Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA, VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ BẢO TỒN NỀN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.51 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ VĂN HĨA, VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG
TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ BẢO TỒN
NỀN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


ĐIỂM SỐ

TIÊU CHÍ NỘI DUNG BỐ CỤC TRÌNH BÀY TỔNG
ĐIỂM
NHẬN XÉT
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận ............................................................................. 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận ........................................................... 2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .................................................................... 2
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận ................................................................. 2
6. Kết cấu của tiểu luận ..................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ
CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG VÀ BẢO TỒN VĂN HÓA VIỆT NAM ............................. 4
1.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa. ......................................................................... 4
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa. ............................... 5
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa. ....................... 7
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG VÀ TÌNH
HÌNH VĂN HĨA VIỆT NAM, NHỮNG BIỆN PHÁP XÂY DỰNG VÀ BẢO TỒN
VĂN HÓA VIỆT .................................................................................................................. 9
2.1. Xây dựng và bảo tồn ngôn ngữ dân tộc thiểu số Việt Nam ....................................... 9
2.2. Xây dựng và bảo tồn trang phục truyền thống dân tộc Việt Nam ............................ 12
2.3. Xây dựng và bảo tồn lễ hội của dân tộc Việt Nam. ................................................. 13
2.4. Xây dựng và bảo tồn nghệ thuật dân tộc Việt Nam. ................................................ 15
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc cùng chung sống. Trong đó,
dân tộc Kinh (cịn gọi là dân tộc Việt) chiếm 86,2% dân số, 53 dân tộc thiểu số còn lại
chiếm 13,8% dân số. Với một lượng lớn dân tộc chung sống với nhau như vậy, Việt Nam

chắc chắn là một nền văn hóa khổng lồ với vơ vàn những phong tục tập quán lâu đời.
Không chỉ dừng lại ở phong tục tập quán, Việt Nam nổi tiếng với những lễ hội truyền
thống, với những món ăn ẩm thực theo vùng miền và đặc biệt hơn là sự đa dạng về mặt
ngơn ngữ do có nhiều dân tộc cùng sinh sống.

1

Với mục đích nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những biện pháp xây dựng và bảo tồn
văn hóa Việt Nam của Đảng và nhà nước, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm khắc
phục những tồn tại, hạn chế, vượt qua những khó khăn, thách thức, nâng cao hiệu quả của
chính sách xây dựng và bảo tồn văn hóa, nhóm đã chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa, và sự vận dụng của Đảng trong việc xây dựng và bảo tồn nền văn hóa truyền
thống ở nước ta hiện nay.” làm tiểu luận kết thúc mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh.

2. Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận
Mục đích
Tìm hiểu và góp phần làm sáng tỏ hơn những nội dung cơ bản về chính sách xây
dựng và bảo tồn văn hóa truyền thống Việt Nam của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Phân
tích cụ thể, rõ ràng về thực trạng, đưa ra đánh giá khách quan về một số văn hóa tiêu biểu
của dân tộc Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó tổng kết, đánh giá, rút ra những kinh
nghiệm và đưa ra những giải pháp phù hợp để xây dựng và bảo tồn văn hóa truyền thống
dân tộc Việt Nam.
Nhiệm vụ

1

Đinh Thị Hương Giang, Bảo đảm tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam hiện nay, Tạp

chí
Cộng sản, truy cập: 3/11/2021.


1


Trình bày có hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về chính sách xây dựng và bảo tồn văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Tìm kiếm tài liệu thực tế, phân tích, chỉ rõ tình hình văn hóa Việt Nam và tầm
quan trọng của văn hóa đối với người Việt và thế giới.
Rút ra những kinh nghiệm từ thực tiễn, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả thực hiện chính sách xây dựng và bảo tồn văn hóa truyền thống Việt Nam trong
thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận
Đối tượng nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu những nội dung cơ bản về chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước về vấn đề văn hóa, tiểu luận đi sâu nghiên cứu những văn hóa tiêu biểu của dân
tộc Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận tập trung nghiên cứu về phương diện ngôn ngữ, trang phục, lễ hội và
nghệ thuật tiêu biểu trên lãnh thổ Việt Nam.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
văn hóa; các quan điểm, chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận: Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lenin.
Phương pháp cụ thể: Các phương pháp nghiên cứu của Hồ Chí Minh như kết hợp
phương pháp logic với phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp lí thuyết,

phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm vào nghiên cứu thực tiễn, phương pháp đối
chiếu.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận
Tiểu luận góp phần cung cấp và làm rõ hơn những nội dung cơ bản của Đảng và Nhà
nước về chính sách xây dựng và bảo tồn văn hóa Việt Nam, phục vụ cho các cơ quan, đơn

2


vị và cá nhân có nhu cầu tìm hiểu về các nội dung này. Đồng thời, đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách văn hóa ở Việt Nam trong thời gian tới.

6. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận được chia làm hai nội dung chính:
Chương 1: Những nội dung cơ bản của Đảng và Nhà nước về chính sách xây dựng
và bảo tồn văn hóa Việt Nam.
Chương 2: Sự vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và tình hình văn hóa
Việt Nam, những biện pháp xây dựng, bảo tồn văn hóa Việt.

3


CHƯƠNG 1:
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ
CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG VÀ BẢO TỒN VĂN HĨA VIỆT NAM
1.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa.
1.1.1. Định nghĩa về văn hóa và quan điểm về xây dựng nền văn hóa mới.
Khái niệm “văn hóa” có nội hàm phong phú và ngoại diện rất rộng. Chính vì vậy,
đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa. Tháng 8-1943, khi còn trong nhà tù của Tưởng

Giới Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí Minh nêu ra một định nghĩa về văn hóa: "Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng
với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống
và địi hỏi của sự sinh tồn".
1.1.2. Quan điểm về xây dựng nền văn hóa mới.
Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh cịn đưa ra Năm điểm lớn định
hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:
"1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã

hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền
5. Xây dựng kinh tế".

4


1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa.
1.2.1. Quan điểm về vị trí và vai trị của văn hóa trong đời sống xã hội.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, văn hóa được Hồ Chí Minh xác định là
đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng. Văn hóa có mối quan hệ
mật thiết với kinh tế, chính trị, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội
và được nhận thức như sau:
Văn hóa quan trọng ngang kinh tế, chính trị, xã hội. Chính trị, xã hội có được giải
phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hóa phát
triển.

Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hóa. Từ
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ kinh tế thuộc
về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, xây dựng kiến trúc thượng tầng.
Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng nhưng khơng thể đứng ngồi, mà phải ở trong
kinh tế và chính trị. Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển
kinh tế. "Văn hóa ở trong chính trị" tức văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị, tham
gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. "Văn hóa ở trong kinh tế" tức là
văn hóa phải phục vụ, thúc đẩy việc xây dựng và phát triển kinh tế. "Văn hóa ở trong kinh tế
và chính trị" cũng có nghĩa là chính trị và kinh tế phải có tính văn hóa.

1.2.2. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa mới.
Đặc điểm chung nhất của nền văn hóa mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là xua tan đế
bóng tối của chủ nghĩa thực dân, quốc, của dốt nát, đói nghèo, bệnh tật đè nặng lên cuộc
sống của nhân dân ta.
Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, nền văn hóa mới là nền văn hóa dân chủ
mới, đồng thời là nền văn hóa kháng chiến. Nền văn hóa đó có ba tính chất: dân tộc khoa học - đại chúng.
Tính chất dân tộc là cái "cốt", cái tinh túy bên trong rất đặc trưng của nền văn hóa dân
tộc. Nó phân biệt, khơng nhầm lẫn với văn hóa của các dân tộc khác. Nó là "căn cước" của
một dân tộc. Cốt cách dân tộc không phải "nhất thành bất biến", mà nó có sự phát triển, bổ
sung những tinh túy mới. Tính chất dân tộc của nền văn hóa là biết giữ gìn, kế thừa, phát

5


huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, phát triển những truyền thống tốt
đẹp ấy cho phù hợp với những điều kiện lịch sử mới của đất nước.
Tính chất khoa học của nền văn hóa phải thuận với trào lưu tiến hóa của tư tưởng
hiện đại: hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nền văn hóa mới phải phục
vụ trào lưu đó.
Tính chất đại chúng của nền văn hóa là phục vụ nhân dân, phù hợp với nguyện vọng

nhân dân, đậm đà tính nhân văn. Đó là nền văn hóa do đại chúng nhân dân xây dựng.

Trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, thời kỳ đầu Hồ Chí Minh nói tính chất
nền văn hóa mới phải "xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức". Nội dung
xã hội chủ nghĩa là thể hiện tính tiên tiến, tiến bộ, khoa học, hiện đại, biết tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với trào lưu tiến hóa trong thời đại mới.
1.2.3. Quan điểm về chức năng của văn hóa.
Chức năng của văn hóa mới rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho rằng, văn
hóa có ba chức năng chủ yếu sau đây:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp. Lý tưởng là điểm hội tụ
của tư tưởng lớn. Hồ Chí Minh khẳng định văn hóa phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự
chủ, tự cường, độc lập, tự do; phải làm cho quốc dân "có tinh thần vì nước qn mình, vì
lợi ích chung mà qn lợi ích riêng". Đó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã
hội, thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Văn hóa cịn góp phần xây đắp niềm tin cho con người, tin ở bản chất khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tin vào nhân dân, tin vào tiền đồ của cách mạng.
Hai là, nâng cao dân trí. Văn hóa ln gắn với dân trí. Khơng có văn hóa khơng có
dân trí. Văn hóa nâng cao dân trí theo từng nấc thang, phục vụ mục tiêu cách mạng trước
mắt và lâu dài. Nâng cao dân trí bắt đầu từ việc làm cho người dân biết đọc, biết viết. Đó
là q trình bổ sung kiến thức mới, làm cho mọi người khơng chỉ là chuyển biến dân trí
mà cịn nâng cao dân trí, điều mà khi chính trị chưa được giải phóng thì khơng thể làm
được. Mục tiêu đó hiện nay Đảng ta chỉ rõ vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh".

6


Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách, lối sống lành mạnh,
luôn hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, khơng ngừng hồn thiện bản
thân mình. Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh phẩm chất đạo đức, chính trị của cán bộ,

đảng viên.

1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa.
1.3.1. Văn hóa giáo dục
Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục phong kiến và nền giáo dục thực dân. Người
quan tâm xây dựng nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập. Hồ Chí Minh xác định,
xây dựng nền giáo dục mới là một nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược.
Mục tiêu của văn hóa giáo dục để thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng giáo
dục: Dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp; mở mang dân trí;
bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp cho con người. Giáo dục nhằm đào tạo
lớp người có đức, có tài, kế tục sự nghiệp cách mạng, làm cho nước ta sánh vai cùng các
cường quốc năm châu.
Cải cách giáo dục bao gồm xây dựng chương trình, nội dung dạy và học hợp lý,
phù hợp với các giai đoạn cách mạng. Học chính trị là học chủ nghĩa Mác - Lênin, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Học để nắm các quan điểm có tính ngun tắc,
phương pháp luận.
Phương châm, phương pháp giáo dục: Phương châm bao gồm: học đi đôi với hành,
lý luận liên hệ với thực tế; học tập kết hợp với lao động; phối hợp nhà trường - gia đình xã hội; thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục; học suốt đời.
Quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên vì khơng có giáo viên thì khơng có giáo dục.
Phải xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất yêu nghề; phải có đạo đức cách mạng; phải
n tâm cơng tác, đồn kết; phải giỏi về chun mơn, thuần thục về phương pháp.
1.3.2. Văn hóa văn nghệ
Hồ Chí Minh là người khai sinh nền văn nghệ cách mạng và có nhiều cống hiến to
lớn, sáng tạo cho nền văn nghệ nước nhà. Sau đây là một số quan điểm chủ yếu của Hồ
Chí Minh về văn hóa văn nghệ.

7


Văn nghệ là mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén

trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới. Văn nghệ là mặt
trận được hiểu nó là một bộ phận của cách mạng, là văn nghệ cách mạng. "Mặt trận" là
thể hiện tính chất cam go, quyết liệt.
Văn nghệ vừa tiếp tục tham gia kháng chiến, đấu tranh thống nhất nước nhà, vừa
xây dựng xã hội mới, con người mới. Văn nghệ góp phần định hướng tư tưởng đúng đắn
theo quan điểm của Đảng, là những lực cản trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân. Quần chúng là những người làm ra lịch
sử, sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần. Họ là những người đánh giá tác phẩm văn nghệ
trung thực, khách quan, chính xác. Nhân dân là người hưởng thụ các giá trị tinh thần.

Phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc và thời đại. Đây là một khía cạnh
phản ánh văn nghệ phục vụ quần chúng. Muốn phục vụ tốt quần chúng thì phải nâng cao
chất lượng nội dung và hình thức của tác phẩm.
1.3.3. Văn hóa đời sống
Xây dựng đời sống văn hóa mới được Hồ Chí Minh chỉ ra ngay sau khi mới giành
được chính quyền, rồi nhanh chóng trở thành một phong trào quần chúng sôi nổi, tạo
động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
Văn hóa đời sống thực chất là đời sống mới với ba nội dung: đạo đức mới, lối sống
mới, nếp sống mới, trong đó đạo đức mới đóng vai trò chủ yếu nhất.
Đạo đức mới: Thực hành đời sống mới trước hết là thực hành đạo đức cách mạng.
Lối sống mới: Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức; kết hợp hài hịa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại tạo nên lối sống văn minh,
tiên tiến. Tính văn hóa ở đây là biết cách ăn, cách mặc, cách ở. Điều này đặc biệt cần thiết
đối với cán bộ quản lý, lãnh đạo.
Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới là xây dựng những thói quen và phong tục
tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển được những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân
tộc. Thực tế cho thấy, cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu; cái xấu mà quen, người ta
có thể cho là thường.

8



CHƯƠNG 2:
SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG VÀ
TÌNH HÌNH VĂN HĨA VIỆT NAM, NHỮNG BIỆN PHÁP XÂY
DỰNG VÀ BẢO TỒN VĂN HÓA VIỆT
2.1. Xây dựng và bảo tồn ngôn ngữ dân tộc thiểu số Việt Nam
2.1.1. Thực trạng xây dựng và bảo tồn ngôn ngữ dân tộc thiểu số Việt Nam
Về tiếng nói.
Với đặc điểm sinh sống theo cộng đồng bản (thôn), 19 dân tộc thiểu số hầu hết cịn
bảo tồn được tiếng mẹ đẻ. Khơng chỉ các dân tộc có dân số đơng mà cả những dân tộc có
dân số rất ít trên địa bàn như: Cống, Mảng, Si La, Kháng, La Hủ…. khi giao tiếp giữa các
thế hệ trong gia đình và giao tiếp với người cùng dân tộc hay khi cầu cúng, ca hát…họ
vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ. Bên cạnh đó, việc sử dụng song ngữ Tiếng Việt, tiếng dân tộc
và đa ngữ khá phổ biến. Khơng ít người ngồi tiếng mẹ đẻ cịn nghe, nói thơng thạo tiếng
của một số dân tộc khác, nhất là 4 dân tộc có dân số đơng là Mơng, Thái, Dao, Hà Nhì,
đều ảnh hưởng tới các dân tộc khác trong việc giao tiếp bằng tiếng nói.
Người Khơ Mú trên địa bàn tỉnh Lai Châu đứng thứ 8 trên tổng số 19 dân tộc thiểu
số. Họ đều biết nói tiếng Khơ Mú nhưng thường sống đan xen với các dân tộc khác. Khảo
sát tại bản Hô Ta, xã Phúc Khoa, huyện Tân Uyên có 146 hộ, 669 nhân khẩu, có 70% là
đồng bào Khơ Mú, cịn lại là sống cùng với đồng bào dân tộc Kinh, Thái, Dao, Mông.
Trong khi họp bản và sinh hoạt đời sống thường ngày đa số họ lại sử dụng tiếng Việt và
tiếng Thái, chỉ có các gia đình là người Khơ Mú hồn tồn thì mới sử dụng tiếng Việt và
tiếng Khơ Mú. Tuy nhiên, qua khảo sát bản Hô Ta và một số người Khơ Mú trên địa bàn
tỉnh cho thấy, hầu hết đồng bào Khơ Mú nói thành thạo tiếng Thái.
Một số dân tộc thiểu số ở Lai Châu hiện nay như: dân tộc Hoa, Phù Lá, Tày, Nùng,
Mường do dân số ít và khơng cư trú tập trung thành cộng đồng mà phân tán rải rác trong
các bản của 4 dân tộc có dân số đơng như Thái, Dao, Mơng, Hà Nhì và gần như hịa vào
các dân tộc này, đa số họ nói tiếng Thái.
9



Như vậy có thể thấy, hầu hết các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lai Châu đều
giữ được tiếng mẹ đẻ nhưng nguy cơ mai một trong tương lai là rất cao.
Về chữ viết.
Tỉnh Lai Châu có 6 dân tộc được xác định là có chữ viết: Dao, Thái, Mơng, Lào,
Lự, Hoa. Tuy nhiên, hiện có 02 dân tộc (Thái, Dao) sử dụng chữ viết dân tộc trong hoạt
động văn hóa, nhưng số người biết viết chữ này khơng nhiều.
Chữ viết của người Thái cịn được lưu giữ và hiện đang có một số lớp của các nghệ
nhân dân gian truyền dạy ở huyện Phong Thổ, Than Uyên. Chữ viết của dân tộc Dao còn
được bảo tồn trong một số cuốn sách và đang có 01 lớp truyền dạy tại xã Ma Ly Pho,
huyện Phong Thổ. Tuy nhiên, chữ viết của người Dao là bộ chữ hình khối kiểu chữ Hán,
khó học và chỉ sử dụng trong các nghi lễ, tín ngưỡng. Chữ viết của dân tộc Lự, Lào ở Lai
Châu đã mai một. Các dân tộc Lào, Lự vốn có chữ viết tương tự như dân tộc Thái, nhưng
hiện nay chỉ cịn rất ít người biết (chủ yếu là người cao tuổi).
Từ một số vấn đề trên, chúng tôi thiết nghĩ, nguy cơ mai một ngôn ngữ của dân tộc
thiểu số trên địa bàn tỉnh là rất lớn. Ngoài việc tỉnh đang tiếp tục bảo tồn lưu giữ bản sắc
văn hóa đồng bào các dân tộc và tập hợp một số lớp truyền dạy chữ viết dân tộc Thái tại
huyện Than Un, Phong Thổ thì việc khơi phục chữ viết cho một số đồng bào cũng cần
phải tính tới cách làm “bền vững” là phải có cơ chế, chính sách riêng trong thời gian tới
để việc người dân tộc thiểu số vừa nói, viết thơng thạo tiếng Việt nhưng vẫn phải nói và
viết được ngơn ngữ của chính dân tộc mình.
Tiếng nói và chữ viết của mỗi dân tộc thiểu số ở Việt Nam vừa là vốn quý của các
dân tộc đó, vừa là tài sản văn hoá chung của cả nước. ở các vùng dân tộc thiểu số, tiếng
và chữ dân tộc được dùng đồng thời với tiếng và chữ phổ thông.
Cùng với chữ phổ thông, chữ dân tộc tham gia nhiều mặt hoạt động ở vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số, nhất là trong việc giữ gìn và phát triển vốn văn hố dân tộc. Vì
thế, đi đơi với việc hồn thành phổ cập tiếng và chữ phổ thông, cần ra sức giúp đỡ các dân
tộc thiểu số xây dựng mới hoặc cải tiến chữ viết của từng dân tộc …


10


2.1.2. Giải pháp xây dựng và bảo tồn ngôn ngữ dân tộc thiểu số Việt Nam
Các bộ chữ cổ của một số dân tộc thiểu số đã có truyền thống lâu đời đến nay vẫn
phát triển sâu rộng trong cộng đồng. Các bộ chữ này đã tồn tại cùng với nền văn hố và
tín ngưỡng của các dân tộc từ đời này qua đời khác.
Chính sách bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số của Đảng,
Nhà nước ta là nhất quán, đúng đắn và thể hiện đầy đủ ngun tắc bình đẳng, đồn kết
giữa các dân tộc cùng chung sống trên đất nước Việt Nam.
Việc dạy và học ngôn ngữ dân tộc thiểu số đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp
phát triển giáo dục ở vùng dân tộc, ổn định chính trị, nâng cao dân trí, bảo tồn văn hố
truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc thiểu số. Đồng thời, việc dạy tiếng nói, chữ
viết dân tộc thiểu số phát huy được sự tham gia của cộng đồng vào sự nghiệp phát triển
giáo dục, thực hiện tích cực q trình xã hội hố giáo dục và góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số.
Sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong công tác thông tin tuyên truyền được thực
hiện: Đài Tiếng nói Việt Nam đã xây dựng và thực hiện chương trình phát thanh tiếng dân
tộc thiểu số đầu tiên từ năm 1956. Các buổi phát thanh tiếng dân tộc thiểu số được sắp
xếp, bố trí thời gian, thời lượng hợp lý. Hiện nay Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát thanh
13 thứ tiếng dân tộc thiểu số: tiếng dân tộc Khmer, Chăm, Êđê, Jarai, Bana, K’ho, Xơ
đăng, Mông, Dao, Thái…
Tiến hành điều tra khảo sát tại các địa phương có đồng bào dân tộc thiểu số sinh
sống về thực trạng sử dụng ngôn ngữ dân tộc, tình hình song ngữ “tiếng dân tộc thiểu số tiếng Việt”; nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ các dân tộc, làm cơ sở cho việc hoạch định
chính sách bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số.
Xây dựng chính sách đào tạo, đãi ngộ phù hợp đối với đội ngũ giáo viên dạy ngôn
ngữ dân tộc, dạy song ngữ cho học sinh các trường phổ thông và cán bộ, công chức, viên
chức công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số (bao gồm cả kiến thức về lịch sử, văn
hoá, ngơn ngữ, phong tục tập qn…). Có cơ chế thích hợp cho việc biên soạn và xuất
bản sách giáo khoa bằng tiếng và chữ dân tộc, ngữ pháp tiếng dân tộc, từ điển song ngữ.


11


2.2. Xây dựng và bảo tồn trang phục truyền thống dân tộc Việt Nam
2.2.1. Thực trạng xây dựng và bảo tồn trang phục truyền thống dân tộc Việt
Nam
Trải qua các thời kỳ lịch sử, áo dài truyền thống Việt Nam với các hình thức thiết
kế, màu sắc đa dạng và phong phú đã xuất hiện khắp năm châu trong các cuộc thi sắc đẹp,
sự kiện chính trị, văn hóa nghệ thuật; góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới.
Áo dài tượng trưng cho sự thướt tha, đằm thắm, yêu kiều của người phụ nữ Việt, là nét
văn hóa dân tộc. Thế nhưng cho đến bây giờ, áo dài vẫn chưa được cơng nhận là di sản
văn hóa một cách chính thức, hợp pháp.
Có lẽ, khơng một phụ nữ Việt Nam nào lại khơng có cảm giác u thương và tự
hào khi khốc lên mình tà áo dài duyên dáng. Nếu như trước đây, phụ nữ chỉ mặc áo dài
trong những dịp trọng đại, lễ, Tết truyền thống thì ngày nay, họ mặc trang phục này ở mọi
nơi, mọi hồn cảnh. Tại một số trường học, cơng sở, áo dài trở thành đồng phục. Đây có
thể nói là một việc làm nhằm tôn vinh nét đẹp, giá trị của áo dài trong đời sống xã hội,
khơi dậy niềm tự hào, trách nhiệm giữ gìn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam trong mỗi
người phụ nữ nói riêng, người dân Việt Nam nói chung.
2.2.2. Giải pháp xây dựng và bảo tồn trang phục truyền thống dân tộc Việt Nam

Những năm gần đây, vấn đề bảo tồn, phát huy, sử dụng áo dài truyền thống trong
xã hội đương đại được nhắc đến nhiều hơn.
Một là lan tỏa giá trị văn hóa của áo dài truyền thống…
Viện Nghiên cứu văn hóa Thăng Long vừa phối hợp với Tạp chí Tinh hoa đất Việt
tổ chức chương trình văn hóa, nghệ thuật “Áo dài của chúng ta” tại Khu di tích Văn Miếu
- Quốc Tử Giám. Chương trình giới thiệu hơn 600 mẫu áo dài khai thác những nét đẹp
văn hóa đặc trưng của nhiều quốc gia trên những chất liệu truyền thống, thân thiện với
môi trường của Việt Nam, như: Tơ, lụa, đũi, gai... Tham gia chương trình là 15 nhà thiết

kế, hơn 400 người mẫu, trong đó có nhiều khách mời đặc biệt là phu nhân đại sứ các
nước: Italia, Ấn Độ, Lào… tại Việt Nam.
Hai là đẩy mạnh quảng bá áo dài ra thế giới…

12


Cùng với việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong bảo tồn di sản áo dài, những
hoạt động cụ thể, thiết thực nêu trên cũng nằm trong lộ trình hiện thực hóa mong muốn,
đưa di sản áo dài truyền thống của Việt Nam quảng bá với thế giới, trở thành di sản văn
hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại, được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh.
Ba là cần đẩy mạnh thiết kế các mẫu áo dài phù hợp với xu hướng xã hội.
Tại Hội thảo, các nhà nghiên cứu, nhà thiết kế và nghệ nhân đã bàn thảo về tiềm
năng sử dụng áo dài truyền thống trong xã hội; ứng dụng may, mặc trong đời sống; những
vấn đề cải tiến áo dài; giáo dục về áo dài, xây dựng không gian bảo tồn áo dài ở Hà Nội
và các địa phương...
Trong khuôn khổ Hội thảo, các đại biểu được tham quan trưng bày giới thiệu áo
dài nam năm thân truyền thống, các chất liệu cổ truyền để may áo dài...

2.3. Xây dựng và bảo tồn lễ hội của dân tộc Việt Nam.
2.3.1. Thực trang vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội của nước ta.
Thực trạng việc tổ chức, quản lý, bảo tồn các lễ hội của nước ta hiện nay còn nhiều
hạn chế, tồn tại. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, chúng ta
đã có phần bng lỏng chỉ đạo, quản lý trên một số lĩnh vực văn hóa - xã hội, xem nhẹ
việc giáo dục nếp sống và lối sống thiếu sự hướng dẫn kịp thời về phong tục, thiếu những
quy định cụ thể của Nhà nước đối với lễ hội nên đã để phát sinh nhiều hiện tượng phản
cảm trong xã hội.
Tình trạng thiếu ý thức nơi cơng cộng cịn diễn ra khá phổ biến trong các lễ hội và
khu di tích danh thắng. Thực tế đã diễn ra nhiều tình huống đáng tiếc khơng đáng có như

mất cắp điện thoại, ví tiền, bị rạch túi, bị lừa đảo mua hàng hoặc ép giá, chèo kéo mồi
chài tham gia các trị chơi mang tính chất cá cược. Nhiều vụ tai nạn, va chạm xích mích
chỉ từ sự lộn xộn, chật chội của địa hình, địa thế (như trong hậu cung chật hẹp, nơi hóa
vàng mã khơng rộng rãi, đường đi quanh co khúc khủy, bãi đỗ xe lắt léo hoặc trên môi
trường sông nước, bến bãi...) mà có thể dẫn đến thương tật suốt đời hoặc án mạng tại
chỗ... Điều đáng tiếc xảy ra do cả nguyên nhân từ người đi dự hội, du khách... lẫn cơ
quan, chính quyền địa phương sở tại.
13


Tiếp đó là những hành vi vi phạm, làm sai lệch hoặc hủy hoại và thất thoát cổ vật,
hiện vật ở di tích, sự “vơ tư” của người dân trong ứng xử với hiện vật, cổ vật, không quan
tâm đến giá trị trao đổi với tư cách là hàng hóa đặc biệt - di sản văn hóa lâu đời do cha
ơng để lại - đã vơ tình trở thành mồi ngon cho những kẻ bất lương (trộm cắp hoặc mua
rẻ), những người buôn bán trái phép cổ vật, báu vật quốc gia có cơ hội hành nghề.
Vấn nạn nhức nhối nhất hiện nay chính là tình trạng ơ nhiễm mơi trường thường
xuyên xảy ra ở các di tích, danh thắng và trong các lễ hội, nguyên nhân chủ yếu gây ô
nhiễm, ảnh hưởng đến môi trường khu di tích và danh thắng là do tốc độ đơ thị hóa
nhanh, hạ tầng cơ sở kém, nhà dân lấn chiếm khuôn viên di tích sát khu thờ cúng tạo nên
khung cảnh phản cảm, gây mất mỹ quan và những hành vi thiếu ý thức của người dân khi
lấn chiếm di tích, hành lang, lề đường làm nơi buôn bán, tập kết hàng hóa làm dịch vụ
bn bán. Một bộ phận du khách thiếu ý thức khi xả rác sinh hoạt bừa bãi, đốt hương, đốt
vàng lạm dụng vượt quá sinh hoạt tín ngưỡng. Hoặc viết, vẽ bậy lên tường, vách đá, gốc
cây, nói tục, xúc phạm tâm linh… ảnh hưởng xấu tới khơng khí trang nghiêm của lễ hội,
di tích và danh thắng.

2

Do các điều kiện lịch sử cụ thể, trong một số thập kỷ qua, nhiều lễ hội truyền thống
của các dân tộc thiểu số đã phai nhạt hoặc vắng bóng trong đời sống. Việc phục hồi các lễ

hội này cần phải được nghiên cứu công phu, nghiêm túc trên cơ sở khoa học, có xem xét
đúng mức đến nhu cầu của cư dân, tránh sự phục hồi mang tính tự phát, tràn lan gây nên
những tác hại tiêu cực.
2.3.2. Giải pháp cho việc bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội của nước ta.
Để tiến hành bảo tồn và phát triển lễ hội truyền thống của các tộc người thiểu số cần
chú ý đến mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trên cơ sở khai thác các giá trị lịch sử văn
hóa, loại bỏ các yếu tố lỗi thời khơng cịn phù hợp theo quan điểm “gạn đục, khơi trong”,

2 Lê Thị Thanh Yến, Bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội ở nước ta - thực trạng và giải pháp, ,
oc
%20ta.pdf, 14/11/2021.

14


bổ sung các yếu tố mới nhằm làm phong phú thêm lễ hội, một mặt đáp ứng nhu cầu của cư
dân, mặt khác góp phần đưa văn hóa trở thành động lực trong sự phát triển kinh tế-xã hội.
Cần phải nâng cao vai trị lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác
chỉ đạo, quản lý và hướng dẫn toàn bộ hoạt động của lễ hội. Xác định vị trí, vai trị chủ đạo
trong cơng tác tham mưu của Ban tổ chức lễ hội trong việc quản lý, tổ chức và giải quyết các
vấn đề phát sinh tại lễ hội và tại di tích, hạn chế mức thấp nhất những tiêu cực có thể xảy ra
trong lễ hội. Phối hợp chặt chẽ vào cuộc của các cấp, các ngành tại địa phương trong trong
công tác quản lý và tổ chức lễ hội. Công tác thanh tra, kiểm tra phải tiến hành thường xuyên,
liên tục và xử lý kịp thời và nghiêm minh những hành vi vi phạm.

Chính quyền địa phương các cấp cần quản lý chặt chẽ việc quy hoạch, sắp xếp các
dịch vụ, các hoạt động vui chơi giải trí hợp lý, tạo điều kiện để nhân dân địa phương có
thêm thu nhập nhưng vẫn bảo đảm tính văn hóa trong các hoạt động này, khơng để nảy
sinh các hiện tượng tiêu cực, đánh mất bản sắc văn hóa và mục đích tốt đẹp của lễ hội.


3

2.4. Xây dựng và bảo tồn nghệ thuật dân tộc Việt Nam.
2.4.1. Thực trạng việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân tộc Việt Nam.
Trên thực tế trong những năm qua, việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân gian đã
được quan tâm nhưng vẫn còn nhiều bất cập, thậm chí quá đà dẫn đến nhiều hệ lụy xấu.
Thiếu những cơng trình nghiên cứu một cách hệ thống làm cơ sở lý luận cho việc bảo tồn văn
hóa dân gian nên ở đâu đó vẫn cịn tình trạng làm ẩu, làm xấu, pha trộn cổ kim lẫn lộn dẫn
đến méo mó các giá trị văn hóa truyền thống. Nhiều giá trị phi vật thể được vinh danh nhưng
không phát huy thực chất mà có lúc bị biến tướng rất đáng tiếc. Nhiều làng nghề truyền thống
đang mất dần tính độc đáo khi đưa cơng nghệ, máy móc hiện đại vào thay thế lao động thủ
công của con người. Sản phẩm làm ra hàng loạt với mục đích nâng cao thu nhập của người
dân, nhưng chất thải gây ô nhiễm mơi trường nặng nề, và tính độc nhất của sản phẩm cũng
khơng cịn nữa. Cảnh quan đặc trưng của nhiều làng nghề đang dần thay

3

Phạm Lan Oanh, Thực trạng và những vấn đề đặt ra từ lễ hội truyền thống hiện nay, Ban Tuyên giáo

tỉnh
Hưng Yên, truy cập: 5/11/2021.

15


đổi, khơng cịn là khơng gian thuần Việt như trước. Các trò chơi dân gian được xem là di
sản của văn hóa dân gian cũng đang mai một rõ rệt. Ngày hơm nay, chúng ta ít có cơ hội
thấy trẻ em chơi các trò chơi dân gian như đánh chắt đánh chuyền, ô ăn quan, nhảy dây,
bịt mắt bắt dê dù ở nhà hay ở trường. Tuy nhiên, với sự phát triển tốc độ của đời sống
hôm nay, công tác bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa cổ truyền vẫn bộc lộ nhiều yếu

kém, chưa theo kịp đời sống. Các giá trị về trang phục, kiến trúc, lối sống, văn hóa ứng
xử, ngơn ngữ đều có nguy cơ mai một, lễ hội bị thương mại hóa, biến tướng, bị một số cá
nhân lợi dụng trục lợi ngày càng gia tăng.

4

2.4.2. Giải pháp việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân tộc Việt Nam.
Muốn bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc tốt hơn, hiệu quả hơn, bền vững hơn, theo
chúng tơi, Ðảng và Nhà nước phải có một chính sách đầu tư hợp lý hơn, mạnh mẽ, thỏa
đáng hơn, phải quan tâm, khuyến khích những cơ quan, những tổ chức, những cá nhân
đang dốc lòng, dốc sức trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc; đồng thời
phê phán, có biện pháp xử lý đối với những tổ chức và cá nhân không nhận thức đúng,
làm tổn hại di sản văn hóa của cha ông, làm mờ nhạt bản sắc văn hóa dân tộc và hình ảnh
của đất nước nghìn năm văn hiến.
Thiết nghĩ, việc gìn giữ và phát huy bản sắc, những giá trị văn hóa truyền thống,
cộng đồng dân cư hiện nay cần được cấp ủy, chính quyền quan tâm, chỉ đạo với sự tham
gia đồng bộ của các đồn thể chính trị, xã hội.
Trước hết từ chương trình hành động, sự đầu tư thỏa đáng cả về giải pháp và cơ sở vật
chất; coi trọng công tác bảo tồn di sản văn hóa; khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá
nhân nghiên cứu, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trong cộng
đồng. Qua đó, góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa, văn nghệ phù hợp
với mơ hình xây dựng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng thời, tuyên truyền, nâng cao
nhận thức về công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trong

4 Bảo Bình, Bảo tồn các giá trị văn hóa dân gian trong thời đại 4.0, Công an nhân dân online, truy cập:
/>11/11/2020.

16



giai đoạn hiện nay. Đề cao vai trò năng lực các chủ thể văn hóa của các nghệ nhân trong
cơng tác bảo tồn và phát huy văn hóa của dân tộc mình.
Song song với việc triển khai nghiên cứu về văn hóa dân gian, ở Việt Nam, cơng
tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân gian, đặc biệt là văn hóa dân gian của các dân tộc
thiểu số đã ngày càng được đẩy mạnh và quan tâm. Qua đó góp phần giáo dục truyền
thống u nước, lịng tự hào dân tộc, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết các dân tộc,
vì một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc.
Đảng, Chính phủ, Nhà nước đã có những nỗ lực tích cực trong đào tạo nhân lực, hỗ
trợ hoạt động bảo tồn di sản văn hóa, đồng thời tạo ra mơi trường, mối liên kết, kết nối để
từng người dân, từng cộng đồng và tồn xã hội có thể tham gia cơng tác này. Tạo điều
kiện để đồng bào các dân tộc thiểu số học hỏi, tăng cường hiểu biết, phát huy truyền thống
tốt đẹp và gắn kết cộng đồng.

17



×