơng thoả mãn được
đích chủ ngôn trong phát ngôn nghe được.
1.1.2. Phương thức chiếu vật
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: Phương thức chiếu vật là cách thức mà con
người sử dụng để thực hiện hành vi chiếu vật. Chúng cũng là con đường mà
người nghe tìm ra nghĩa chiếu vật từ các biểu thức chiếu vật nghe (đọc) được.
[11, tr.64]
Ngoài ra, cũng trong [11], Đỗ Hữu Châu chỉ ra ba phương thức lớn để
chiếu vật, đó là: dùng tên riêng, dùng biểu thức miêu tả và dùng cách chỉ xuất.
1.1.2.1. Chiếu vật bằng tên riêng
Tên riêng là tên dùng để đặt cho từng cá thể sự vật. Tên riêng có chức
năng là chỉ ra cá thể sự vật đúng với phạm trù của cá thể được gọi bằng tên
riêng đó như tên riêng chỉ người sẽ có chức năng là chỉ cá thể người trong
phạm trù người; tên riêng của sơng, núi có chức năng cơ bản là chỉ ra cá thể
sông, núi trong phạm trù vật thể tự nhiên. Ví dụ như: Hồng Hà có thể là tên
người, tên sơng, là tên một khách sạn, một xã, một làng. Lúc này, để giúp
người nghe khắc phục được tình trạng mơ hồ chiếu vật, người nói thường sẽ
thêm danh từ chung như là anh (ơng, chú,...); sơng (khách sạn, thơn,...); kèm
theo với tên riêng đó (anh Hồng Hà, khách sạn Hồng Hà, sơng Hồng
Hà,...).


12
Tên riêng có thể trùng nhau, dù là của các đối tượng thuộc cùng một

phạm trù hay không cùng một phạm trù thì đều dẫn đến tình trạng mơ hồ về
chiếu vật. Vì vậy, nếu muốn xác định được nghĩa chiếu vật của các tên riêng
trùng nhau đó, chúng ta có thể thêm các danh từ chung đặt trước danh từ
riêng, hoặc cũng có thể dùng các định ngữ hay tiểu danh vào sau tên riêng,
tùy theo các đối tượng trùng tên nằm trong một phạm trù hay khác phạm trù.
Ta có thể nói: Hưng dở hơi, Hưng hấp háy,...
Trong trường hợp các đối tượng trùng tên nhau cùng nằm trong một phạm
trù, chúng ta có thể thêm tiểu danh hay định ngữ hạn định vào sau tên riêng:
(1) a. Cơ Lan Vật lí vừa mua xe ơ tơ mới.
b. Cơ Lan Phương vừa mua xe ơ tơ mới.
Trong ví dụ (1a), người nói đã sử dụng định ngữ Vật lí vào sau tên riêng
Lan để phân biệt Lan của khoa/dạy mơn Vật lí với những Lan khác, chẳng
hạn như Lan khoa/dạy mơn Tốn, Lan khoa/dạy mơn Văn, v.v...
Trong ví dụ (1b), tiểu danh Phương được người nói thêm vào sau tên riêng
trùng nhau Lan có tác dụng giúp người nghe xác định được nghĩa chiếu vật
của tên riêng này.
1.1.2.2. Chiếu vật bằng biểu thức miêu tả
Ở ngoài thực tế, khơng phải sự vật nào cũng có tên riêng và cũng không
phải lúc nào tên riêng cũng được cả người phát và người nhận đều biết. Vì
vậy, trong nhiều trường hợp, để người nhận có thể thực hiện được hành động
chiếu vật thành công, người phát phải sử dụng các phương thức chiếu vật
khác. Trong đó, có phương thức chiếu vật miêu tả. Miêu tả là nêu ra các đặc
điểm của vật. Chiếu vật bằng miêu tả là hành động mà người phát sử dụng các
từ ngữ dùng để miêu tả để giúp cho người nhận dễ dàng quy chiếu, xác định
được sự vật được nói đến trong phát ngơn. Biểu thức chiếu vật có sử dụng các
từ ngữ nêu đặc điểm của sự vật thì được gọi là biểu thức chiếu vật miêu tả.
(2) - ... Cháu hỏi thăm cụ cơ Mơ có ở trong này khơng ạ?
- Bác hỏi cơ Mơ nhà tơi hay cơ Mơ có chồng làm xe?



13
- Thưa cụ, cháu hỏi cô Mơ chồng làm xe ấy ạ!
Dựa vào tính chất mà biểu thức miêu tả có thể được chia thành hai loại,
đó là biểu thức miêu tả xác định và biểu thức miêu tả không xác định. Một
biểu thức miêu tả được xem là xác định khi sự vật (nghĩa chiếu vật của nó) đã
được cả người nói và người nghe biết. Nhưng nếu như nghĩa chiếu vật của
biểu thức miêu tả chưa được người nói và người nghe biết thì biểu thức đó
chính là một biểu thức miêu tả không xác định.
(3) Ngày xửa, ngày xưa trong một khu rừng nọ, một con thỏ…
Ở ví dụ (3), nếu như khơng có các yếu tố miêu tả là một và nọ thì các
biểu thức miêu tả xác định một khu rừng nọ và một con thỏ sẽ trở thành các
biểu thức miêu tả không xác định: làng, rừng, con thỏ.
1.1.2.3. Chiếu vật bằng chỉ xuất
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: Chỉ xuất là phương thức chiếu vật bằng
ngôn ngữ dựa trên hành động chỉ trỏ. Tất cả các ngơn ngữ đều có hệ thống từ
chun chiếu vật theo phương thức chỉ xuất như đại từ, chỉ từ, giới từ,... Tổ
hợp có từ chỉ xuất được coi là một biểu thức chỉ xuất. [8, tr. 72]
(4) Cái ghế này hỏng chân rồi.
Từ này đã tách được cái ghế ra khỏi tập hợp ghế để ta có thể xác định
được cái ghế hỏng chân đó là cái ghế nào.
Theo quan điểm của tác giả Đỗ Hữu Châu thì có ba phạm trù chỉ xuất
trong các ngơn ngữ, đó là phạm trù xưng hơ, phạm trù khơng gian, phạm trù
thời gian. Ngồi ra cịn có thêm phạm trù chỉ xuất xã hội thường được thực
hiện kèm với phạm trù xưng hô.
a) Phạm trù xưng hô
Phạm trù xưng hô bao gồm những phương tiện chiếu vật mà nhờ đó
người nói tự quy chiếu, tức là tự đưa mình vào diễn ngơn (tự xưng) và đưa
người giao tiếp với mình (đối xưng) vào diễn ngơn. Do đó, phạm trù ngơi sẽ
thuộc quan hệ vai giao tiếp ngay trong cuộc giao tiếp đang diễn ra với điểm
gốc là người nói.



14
Các phương tiện để xưng hô: Các phương tiện để xưng hô của người
Việt rất phong phú và đa dạng. Sử dụng phương tiện xưng hô nào là tùy
thuộc vào người nói có vai trị giao tiếp gì và sử dụng trong ngữ cảnh nào,
với một chiến lược giao tiếp ra sao.
Theo Đỗ Hữu Châu, có thể sử dụng các phương tiện giao tiếp sau:
+ Dùng đại từ xưng hô: Đại từ xưng hơ bao gồm ngơi thứ nhất (người
nói) và ngơi thứ hai (người nghe), số ít, số nhiều. Hiện nay, vẫn có nhiều nhà
ngơn ngữ xếp ngơi thứ ba vào phạm trù xưng hô. Nhưng theo tác giả
Benveneste trong Những vấn đề ngôn ngữ học đại cương (1996) thì chỉ có
ngơi thứ nhất, ngơi thứ thứ hai mới thực sự là các ngơi nhân xưng. Vì những
người đang giao tiếp với nhau sử dụng chúng để “chỉ” nhau, ngơi thứ ba
khơng đồng tình với ngơi thứ nhất và thứ hai ở chỗ nó chỉ được dùng để
chiếu vật người hoặc sự vật được nói tới chứ khơng trực tiếp là thành viên
tham gia vào cuộc giao tiếp, không phải là nhân vật xúc tiến cuộc giao tiếp.
Điều đáng lưu ý là người nói chỉ dùng ngơi thứ ba chỉ sự vật, người… khi
ngôi thứ hai cũng biết về những sự vật, người,… đó. Nếu ngơi thứ ba để thay
thế cho nó được mà phải giới thiệu về nó trước đã rồi mới nói về nó.
(5) - Tơi khơng đi học nữa.
- Chúng ta đều là bạn.
- Nó có một bộ lông mềm mại.
Các đại từ xưng hô được sử dụng trong (5): tơi, chúng ta, nó.
+ Dùng tên riêng:
Dùng các từ thân tộc: Từ thân tộc là những từ chỉ người theo quan hệ họ
hàng do văn hóa Việt Nam quy định như: cụ, ông, bà, cha mẹ, anh, chị, em,
cơ, dì, chú, bác,... Các từ này quy định danh linh hoạt và lập thành những cặp
tương ứng theo vị trí họ tộc, gia đình, trên dưới khơng chặt chẽ, như cháu
không thể đi với ông, bà, chú, bác, cậu, cô,...

+ Dùng các từ ngữ chỉ chức nghiệp như: bác sĩ, giáo sư, giám đốc,…
+ Dùng những từ chuyên dùng để xưng hô như: Ngài, lão, thần, khanh,


15
đại hạ, tiên sinh,...
Cũng theo Đỗ Hữu Châu, các từ xưng hơ của tiếng Việt có những từ
chun ngơi, kiêm ngôi hay thay ngôi (chuyên ngôi là từ được dùng cho
nhiều ngơi). Ví dụ như từ người ta có thể dùng cho ngơi thứ nhất, ngơi thứ
ba, thậm chí khi cịn được dùng để chỉ ngơi thứ 2.
(6) - Người ta đã nói rồi nhưng anh đâu có nghe.
Người ta trong phát ngôn này là ngôi thứ nhất.
- Em đã nói rồi nhưng người ta đâu có nghe.
Người ta là ngơi thứ ba (khi người ta khơng có mặt, nhưng cũng có
trường hợp người nghe có mặt nhưng cơ gái vẫn dùng người ta khi qua hệ
tình cảm giữa cơ gái và người ấy chưa rõ ràng. Trong trường hợp này người
ta chỉ ngơi số hai).
Khi giao tiếp có một số nhân tố chi phối việc dùng từ xưng hô, cụ thể
như sau: Việc dùng từ xưng hô tùy thuộc rất nhiều vào các nhân tố như:
Xưng hô phải thể hiện vai trò giao tiếp: Trong một cuộc giao tiếp có sự
phân vai người nói và vai người nghe. Họ là đối ngôn của nhau. Trong các
cuộc giao tiếp mặt đối mặt liên tục sẽ có sự luân chuyển vai: vai người nói
chuyển thành vai người nghe và ngược lại. Con người là tổng hòa của các
mối quan hệ xã hội. Do đó trong xã hội, mỗi con người đều có rất nhiều vai.
Cái quan trọng là khi giao tiếp, các thoại nhân (người tham gia hội thoại) cần
phải xác định rõ mình đang đứng ở vai giao tiếp nào, có như vậy mới lựa
chọn từ xưng hơ cho phù hợp, góp phần đạt được những hiệu quả giao tiếp.
(7) Trong lớp học, học sinh muốn ra ngoài và đứng lên thưa cơ:
Ra ngồi được khơng?
Trong ví dụ (7), người học sinh đã không sử dụng từ xưng hô, việc nói

trống khơng như vậy chứng tỏ người học sinh đã khơng xác định đúng vai
giao tiếp vì thưa giáo viên mà nói chuyện như với bạn cùng trang lứa. Và khi
nghe học sinh thưa như thế chắc chắn giáo viên sẽ không chấp nhận. Như vậy


16
hiệu quả giao tiếp không đạt được. Tuy nhiên, trong thực tế cũng có trường
hợp người nói cố tình sử dụng sai từ xưng hô nhằm tạo ra hàm ý.
Xưng hô phải thể hiện cho được quan hệ quyền uy: Trong xưng hô phải
thể hiện rõ địa vị xã hội, chức vụ xã hội, học vấn, tuổi tác,… Tuy nhiên, ở
Việt Nam, người cao tuổi có thể xưng hơ với những người có địa vị xã hội
trên mình bằng các từ xưng hô thân cận. Bởi người Việt Nam ta ln quan
niệm kính lão đắc thọ, trên kính dưới nhường. Nếu xưng hơ khơng tơn trọng
người có tuổi sẽ bị xem là vơ lễ, thiếu văn hóa.
Xưng hơ phải thể hiện cho được quan hệ thân cận: Trong hội thoại, quan
hệ giữa các nhân vật giao tiếp được thể hiện qua các đại từ xưng hơ. Ví dụ,
khi hai người bạn mới quen nhau thường sẽ sử dụng cách xưng hơ lịch sự
như cậu, tớ, bạn, mình,… để thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau. Tuy nhiên, khi
hai người đã chơi thân với nhau rồi thì có thể dùng các từ mày, tao để xưng
hô mà không bị coi là mất lịch sự. Qua đó thể hiện sự thân mật, suồng sã của
các nhân vật giao tiếp.
Xưng hô phải phù hợp với ngữ vực: Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ ngữ
vực được dùng đồng nghĩa với thuật ngữ phong cách. Theo Đỗ Hữu Châu:
Nên xem ngữ vực là những biến thể - tức những phạm trù lớn cùng bậc với
các phạm trù biến thể khác của ngôn ngữ như biến thể chuẩn mực, biến thể
phương ngữ địa phương và biến thể phương ngữ xã hội.
Ví dụ, trong các văn bản thuộc phong cách ngơn ngữ khoa học, người
viết chỉ có thể sử dụng các từ xưng hô như tôi, chúng tôi hay tác giả mà
không thể sử dụng các từ ngữ xưng hô mang sắc thái biểu cảm rõ nét như:
chàng, nàng, mình, ta,… Bởi văn bản khoa học địi hỏi sự khách quan, chính

xác, trung hịa về sắc thái biểu cảm. Cịn trong phong cách ngơn ngữ sinh
hoạt, người nói có thể sử dụng đa dạng hơn từ ngữ xưng hơ tùy theo hồn
cảnh và mục đích giao tiếp.


17
b) Chỉ xuất không gian, thời gian
Chỉ xuất không gian: là khoảng cách gần hay xa theo định vị của người
nói. Đây là vị trí tình từ chỗ nhìn của người nói đến người nghe. Muốn định
vị được khơng gian thì phải có điểm gốc. Điểm gốc về khơng gian là vị trí
khơng gian của người nói trong giao tiếp, đó là vị trí giữa người nói và người
nghe trong khi giao tiếp. Khi nói, người nói ở đâu thì là điểm gốc để định vị
vật được nói tới như: ở đây, chỗ này, ở đó….
(8) Đến đây anh hát với nàng,
Hát lên, năm huyện mười làng đều nghe.
Từ đây trong (8) là yếu tố chỉ xuất không gian ứng với vị trí của người
nói so với người nghe.
Chỉ xuất thời gian: Nói đến chỉ xuất thời gian được hiểu là thời điểm nói
năng mà người nói nói với người nghe. Để biểu thị sự định vị thời gian,
người nói thường dùng các phụ từ: đã, sẽ, đang, vừa, mới,… và các danh từ
hôm nay, ngày mai, hôm qua,...
(9) Bây giờ là 10 giờ.
Bây giờ trong ví dụ (9) là yếu tố chỉ xuất ứng với thời gian trong thời điểm
người nói nói với người nghe. Tuy nhiên trong văn chương, đặc biệt trong ca
dao, tục ngữ thì chỉ xuất này mang đặc trưng tâm lí, có tính nghệ thuật. Thời
gian: chiều chiều, đêm qua, đêm năm canh,…. khơng hồn toàn đồng nhất với
hiện thực mà chỉ là thời gian diễn xướng, thời gian của các tâm trạng.
- Chỉ xuất không gian, thời gian chủ quan: Trong hội thoại, người nói
thường sẽ lấy vị trí mà mình đang đứng khi nói để làm điểm mốc, từ đó định
vị khơng gian của sự vật, sự kiện - chiếu vật. Ví dụ: Tôi, ở đấy, bây giờ là ba

điểm gốc trong một lời nói để chiếu vật theo lối chỉ xuất khơng gian và thời
gian chủ quan, trong đó tơi là điểm gốc cơ bản, ở đây là chỉ xuất không gian,
bây giờ là chỉ xuất thời gian. Như vậy, định vị chủ quan là định vị mà khi
người nói tự lấy mình làm gốc để chiếu vật.


18
Ngồi ra khi nói đến định vị khơng gian cịn cần phải nói tới phương
hay hướng nhìn khi chiếu vật. Khi dùng từ này để chỉ xuất một vật thì vật đó
phải ở đằng trước và người nói phải nhìn thấy. Tiếng Việt thường dùng các
từ nay, kia, mai,… để định vị thời gian. Tất cả xoay quanh điểm gốc bấy giờ,
bây giờ cũng có khi dài ngắn khác nhau.
(10) - Chúng ta học bây giờ.
Thì bây giờ là thời gian nhỏ về lượng.
- Bây giờ nó đang cịn trẻ.
Thì bây giờ tính bằng năm dài chứ khơng tính bằng tháng, bằng ngày.
- Chỉ xuất không gian, thời gian khách quan: đó là chỉ xuất lấy một điểm
trong khơng gian hay là một thời điểm trong diễn tiến của sự kiện khách quan
để làm gốc. Về không gian, dùng từ chỉ xuất nọ là để so sánh với ấy, lấy ấy
làm gốc để chỉ các cái khác bằng nọ.
(11) Tôi không lấy quyển sách ấy, lấy cho tôi quyển sách kia, quyển
sách ấy và quyển sách kia đều ở xa người nói có điều chung được cả người
nói và người nghe biết.
Thỏa thuận lấy quyển sách ấy làm gốc, cũng có thể quyển sách ấy nằm
trong tầm với của người đối thoại, gần với người đối thoại.
Có thể nói, sự định vị trong các ngôn ngữ đều dựa trên nguyên tắc người
nói tự lấy mình làm gốc để quy chiếu và lấy tình thế giao tiếp mặt đối mặt
giữa người nói và người nghe làm tình thế chuẩn, sự ln phiên vai trị người
nói và người nghe trong hộị thoại kéo theo sự thay đổi trong các định vị.
1.1.3. Cấu tạo của biểu thức miêu tả chiếu vật

Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: Các biểu thức chiếu vật là những cái neo mà
phát ngơn thả vào ngữ cảnh để móc nối nó với ngữ cảnh. Hay nói theo cách
khác thì nhờ có ngữ cảnh mà chiếu vật mới thực hiện được mục đích của
mình trong phát ngơn. Ngồi ra, tùy theo từng ngữ cảnh, ngôn cảnh cụ thể sẽ
giúp cho người nghe (người đọc) dễ dàng suy ra chiếu vật cá thể của một biểu


×