Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Tiểu luận đạo đức người cán bộ kiểm sát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.24 KB, 60 trang )

Câu hỏi:
Đạo đức người cán bộ cách mạng và đạo đức người cán bộ Kiểm sát trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là gì? Nhân Lễ Kỷ niệm 55 năm ngày thành lập
Viện Kiểm sát Nhân dân (26/7/1960 – 26/7/2015) - Tởng Bí Thư Ngũn Phú
Trọng gửi Lẵng hoa chúc mừng ngành Kiểm sát Nhân dân với dòng chữ:
“Nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, Kiên quyết tấn công tội phạm, Bản lĩnh
thực thi công lý, Tận tâm phục vụ Nhân dân”. Theo bạn, người cán bộ Kiểm
sát cần có phẩm chất đạo đức như thế nào để thực hiện được yêu cầu trên và liên
hệ với nhiệm vụ học tập của sinh viên trường ĐHKSHN.


Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Đạo đực người cán bộ kiểm sát ĐHKSHN
2. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh NXB: Chính trị quốc gia
3.
4. Trang web:
5. />
Chi-Minh-ve-tu-cach-nguoi-can-bo-Vien-kiem-sat-nhan-dan
6. />
7. Theo Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, H.2011.
8. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, t.2, tr.454.
9. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr.253.
10. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.9, tr.287.
11. Trích từ sách: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (do Hội đồng Trung ương
chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ mơn khoa học Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
12. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t.1, tr.295.
13. V.I. Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.41, tr. 369.


Mục lục


Lời mở đầu.......................................................................................................1
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức:...........................................................2
1. Đạo đức cán bộ cách mạng:....................................................................2
* Trung với nước hiếu với dân..................................................................3
* Thương yêu con người, sống có tình nghĩa............................................5
* Có tinh thần quốc tế trong sáng.............................................................6
2. Đạo đức người cán bộ Kiểm sát:............................................................6
II. Lời dạy của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và những phẩm chất cần có
của Cán bộ Kiểm sát.....................................................................................12
1. Lời dạy của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng:.......................................12
2. Những phẩm chất Cán bộ Kiểm sát......................................................16
* Đối với tổ quốc.....................................................................................17
* Đối với nhân dân..................................................................................17
* Đối với công việc..................................................................................17
* Đối với đồng nghiệp.............................................................................17
* Với bản thân.........................................................................................17
III. Đạo đức người cán bộ Kiểm sát trên thực tế:......................................19
1. Tình hình đạo đức cán bợ Kiểm sát:.....................................................19
2. Liên hệ sinh viên Kiểm sát.....................................................................20
Kết luận..........................................................................................................23


Lời mở đầu
Đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện ác, lương tâm, danh dự, trách
nhiệm, về lòng tự trọng, về công bằng hạnh phúc và về những quy tắc đánh giá,
điều chỉnh hành vi ứng xử giữa người với người, cá nhân và xã hội. Đạo đức có
vai trò rất quan trọng trong đời sống của con người: Đạo đức là tiêu chí đánh giá
sự văn minh, cao thượng của xã hội, con người. Người có đạo đức là người cao
thượng; một dân tộc, mặc dầu kinh tế còn lạc hậu, nhưng có được đạo đức cần,
kiệm, liêm, chính thì vẫn xứng đáng là một dân tộc văn minh. Đạo đức giúp cho

con người luôn giữ được nhân cách, bản lĩnh làm người trong mọi hồn cảnh,
khơng dễ bị thay đổi trước những xoay vần, biến thiên của thời cuộc: Giàu sang
không thể quyến rũ, nghèo khó không thể lay chuyển, sức mạnh không thể khuất
phục. Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi lẽ, có tâm, có đức mới giữ vững
được chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào cuộc sống. Trong
mối quan hệ giữa đạo đức và trí tuệ, đức và tài, Hồ Chí Minh đã nêu một quan
điểm lớn: Phải có đức để đi đến cái trí. Vì khi đã có cái trí, thì cái đức chính là
cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã
chấp nhận, đã đi theo.
Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh cơng bố Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân được ra đời xuất phát từ
yêu cầu khách quan của việc xây dựng bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa, từ
yêu cầu tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý Nhà nước, quản lý
xã hội. Hơn nửa thế kỷ qua, các thế hệ cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân đã, đang
và sẽ mãi mãi ghi nhớ và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với
cán bộ ngành Kiểm sát phải “Cơng minh, chính trực, khách quan, thận trọng,
khiêm tốn”.

1


I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức:
1. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng
Hồ Chí Minh là một trong những ngà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng
thếgiới đã bàn nhiều về đạo đức và giáo dục đạo đức. Hồ Chí Minh quan niệm
đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng, từ rất sớm và xuyên suốt cuộc
đời cách mạng của mình. Cuốn sách Đường cách mệnh năm 1927 không phải
là một chuyên luận về vấn đề đạo đức cách mạng, nhưng ở trang đầu cuốn sách.
Người đã nêu lên hai mươi ba điều về tư cách một người cách mạng, giải quyết
ba mối quan hệ: Với mình, với người, với việc. Những thập kỷ bốn mươi, năm

mươi, sáu mươi, Người đều có những bài viết ngắn gọn, súc tích về đạo đức
cách mạng.
Tư tưởng đạo đức Hồ ChíMinh rất sâu sắc, phong phú, cả về lý luận và
thực tiễn, đã trở thành một bộ phận vô giá của văn hóa dân tộc và nhân loại, một
sức mạnh to lớn làm nên mọithắng lượi của cách mạng Việt Nam. Người coi đạo
đức như gốc của cây, như nguồn của sông, cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho
loài người là một công việc to tát mà tự mình không có đạo đức, khơng có căn
bản, tự mình đã hủ hố, xấu xa thì còn làm nổi việc gì . Vai trò nền tảng của đạo
đức cách mạng được Hồ Chí Minh khẳng định: “Làm cách mạng để cải tạo xã
hội cũ thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một
nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ”“cũng như sơng thì có nguốn mới có nước,khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây
phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Ngườicách mạng phải có đạo dức, khơng
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơnglãnh đạo được nhân dân”.
“Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải
có đạo đức cách mạnh làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng
vẻ vang” Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”.
2


Trong dichúc, Người căn dặn: “Mỗi đảng viên va cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạođức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ
gìn Đảngta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ
thật trungthành của nhân dân”.
Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói
điđôi với hành động và hiêu quả trên thực tế. Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và năng lực thống nhất làm
một.Trong đó; Đức là gốc của tài; hồng là gốc của chuyên; phẩm chất là gốc

củanăng lực. Tài là thể hiện cụ thể của đức trong hiêu quả hành động.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam , kết quả của sự vận động
sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lennin vào điều kiện cụ thể của nước ta , kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc , tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân
tộc ta , mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành
thắng lợi.” (Đại hội XI của Đảng).
2. Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
Sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao xa, ở
mứcsống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước hết là
ởnhững giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú,
bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu chi lý tưởng đó
trởthành hiện thực.Phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở thành lực lượng
quyết định vậnmệnh của lồi người khơng chỉ do chiến lược và sách lược thiên
tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho
chủ nghĩacộng sản trở thành một sức mạnh vô địch.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh tụ bàn nhiều nhất về vấn đề đạo đức,
nhưng người thực hành về đạo đức nhiều hơn những điều người đã nói và viết
về đạo đức. Trong nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và các nguyên tắc
xây dựng đạo đức mới người đã đưa ra một số mục tiêu: Thống nhất giữa đạo
3


đức và chính trị; Thống nhất tư tưởng và hành vi, động cơ và hiệu quả, lý luận
và thực tiễn; Thống nhất đức và tài; Thống nhất giữa đạo đức cách mạng và đạo
đức đời thường, giữa việc nhỏ và việc lớn.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân
tộc Việt Nam, đã được hình thành trong trường kỳ lịch sử, đồng thời kế thừa tư
tưởng đạo đức phương Đông, những tinh hoa đạo đức của nhân loại; đặc biệt

quan trọng là những tư tưởng đạo đức của Mác, Ăngghen, Lênin, cũng như
những tấm gương đạo đức trong sáng mà các ông đã để lại. Điều này đã được
thể hiện trong những dòng viết đầy xúc động của Người sau khi Lênin mất:
Lênin là người "đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại và
sự khiêm tốn cao độ". "Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi
khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị,
tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới
các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, khơng có gì
ngăn nổi". Đây khơng phải chỉ là tình cảm của Hồ Chí Minh và dân tộc Việt
Nam, mà còn là tình cảm của tất cả các dân tộc thuộc địa đối với Lênin vĩ đại.
Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái niệm, phạm
trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước, nhất là đạo đức Nho giáo. Nếu từ đó
lại cho rằng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức Nho giáo thì
hoàn toàn sai lầm. Những khái niệm, phạm trù đánh dấu những bậc thang nhận
thức của loài người. Qua các thời đại lịch sử, những khái niệm, phạm trù đã trở
thành tài sản chung của nhân loại, nhưng nội dung đã cớ nhiều thay đổi. Những
khái niệm như trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính ... đã có trong
Nho giáo từ mấy trăm năm trước Công nguyên; dân chủ, tự do. công bằng, bác
ái đã xuất hiện từ thời cổ đại Hy Lạp - La Mã. Nhưng trong hai thiên niên kỷ
vừa qua, các giai cấp, các dân tộc đã hiểu những khái niệm đó rất khác nhau,
thậm chí có những điểm trái ngược nhau. Điều đó là do những lợi ích khác nhau
của các giai cấp, các dân tộc khác nhau quy định.
4


Hồ Chí Minh sử đụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã từng
quen thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời đưa vào đó những nội dung mới,
đồng thời bổ sung những khái niệm, những phạm. trù đạo đức của thời đại mới.
Chính vì vậy mà những giá trị đạo đức mới đã hòa nhập với những giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc, làm cho mỗi người Việt Nam đều cảm thấy gần

gũi Hơn nữa, những giá trị đạo đức truyền thống lại được nâng lên tầm cao mới,
làm cho Người thực hiện được việc kết hợp truyền thống với hiện đại. Việc tiếp
thu những tinh hoa đạo đức của nhân loại đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở
nên phong phú, đã được đơng đảo những người nước ngồi chấp nhận, tìm thấy
một Việt Nam trong nhân loại, cũng như nhân loại trong Việt Nam. Sự kết hợp
giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại cũng là một đặc trưng
nởi bật của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn việt
Nam thực hiện một công việc kế thừa có chọn lọc, thâu hóa những giá trị đạo
đức của quá khứ, đề xuất những tư tưởng, đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu của
cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Người nhấn mạnh: có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được sự nghiệp
cách mạng vẻ vang. Sự nghiệp cách mạng của chúng ta là giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người, làm cho người Việt Nam từ nghèo
đói trở nên đủ ăn, từ đủ ăn trở nên khá, từ khá trở nên giàu và giàu thì lại càng
giàu thêm. Sự nghiệp đó rất cao cả và nhân văn, đòi hỏi phải có những phẩm
chất tương ứng.
Trên cơ sở đó, trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, người đã xây dựng những
chuẩn mực đạo đức cơ bản, phù hợp và luôn là kim chỉ nam, là nền tảng, là
thước đo cho người cách mạng nói riêng, cho mọi người nói chung.
II. Những phẩm chất đạo đức
1. Đạo đức cán bộ cách mạng:

5


Cuộc chiến đấu khổng lồ ấy lại diễn ra trong những điều kiện mới với
những biến rộng rất to lớn của nước ta và của thế giới. Đường lối đổi mới được
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng xác định và được các Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX phát triển là nhằm tìm ra mô hình xây dựng

chủ nghĩa xã hội của nước ta, tìm ra con đường đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã
hội với những hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp. Chúng ta chấp nhận kinh
tế thị trường, nhưng là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta
chủ trương hội nhập kinh tế thế giới, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, nhưng giữ vững độc lập tự chủ,
giữ vững chủ quyền và tòan vẹn lãnh thổ quốc gia, sẵn sàng làm bạn với tất cả
các nước, vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Trong khi đó, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ,
phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào cách mạng thế giới lâm vào thoái trào,
cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại và xu thế tồn cầu hóa vẫn đang bị
chủ nghĩa tư bản hiện đại chi phối. Đối với nước ta, có nhiều thời cơ và thách
thức, vận hội và nguy cơ đang đan xen nhau, đang tác động qua lại hết sức phức
tạp.
Nâng cao trí tuệ trong tình hình mới đòi hỏi Đảng và nhân dân ta tiếp tục
đổi mới tư duy, như Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra. Phải
hiểu cho đúng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, biết vận dụng
sáng tạo và phát triển học thuyết và tư tưởng của các ông, đặc biệt là những vấn
đề về chủ nghĩa xã hội vào những điều kiện lịch sử cụ thể hiện nay. Phải hiểu
cho đúng thực tiễn Việt Nam và thế giới, những xu thế lớn của thời đại khi nhân
loại bước vào thế kỷ XXI, những kiến thức về khoa học - kỹ thuật, công nghệ
hiện đại, và đặc biệt là về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn rất
mới mẻ đối với chúng ta.

6


Từ đó Đảng ta khơng ngừng hồn chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách
xây dựng và bảo vệ đất nước; cán bộ, đảng viên phải quán triệt và lãnh đạo nhân
dân biến những đường lối, chủ trương, chính sách ấy thành hiện thực.
Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, đòi hỏi Đảng và nhân dân ta quán

triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức,
vận dụng các nguyên tắc xây dụng đạo đức mà Người đã nêu ra: Tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa rất thời sự trong giai đoạn cách mạng hiện
nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao đạo đức của người cán bộ cách mạng.
Người cho rằng, cán bộ chỉ có giác ngộ chính trị chưa đủ, mà còn phải thấm
nhuần, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Người từng viết: “… Người cách mạng
phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng khơng lãnh đạo
được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người là
một cơng việc to tát mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình
hủ hóa, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì?”. Người coi đó là thuộc tính nhất qn
trong mọi hồn cảnh, bởi đã là cán bộ cách mạng thì phải có đạo đức cách mạng.
Người cán bộ chân chính phải biết giữ đạo đức cách mạng. Bởi vì, mọi việc
thành hay bại là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay khơng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa cá nhân là gốc của tình trạng suy thoái đạo đức
cách mạng, là căn bệnh nguy hiểm nhất phải tập trung chữa trị từ sớm. Người
căn dặn các cán bộ của Đảng phải tránh sa vào chủ nghĩa cá nhân, ví chủ nghĩa
cá nhân là một thứ “vi trùng rất độc”, nó là thứ “bệnh mẹ”, do nó mà sinh ra các
thứ “bệnh con”, các chứng bệnh nguy hiểm như: bệnh quan liêu, bệnh tham lam,
bệnh kiêu ngạo, bệnh lười biếng, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương…
Nghiên cứu di sản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ta thấy Người có những
lời dạy với những phẩm chất đạo đức cụ thể cho từng đối tượng. Người nêu cái
đúng, cái tốt, cái hay, đồng thời cũng chỉ ra cái sai, cái xấu, cái dở để giáo dục
đạo đức cho các tầng lớp nhân dân. Qua đó, Hồ Chí Minh đã nêu bật những
7


phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng của người cán bộ phải được
thường xuyên rèn dũa, giống như “ngọc càng mài càng sáng”, thể hiện rõ trong

công tác và trong sinh hoạt thường ngày.. Đây cũng là những phẩm chất của nền
đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt Nam. Các phẩm chất đạo đức cách mạng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh là:
- Trung với nước, hiếu với dân
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
- u thương q trọng con người, sống có tình có nghĩa
- Chủ nghĩa quốc tế trong sáng, thủy chung
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách
mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh
tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Những quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo
đức là những quan điểm thực sự khoa học, biện chứng, Mác-xít; phù hợp với sự
tiến hố của xã hội lồi người. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn những quy tắc
đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, giai cấp tiên tiến nhất trong thời đại
ngày nay, với những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Bao
gồm:
a. Trung với nước hiếu với dân
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn vốn kinh tế. Trung với
nước, hiếu với dân, suốt đời hy sinh chất cách mạng để giành lấy độc lập và tự
do là nhằm xóa bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm noi
hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người. “Trung với nước, hiếu với dân”.
Theo đó, người cán bộ cách mạng phải thể hiện trung thành, tận tụy, cống hiến
vì lợi ích của Tở quốc; phải vì lợi ích của nhân dân, mưu cầu hạn phúc cho nhân
dân. Người khuyên cán bộ, đảng viên phải gắn bó với dân, thương dân, lấy trí
8


tuệ ở dân, học hỏi dân. Mỗi cán bộ, đảng viên phải xác định mình là công bộc
của dân: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải
hết sức tránh”. Trung với nước, hiếu với dân là hạt nhân cơ bản của tư tưởng

đạo đức Hồ Chí Minh, là tiêu chuẩn đạo đức quan trọng nhất đối với cán bộ,
đảng viên.
- Trung là trung với vua (Khổng Tử, Nho giáo). Kế thừa khái niệm trung
của Phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, Hồ Chí Minh đã nâng lên
tầm nội dung của khái niệm này, đó là “Trung với nước”. Đó được coi là phẩm
chất cao nhất của con người Việt Nam trong giai đoạn lịch sử mới. “Trung với
nước” là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng và giữ nước, trung thành với
con đường đi lên của đất nước, là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng.
- Hiếu là một phẩm chất đạo đức quan trọng được hình thành trong gia
đình ở mối quan hệ giữa cha mẹ - con cái, nêu lên nghĩa vụ của con cái đối với
cha mẹ. Khổng tử có cặp mệnh đề: “Phụ tử- tử hiếu” cũng nói lên mối quan hệ
hai chiều giữa cha và con. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển lên một khái
niệm mới đó là “Hiếu với dân” – Không những hiếu với cha mẹ mà còn có hiếu
với toàn dân tộc. Hiếu với dân được thể hiện ở sự thương dân, tin vào dân và
phục vụ nhân dân hết lòng. Vì vậy phải gần gũi với nhân dân, tôn trọng nhân
dân và lấy dân làm gốc. Hồ Chí Minh đã yêu cầu các cán bộ lãnh đạo phải nắm
vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, dân
trí.
Hồ Chí Minh cho rằng trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước
là nước của dân, còn dân là chủ nhân của nước; bao nhiêu quyền hành và lực
lượng đều ở trong tay nhân dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là đầy tớ
của dân chứ không phải là “quan cách mạng”.
Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do
của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội...” là chuẩn mực đạo đức bao trùm của con
người Việt Nnam, là định hướng chính trị - đạo đức lớn nhất cho mỗi người, là

9


khát vọng vươn lên tự hoàn thiện mình của tất cả chúng ta theo ngọn cờ tư tưởng

đạo đức Hồ Chí Minh.
Đây là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất và chi phối các phẩm
chất khác. Trung, hiếu là những khái niệm đạo đức trong xã hội phong kiến
phương Đông. Trên cơ sở kế thừa, phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam, khắc phục, vượt qua những hạn chế của truyền thống đó, Hồ Chí
Minh khẳng định trung với nước, hiếu với dân là một trong những phẩm chất
của đạo đức cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh không gạt bỏ từ ngữ “trung, hiếu” đã ăn sâu, bám rễ trong con
người Việt Nam với một ý nghĩa trách nhiệm, bổn phận của người dân, người
con. Với khái niệm cũ, Người đưa vào đây một nội dung mới, cách mạng, phản
ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn, không phải trung với vua và chỉ có hiếu với
cha mẹ, mà “trung với nước, hiếu với dân”.
Đây là cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Người gạt bỏ điều cốt lõi
nhất trong đạo đức Nho giáo là lòng trung thành tuyệt đối với chế độ phong kiến
và ông vua phong kiến. Cái mà Nho giáo tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng
lên án và đánh đở. Hồ Chí Minh khơng thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối
của nhân dân bị áp bức với kẻ áp bức mình, “Trung với nước” thể hiện mối quan
hệ giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội; thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng
nước và giữ nước, với con đường đi lên của đất nước. Nước ở đây là nước của
dân và dân là chủ nhân của nước.
Từ chỗ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” chuyển thành “trung với nước, hiếu
với dân” là một sự đảo lộn trong quan niệm đạo đức truyền thống. Hồ Chí Minh
đã viết: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo
đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” .
Nhân dân từ chỗ là kẻ nghèo hèn, phải được chăn dắt, sai khiến trở thành lực
lượng làm nên lịch sử, sáng tạo ra lịch sử. Trước, quan là phụ mẫu của dân, thì
10


nay - Đảng, cán bộ, đảng viên là “đầy tớ trung thành của nhân dân”. Theo Hồ

Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân là phải suốt đời đấu tranh cho cách
mạng, ra sức làm việc, giữ vững kỷ luật, thực hiện tốt đường lối, chính sách của
Đảng. Hồ Chí Minh dạy rằng, hiếu với dân thì phải hoà mình với quần chúng
thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần
chúng, làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết quần chúng chặt chẽ xung
quanh Đảng, tổ chức tuyên truyền và động viên quần chúng hăng hái thực hiện
chính sách và nghị quyết của Đảng; phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân
chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Đảng, Nhà nước hoạt động phải gần dân, thân
dân, lấy trí tuệ ở dân, học hỏi dân, phải biết làm học trò dân mới làm được thầy
học của dân. Chỉ có thực hiện được như thế thì người cách mạng mới được dân
tin yêu, cách mạng mới đi đến thành công.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Phẩm chất này gắn bó chặt chẽ với phẩm chất “trung với nước, hiếu với
dân”. Việc thực hiện phẩm chất này, đặt ra đối với tất cả mọi người, đòi hỏi mỗi
người phải lấy bản thân mình làm đối tượng điều chỉnh. Nó diễn ra hàng ngày,
hàng giờ, trong công tác, sinh hoạt. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là
những khái niệm đạo đức phương Đông, đạo đức truyền thống Việt Nam, được
Hồ Chí Minh tiếp thu chọn lọc, đưa vào những yêu cầu và nội dung mới. Người
khẳng định: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng
khơng bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho
chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương
cho nhân dân theo để lợi cho nước, cho dân” .
Tháng 6-1949, với bút danh Lê Quyết Thắng, Hồ Chí Minh viết tác phẩm
Cần, kiệm, liêm, chính. Sau đó, Người thường xuyên đề cập tới các phạm trù
đạo đức này.
Hồ Chí Minh khơng chỉ giải thích nghĩa của cần, kiệm, liêm, chính mà
Người còn nêu lên mối quan hệ giữa bốn phẩm chất đó: “Cần, Kiệm, Liêm, là
gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả
11



mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới
là người hồn tồn” . So sánh với bốn mùa của trời, bốn phương của đất, Người
cho rằng: “Thiếu một mùa thì không thành trời. Thiếu một phương thì không
thành đất, thiếu một đức, thì không thành người”.
Theo Hồ Chí Minh thì:
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không
ỷ lại. không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn
sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của
dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái
nhỏ cộng lại thành cái to: "không xa xỉ, không hoang phí, khơng bừa bãi" 6 ,
khơng phơ trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch,
không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung
sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại,
khơng bao giờ hủ hóa.
Người đã chỉ ra những hành vi trái với chữ liêm, như: "cậy quyền thế mà đục
khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của cơng làm của tư..."; "Dìm người giỏi, để
giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm); “Gặp việc phải, mà
sợ khó nhọc nguy hiểm, khơng dám làm, là tham vật úy lạo. Gặp giặc mà rút ra,
khơng dám đánh là tham sinh úy tử" .
Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn.
Đối với mình - không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn
tự kiểm điểm để phát triển điều này, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
12



Đối với người dưới - không nịnh hót người trên, không xem khinh người
dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết thật thà; khơng dối trá,
lừa lọc.
Đối với việc - để công việc lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ
trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó
khăn, nguy hiểm: việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy
cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước, cho dân.
Về Chí cơng vơ tư , Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với
người, với việc", "Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi
hưởng thụ thì mình nên đi sau"; "phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ" (tiên
thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc).
Đối lập với "chí cơng vơ tư" là "dĩ cơng vi tư" đó là điều mà đạo đức mới
đòi hỏi phải chống lại.
Chí cơng vơ tư, về thực chất là nối tiếp Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người giải
thích:
"Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đồn thể, cấp cao thì quyền to,
cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là
có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ cơng vi tư".
Các phẩm chất trên có quan hệ mật thiết giữa với nhau. Cần, kiệm, liêm,
chính tốt sẽ dẫn tới chí cơng vơ tư, và chí cơng vơ tư, một lòng vì dân, vì nước
nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính. Người yêu cầu mọi người
dân Việt Nam đều phải rè luyện, tu dưỡng theo tác phẩm chất trên, trong đó đặc
biệt là cán bộ, đảng viên có chức, có quyền: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan,
các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có
quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét,có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ cơng
vi tư”.
Cần, kiệm, liêm, chính đối với cán bộ đảng viên lại càng cần thiết, bởi vì:
“Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ.
13



Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của
đút” . Theo Hồ Chí Minh, càng có chức, có quyền càng cần phải cần kiệm, liêm,
chính. Người viết: “Những người trong các cơng sở đều có nhiều hoặc ít quyền
hành. Nếu khơng giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến
thành sâu mọt của dân” .
Hồ Chí Minh chỉ ra “chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo
quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một thứ vi trùng rất độc, đẻ
ra hàng trăm thứ bệnh: tham ơ, hủ hố, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi,
thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần
chúng, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu mệnh lệnh, v.v...”. Tóm lại, chủ nghĩa
cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ
dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu đậy. Nó là một kẻ địch,
bạn đồng minh của các kẻ địch khác.
Vì vậy, đạo đức cách mạng là vơ ḷn trong hồn cảnh nào, cũng phải
quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch. “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn
cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội
không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.
Tuy nhiên, cần có nhận thức về sự thống nhất giữa lợi ích chung và lợi ích
riêng, cần phân biệt giữa chủ nghĩa cá nhân và lợi ích cá nhân. Chủ nghĩa cá
nhân là việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo
“mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”, chỉ “lo mình béo mặc
thiên hạ gầy”. Như thế là phải “tiêu diệt”, “quét sạch”, “trừ bỏ”. Theo Hồ Chí
Minh, “đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá
nhân”. “Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của
bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó khơng trái với lợi
ích của tập thể thì khơng phải là xấu. Hồ Chí Minh khẳng định: “chỉ ở trong chế
14



độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng
của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình”.
Chủ nghĩa cá nhân còn là mối nguy hại cho một Đảng, cho cả dân tộc: “Một
dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn
lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” . Người
giải thích cho cán bộ làm sách “Người tốt việc tốt”: “Các chú có biết rằng dân
tộc ta vĩ đại, Đảng ta vĩ đại, ta được anh em bầu bạn khắp năm châu yêu mến và
ca ngợi là vì cái gì không? Vì cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
ta do Đảng ta lãnh đạo là chí cơng vơ tư, mình vì mọi người. Từ nay về sau,
nhân dân ta và Đảng ta phải giữ gìn và phát huy mãi mãi đạo đức trong sáng
ấy”.
c. u thương con người, sống có tình có nghĩa
Yêu thương con người được Hồ Chí Minh xác định là một trong những
phẩm chất tốt đẹp nhất. Người nói, người cách mạng là người giàu tình cảm, có
tình cảm cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu
thương con người mà chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập, tự do,
cơm áo ấm no và hạnh phúc cho con người.
Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là từ thực tiễn
cách mạng, từ cuộc sống của các dân tộc bị áp bức và giai cấp cần lao, Hồ Chí
Minh cho rằng, trên đời này có hàng mn triệu người, hàng trăm nghìn công
việc nhưng có thể chia thành hai hạng người: người Thiện và người Ác, và hai
thứ việc: việc Chính và việc Tà. Có lúc Người khái quát hai hạng người đó là
hạng người đi áp bức bóc lột và hạng người bị áp bức bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ
rõ: làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác. Cần phải thực hành
chữ Bác ái. Khi trả lời các nhà báo, Người nói: Tôi yêu nhất điều thiện và ghét
nhất điều ác.
15



Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất tồn diện và độc đáo. Con
người khơng phải thần thánh, có tốt có xấu ở trong lòng. Dù văn minh hay dã
man, tốt hay xấu, đều có tình. Chúng ta cần làm cho trong mỗi con người phần
tốt nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi.
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân
đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, cùng
với việc thể nghiệm của chính bản thân mình qua hoạt động cách mạng thực
tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu thương đó là tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người
cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Tình yêu thương đó đã được
thể hiện ở Hồ Chí Minh bằng ham muốn tột bậc là làm cho nước được độc lập,
dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Nếu không có tình yêu thương con người như vậy thì không thể nói đến cách
mạng, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tình yêu
thương con người còn được thế hiện trong mối quan hệ bạn bè, đồng chí, với
mọi người bình thường trong quan hệ hàng ngày. Nó đòi hỏi mọi người phải
luôn luôn chặt chẽ nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với người khác. Nó
đòi hỏi thái độ tôn trọng con người, phải biết cách nâng con người lên, chứ
không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người. Điều này đặc biệt quan
trọng đối với những người ở cương vị lãnh đạo, bất cứ ở cấp nào.
Trong Di chúc , Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau. Đây chính là điều nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn luôn chú ý đến
phẩm chất yêu thương con người. Đây là tình thương yêu trẽn nguyên tắc tự phê
bình và phê bình một cách chân thành, nghiêm túc giữa những người cùng lý
tưởng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp chung. Nó hoàn toàn xa lạ với thái độ
dĩ hòa vi quý bao che sai lầm khuyết điểm cho nhau, càng xa lạ với thái độ yêu
nên tốt, ghét nên xấu, bè cánh có thể đưa đến những tổn thất lớn cho Đảng, cho
cách mạng.
16



- Yêu thương con người được Hồ Chí Minh xác định là một trong những
phẩm chất cao đẹp nhất.
- Tình yêu thương đó là một tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những
người nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị áp bức, bị bóc lột
không phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng, nếu như không có tình yêu
thương như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hồn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".
Người cho rằng, nếu không có tình yêu thương như vậy thì không thể nói đến
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
- Tình yêu thương con người còn phải được xây dựng trên lập trường giai
cấp công nhân, thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày với bạn bè, đồng chí, anh
em. Đòi hỏi mỗi người phải chặt chẽ, nghiêm khắc với chính bản thân mình,
đồng thời phải rộng rãi, độ lượng và giàu lòng vị tha với người khác, có thái độ
tôn trọng những quyền của con người, nâng con người lên, kể cả có sai lầm
khuyết điểm.
+ Phải chặt chẽ và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng với người
khác.
+ Thái độ tôn trọng những quyền của con người, nâng con người lên, kể
cảnhững người nhất thời lầm lạc, chứ khơng phải là thái độ dĩ hồ vi
quý,không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người.
Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi
con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong
mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái
độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người
phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho
cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập

cho tơi bời". Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: “Phải có tình đồng chí
17



×