Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Đề cương ôn tập những nguyên lý cơ bản của maclenin p2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.63 KB, 85 trang )

Đề cương ôn thi hết môn
Môn Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin 2

Câu 1. Sản xuất hàng hóa và điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa.
1.1. Khái niệm.
Sản xuất hàng hố là kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó sản phẩm làm ra không
phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người sản xuất ra mà là để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi mua bán.
1.2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa.
– Phân cơng lao động xã hội:
+ Là sự phân chia lao động xã hội ra các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất khác nhau tạo
nên sự chuyên môn hố lao động và theo đó là chun mơn hố sản xuất thành những
ngành nghề khác nhau.
+ Do sự phân công lao động mà mỗi người tạo ra những hàng hoá khác nhau trong khi
nhu cầu xã hội cần nhiều thứ nên tất yếu dẫn đến trao đổi, mua bán hàng hố để thỗ
mãn nhu cầu.
– Sự tách biệt tương đối về mặc kinh tế của những người sản xuất.
Do sự tách biệt, do quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm
lao động dẫn đến sự tách biệt về kinh tế và lợi ích, làm cho lao động của người sản
xuất mang tính chất là lao dộng tư nhân. Do đó người này muốn tiêu dùng sản phẩm
của người khác phải thông qua trao đổi sản phẩm dưới hình thái hàng hố nhằm đảm
bảo sự ngang bằng về lợi ích cho mỗi bên.
Câu 2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa.
2.1. Đặc trưng.
– Thứ nhất, sản xuất hàng hóa nhằm mục đích trao đổi mua bán.

1


– Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính chất tư nhân,
vừa mang tính chất xã hội. Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là cơ


sở, là mầm mống của khủng hoảng kinh tế trong kinh tế hàng hóa.
– Thứ ba, mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận chứ không phải
là giá trị sử dụng.
2.2. Ưu thế của sản xuất hàng hóa.
– Sản xuất tự cung tự cấp là sản xuất khép kín nhằm thoã mãn nhu cầu của bản
thân người sản xuất. Do vậy nhu cầu chỉ dừng lại ở mức độ hạn hẹp. Trái lại sản xuất
thoã mãn nhu cầu tiêu dùng của thị trường, nhu cầu thị trường là động lực kích thích
sản xuất.
– Sản xuất tự cung tự cấp cản trở sự phát triển của phân công lao động xã hội,
sản xuất hàng hố thì ngược lại nó thúc đẩy sự phân cơng lao động, chun mơn hố
sản xuất tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng. (Xuất hiện nhiều
ngành nghề mới như vệ sĩ, dịch vụ nhà ở…).
– Sản xuất tự cung, tự cấp khơng chỉ có cạnh tranh, chủ yếu dựa vào nguồn lực
tự nhiên cịn sản xuất hàng hố đặt trong mơi trường cạnh tranh là động lực to lớn để
thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, sử dụng các nguồn lực sản xuất, tiết kiệm và có hiệu quả.
– Sản xuất tự cung tự cấp khả năng thoã mãn nhu cầu về vật chất, tinh thần
thấp kém, còn đối với sản xuất hàng hoá với quan hệ hàng hoá tiền tiện, quan hệ trao
đổi người sản xuất tiêu dùng làm cho giao lưu kinh tế giữa các địa phương trong nước
và quốc tế ngày càng phát triển.
Câu 3. Hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hóa.
3.1. Khái niệm hàng hóa.
Là một sản phẩm của lao động, nó có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó cua con
người thơng qua trao đổi, mua bán.
3.2. Hai thuộc tính của hàng hóa.
Giá trị sử dụng: Hay cịn được gọi là cơng dụng của hàng hóa là thuộc tính
của nó mà thỏa mãn, phục vụ được nhu cầu nào đó của con người, do thuộc tính tự
nhiên quy định nên đây là một phạm trù vĩnh viễn. 

2



Giá trị của hàng hóa là mức lao động hao phí khi sản xuất ra hàng hóa đó hay
lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa, do thuộc tính xã hội quy
định nên đây là phạm trù lịch sử; giá trị của hàng hóa gắn liền với giá trị trao đổi.
Câu 4. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa.
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Hai thuộc tính đó do
tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa quyết định. Chính tính hai mặt của
lao động sản xuất hàng hoá quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hố.
C. Mác là người đầu tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản
xuất hàng hố. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Đây không phải là hai
thứ lao động khác nhau mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hoá, nhưng lao
động đó mang tính hai mặt: Vừa là lao động cụ thể, vừa là lao động trừu tượng.
4.1. Lao động cụ thể.
- Khái niệm: Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những
nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng
riêng, phương tiện riêng, phương pháp riêng, và kết quả riêng.
Ví dụ: Lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích là sản xuất cái bàn, cái
ghế, đối tượng lao động là gỗ, phương pháp của anh ta là các thao tác về cưa, về bào,
khoan, đục; phương tiện được sử dụng là cái cưa, cái đục, cái bào, cái khoan; kết quả
lao động là tạo ra cái bàn, cái ghế.
- Đặc trưng của lao động cụ thể:
+ Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ
thể càng nhiều loại thì càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau.
+ Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng với
sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa
dạng, phong phú, nó phản ánh trình độ phát triển của phân công lao động xã hội.
+ Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Giá trị sử dụng là phạm
trù vĩnh viễn, vì vậy lao động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền vối vật
phẩm, nó là một điều kiện khơng thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế – xã hội nào.


3


+ Các hình thức phong phú và đa dạng của lao động cụ thể phụ thuộc vào trình
độ phát triển và sự áp dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất, đồng thời cũng là tấm
gương phản chiếu trình độ phát triển kinh tế và khoa học – công nghệ ở mỗi thời đại.
+ Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng do nó
sản giờ cũng do hai nhân tố hợp thành: Vật chất và lao động. Lao động cụ thể của con
người chỉ thay đổi hình thức tồn tại của các vật chất, làm cho nó thích hợp với nhu cầu
của con người.
4.2. Lao động trừu tượng.
- Khái niệm: Lao động của người sản xuất hàng hố, nếu coi đó là sự hao phí óc, sức
thần kinh của sức cơ bắp nói chung của con người, chứ khơng kể đến hình thức cụ thể
của nó như thế nào, thì gọi là lao động trừu tượng.
Ví dụ: Lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may, nếu xét về
mặt lao động cụ thể thì hồn tồn khác nhau, nhưng nếu gạt bỏ tất cả những sự khác
nhau ấy sang một bên thì chúng chỉ cịn có một cái chung, đều phải hao phí sức óc, sức
bắp thịt và sức thần kinh của con người.
- Đặc trưng của lao động trừu tượng:
+ Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa, làm cơ sở cho sự ngang bằng
trao đổi.
+ Giá trị của hàng hóa là một phạm trù lịch sử, do đó lao động trừu tượng tạo
ra giá trị hàng hóa cũng là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng
hóa.
Chú ý: Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có quan hệ với tính
chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa. Tính chất tư nhân và
tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa có mâu thuẫn với nhau, đó là mâu
thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa giản đơn biểu hiện ở chỗ sản phẩm của người sản
xuất hàng hóa riêng biệt có thể khơng ăn khớp hoặc không phù hợp với nhu cầu của xã
hội hoặc hao phí lao động cá biệt của ngưịi sản xuất hàng hố có thể cao hơn hay thấp

hơn hao phí lao động mà xã hội có thể chấp nhận. Chính vì những mâu thuẫn đó mà
sản xuất hàng hố vừa vận động phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng
―sản xuất thừa‖.
4


Câu 5. Lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của
hàng hóa. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lượng giá trị hàng hóa? Đối với nước ta
hiện nay cần làm gì để giảm giá trị cá biệt của hàng hóa.
5.1. Khái niệm.
Giá trị hàng hóa được xét về 2 mặt là chất và lượng. Chất giá trị hàng hóa là do
lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hóa. Vậy, lượng giá trị hàng hóa do lượng lao
động hao phí đế sản xuất ra hàng hóa đó quyết định và được đo bằng thời gian lao
động xã hội cần thiết (là thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hóa trong điều kiện
bình thường của xã hội, tức là với 1 trình độ kỹ thuật, trình độ khéo léo, cường độ lao
động trung bình và hồn cảnh xã hội nhất định).
5.2. Các nhân tố ảnh hưởng.
Thứ nhất, năng suất lao động:
- Là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số sản phẩm sản xuất
trong 1 đơn vị thời gian hoặc thời gian cần thiết để sản xuất ra một sản phẩm.
- Có 2 loại năng suất lao động là năng suất lao động cá biệt và năng suất lao
động xã hội (ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa).
- Lượng giá trị của 1 đơn vị hàng hóa tỉ lệ thuận với số lao động kết tinh và tỉ
lệ nghịch với năng suất lao động xã hội (Năng suất lao động xã hội càng tăng => thời
gian lao động xã hội cần thiết càng giảm => lượng giá trị cũng giảm).
- Năng suất lao động tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: Trình độ khéo léo của tay
nghề, sựphát triển của khoa học – kỹ thuật và trình độ ứng dụng những thành tựu
khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, hiểu quả của tư liệu sản xuất,…).
- Lao động giản đơn là sự hao phí lao động 1 cách đơn giản mà bất kỳ ai có
khả năng lao động cũng có thể thực hiện được.

- Lao động phức tạp là loại lao động cần phải thông qua quá trình đào tạo, huấn
luyện thành lao động lành nghề.
Chính vì vậy, cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau thì lao động phức
tạp sẽ tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.
5.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lượng giá trị hàng hóa.
5


Việc nghiên cứu lượng giá trị hàng hóa là rất cần thiết. Trước hết, nghiên cứu
lượng giá trị hàng hóa đã xác định được giá cả của hàng hóa đã làm ra. Bởi vì khi
nghiên cứu lượng giá trị hàng hóa cho biết: ―Thời gian lao động xã hội cần thiết giản
đơn trung bình để sản xuất ra một hàng hóa là thước đo lượng giá trị hàng hóa và từ
đó xác định được giả cả của hàng hóa nào cao hơn của hàng hóa nào‖.
Thứ hai, nghiên cứu lượng giá trị hàng hóa tìm ra được các nhân tố tác động
đến nó, từ đó tìm ra cách để làm giảm giá cả sản xuất như: Tăng năng suất lao động,
đầu tư vào khoa học kỹ thuật hiện đại, đầu tư đào tạo giáo dục chất xám… mà vẫn giữ
nguyên hoặc làm tăng thêm giá trị để tiến tới cạnh tranh trên thị trường, đây chính là
điều mà các nhà làm kinh tế luôn hướng tới nhằm đạt được lợi nhuận siêu ngạch.
Thứ ba, bởi vì lao động phức tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với lao động
giản đơn trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau. Vì thế các nhà làm kinh
tế cần phải chú trọng đầu tư vào những ngành lao động phức tạp đòi hỏi nhiều chất
xám. Muốn làm được điều này thì phải nâng cao trình độ cơng nhân, nâng cao tay nghề
và áp dụng những biện pháp tiên tiến.
5.4. Giảm giá trị cá biệt của hàng hóa.
Đối với Việt Nam, đi lên từ một nước nông nghiệp, với những tập quán canh
tác nhỏ lẻ lạc hậu, lại chịu nhiều thiệt hại cảu chiến tranh nên gặp rất nhiều khó khăn
trong quá trình xây dựng và phát triển. Từ năm 1986, Đảng và nhà nước đã quyết định
chính sách đổi mới đất nước và đạt được nhiều thành tựu. Bên cạnh đó vẫn cịn nhều
khó khăn trong q trình phát triển đặc biệt là lao động lành nghề, sản xuất với cơng
nghệ đơn giản nên lượng giá trị hàng hóa cao mà giá trị sử dụng lại thấp, không đáp

ứng được nhu cầu trong nước cũng như ngồi nước. Ví dụ như: Gạo ở Việt Nam sản
xuất với thời gian lao động xã hội cần thiết lớn, nhiều nhân lực, nhưng chất lượng gạo
lại không cao, bán với giá thấp trên thị trường thế giới. Từ đó đặt ra một yêu cầu làm
thế nào để làm giảm lượng giá trị mà vẫn giữ nguyên hoặc tăng thêm giá trị của hàng
hóa.
Để giảm lượng giá trị hàng hóa thì nước ta cần phải chú trọng đầu tư phát triển
những ngành lao động tri thức, nâng cao năng suất lao động bằng cách áp dụng nhiều

6


công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại; đầu tư đào tạo đội ngũ lao động có trình độ tay
nghề cao, tiến tới xây dựng một nền kinh tế tri thức.
Đồng thời với việc xây dựng và phát triển kinh tế nhà nước cần kiên quyết đẩy
lùi những tệ nạn tham ơ tham nhũng; cải cách hành chính thật hiệu quả minh bạch; hạn
chế những thủ tục rườm rà trong quản lý kinh tế; đồng thời đưa ra các biện pháp kích
thích kinh tế, khuyến khích đầu tư các ngành kinh tế mũi nhọn, công nghệ cao.
Câu 6. Lịch sử ra đời và phát triển của các hình thái giá trị.
Sự phát triển các hình thái giá trị trong nền kinh tế hàng hố được biểu hiện
thơng qua 4 hình thái cụ thể:
6.1. Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên.
Đây là hình thái phơi thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao
đổi hàng hố, khi trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật
này lấy vật khác.
Ví dụ: 1m vải= 10kg thóc.
- Tuy là hình thái đơn giản nhưng bản thân nó lại khơng đơn giản, lại bao gồm hai hình
thái: Hình thái tương đối và hình thái ngang giá. Hai hình thái này là hai mặt liên quan
với nhau, không thể tách rời nhau đồng thời là hai cực đối lập của một phương trình
giá trị. Trong hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên thì tỉ lệ trao đổi chưa cố định.
- Hình thái giản đơn, giá trị của một hàng hóa chỉ được phát hiện ở một hàng hố nhất

định khác với nó, chứ khơng biểu hiện ở một hàng hố khác.
6.2. Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng.
- Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất,
chăn nuôi tách khỏi trồng trọt trao đổi trở lên thường xuyên hơn, một hàng hoá này có
thể quan hệ với nhiều hàng hố khác.
Ví dụ: 1m vải =10kg thóc hoặc 2 con gà, hoặc 0,1 chỉ vàng.
Đây là sự mở rộng hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên. Tuy nhiên đây
vẫn là trao đổi trực tiếp tỉ lệ trao đổi chưa cố định.
6.3. Hình thái chung của giá trị.
Với sự phát triển cao hơn nữa lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội, hàng hoá được đưa ra trao đổi thường xuyên đa dạng và nhiều hơn. Nhu cầu trao
7


đổi do đó trở nên phức tạp hơn, vì thế việc trao đổi trực tiếp khơng cịn thích hợp và
gây trở ngại cho trao đổi. Trong tình hình đó người ta phải đi con đường vịng, mang
hàng hố của mình đổi lấy thứ hàng hoá được nhiều người ưu huộng, rồi đem hàng hố
đổi lấy thứ hàng hố mà mình cần khi vật trung gian trong đó trao đổi được cố định lại
thì ở thứ hàng hố được nhiều người ưu chuộng thì hình thái chung của giá trị xuất
hiện.
Ví dụ: 10 kg thóc hoặc 1 con gà, hoặc 0,1 chỉ vàng = 1 m vải.
6.4. Hình thái tiền tệ.
Khi lực lượng và phân công lao đông xã hội phát triển hơn nữa, sản xuất hàng
hoá và thị trường ngày càng mở rộng thì tình trạng có nhiểu vật ngang giá chung làm
cho: Trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó khăn, do đó dẫn đến địi hỏi khách
quan phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được
cố định lại ở một vật độc tơn và phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị.
Ví dụ: 10 kg thóc hoặc 1m vải hoặc 2 con gà = 1 chỉ vàng.
Tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá,
khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hố được phân thành hai cực: Một bên là các hàng

hố thơng thường, một bên là hàng hố đóng vai trị tiền tệ. Đến đây giá trị các hàng
hố đã có một phương tiện biểu hiện thống nhất, tỷ lệ trao đổ được cố định lại.
Câu 7. Định nghĩa tiền tệ. Phân tích bản chất của tiền. Tại sao nói tiền là hàng
hóa đặc biệt.
7.1. Định nghĩa tiền tệ.
Tiền là vật ngang giá chung có tính thanh tốn cao nhất dùng để trao đổi lấy
hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn bản thân và mang tính dễ thu nhận (nghĩa là mọi
người đều sẵn sàng chấp nhận sử dụng) và thường được Nhà nước phát hành bảo đảm
giá trị bởi các tài sản khác như vàng, kim loại quý, trái phiếu, ngoại tệ.
7.2. Bản chất của tiền tệ.
Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hoá, là sản phẩm của quá trình phát
triển sản xuất và trao đổi hàng hóa vậy tiền tệ là hàng hóa đặc biệt, được tách ra làm
vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và
biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.
8


7.3. Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt vì.
+ Tiền tệ cũng có hai thuộc tính: Giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của tiền tệ cũng do
thời gian lao động xã hội cần thiết sản xuất ra vàng (bạc) quyết định. Giá trị sử dụng
của tiền tệ làm môi giới trong mua bán và làm chức năng tư bản.
+ Là hàng hóa, tiền tệ cũng có người mua, người bán, cũng có giá cả (lợi tức). Giá cả
của hàng hóa tiên tệ cũng lên xuống xoay quanh quan hệ cung cầu.
+ Đóng vai trị làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa.
Câu 8. Phân tích năm chức năng cơ bản của tiền tệ.
1. Thước đó giá trị.
Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá. Muốn đo lường
giá trị của hàng hoá, bản thân tiền tệ cũng phải có giá trị. Vì vậy tiền tệ làm chức năng
thước đo giá trị phải là tiền vàng. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá
cả hàng hố. Hay giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá.

2. Phương tiện lưu thông.
Với chức năng làm phương tiện lưu thông tiền làm mơi giới trong q trình
trao đổi hàng hố. Để làm chức năng lưu thơng hàng hố địi hỏi phải có tiền mặt. Trao
đổi hàng hố lấy tiền làm mơi giới gọi là lưu thơng hàng hố.
3. Phương tiện cất trữ.
Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở
dĩ tiền làm được chức năng này là vì: Tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái
giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của của cải. Để làm chức năng phương
tiện cất trữ tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền, vàng, bạc.
4. Phương tiện thanh toán.
Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuể, trả tiền mua
chịu hàng. Đáp ứng kịp thời nhu cầu của người sản xuất hoặc tiêu dùng ngay cả khi họ
chưa có tiền hoặc khơng đủ tiền. Nhưng nó cũng làm cho khả năng khủng hoảng tăng
lên. Trong quá trình thực hiện chức năng thanh tốn, loại tiền mới – tín dụng xuất hiện,
có nghĩa là hình thức tiền tệ đã phát triển hơn.
5. Tiền tệ thế giới.

9


Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm chức năng tiền
tệ thế giới. Khi thực hiện chức năng này, tiền thực hiện các chức năng: Thước đo giá
trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh tốn, tín dụng, di chuyển của cải từ nước
này sang nước khác. Thực hiện chức năng này phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng
được cơng nhận là phương tiện thanh tốn quốc tế (Ví dụ: USD,...). Việc trao đổi tiền
của nước này sang tiền của nước khác tuân theo tỉ giá hổi đoái, tức là giá cả của một
đồng tiền nước này được tính bằng đồng tiền của nước khác.
Vì vậy, năm chức năng của tiền tệ trong nền kinh tế hàng hoá quan hệ mật thiết
với nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền tệ phản ánh phát triển của sản xuất và
lưu thơng hàng hố.

Câu 9. Phân tích nội dung và tác động của quy luật giá trị. Vận dụng ở Việt
Nam hiện nay.
9.1. Nội dung quy luật giá trị.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa, ở
đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó tồn tại và phát huy tác dụng của quy
luật giá trị.
Việc trao đổi và sản xuất hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội
cần thiết. Trong kinh tế hàng hóa, thì mỗi người tự quyết định hao phí lao động cá
biệt của mình, nhưng giá trị hàng hóa lại được quyết định bởi hao phí xã hội cần thiết
vì vậy để bù đắp được vốn và có lãi người sản xuất phải điều chỉnh sao cho hao phí
lao động cá biệt của mình phù hợp với chi phí mà xã hội chấp nhận được. Trao đổi thì
phải dựa theo nguyên tắc ngang giá chung.
Ngồi giá trị, thì giá cả hàng hóa cịn phụ thuộc vào các yếu tố như cạnh tranh,



cung cầu, sức mua của đồng tiền Tác động làm giá cả tách rời với trục giá trị và lên
xuống xoay quanh trục giá trị của nó.
9.2. Tác động của quy luật giá trị.
– Điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hóa.
+ Điều tiết sản xuất.
Điều tiết sản xuất có nghĩa là điều hịa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các
ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Sự điều tiết sản xuất của quy luật giá trị thông
10


qua sự biến động của giá cả thị trường do tác động trực tiếp của cung cầu. Điều này
thể hiện qua hai trường hợp sau:
+ Thứ nhất, nếu hàng hóa nào đó có cung nhỏ hơn cầu dẫn đến giá cả lớn hơn
giá trị, hàng hóa đó có khả năng bán chạy và thu lãi cao, những người sản xuất sẽ đầu

tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động để mở rộng quy mô sản xuất. Không những
thế, những người sản xuất đang hoạt động ở lĩnh vực khác cũng có thể chuyển qua
sản xuất mặt hàng này. Do đó, quy mơ ngành này càng được mở rộng.
+ Thứ hai, đối với những mặt hàng hóa có cung lớn hơn cầu kéo theo giá cả
thấp hơn giá trị, hàng hóa đó sẽ khơng bán được và người sản xuất sẽ phải thu hẹp
quy mơ, thậm chí đóng cửa xí nghiệp sản xuất mặt hàng này. Một số người sẽ khơng
sản xuất loại hàng hóa đó nữa mà chuyển sang sản xuất loại hàng hóa có lãi nhiều.
Kết quả là các yếu tố của sản xuất của ngành giảm đi do đã bị chuyển sang ngành sản
xuất khác.
+ Thứ ba, đối với hàng hóa mag cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị. Tuy
nhiên trường hợp này ít xảy ra.
► Vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao
động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng đầy đủ hơn, phù hợp hơn nhu cầu
của xã hội.
+ Điều tiết lưu thông.
Tác động điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua sự vận động
giá cả trên thị trường. Sự biến động giá cả trên thị trường có tác dụng thu hút luồng
hàng hóa từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, nơi có thể thu nhiều lãi. Qua đó, quy
luật giá trị có tác động điều tiết, phân phối các nguồn hàng hóa một cách hợp lý hơn
giữa các vùng, giữa cung và cầu đối với các loại hàng hóa trong xã hội. Trong kinh tế
thị trường hiện nay, ngoài vai trò điều tiết của thị trường, nhà nước cũng có tác động
mạnh mẽ đến điều tiết sản xuất, lưu thơng thơng qua các cơng cụ của kế hoạch.
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao động,
hạ giá thành sản phẩm.

11


+ Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất là một chủ thể độc lập, tự
quyết định hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Và mỗi người có điều kiện sản

xuất khác nhau nên mức hao phí lao động cá biệt của họ khác nhau, sản xuất mặt
hàng này. Tuy nhiên, trên thị trường, các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức
hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy, người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí
lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội sẽ thu được lãi và ngược lại.
Để dành được lợi thế trong cạnh tranh và tránh khỏi nguy cơ vỡ nợ, phá sản, các chủ
thể kinh tế phải luôn luôn phấn đấu hạ thấp giá trị cá biệt sao cho bằng hoặc thấp hơn
giá trị xã hội. Muốn vậy, người sản xuất phải:
+ Tìm cách cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ tay nghề, sử dụng các thành tựu
mới của khoa học, kỹ thuật vào sản xuất.
+ Cải tiến hiệu quả tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh, cải tiến các biện pháp
lưu thơng, bán hàng để tiết kiệm chi phí lưu thơng và tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng.
+ Thực hiện tiết kiệm chặt chẽ các yếu tố đầu vào nhằm nâng cao năng suất lao
động.
+ Cải tiến chất lượng, mẫu mã cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu
dùng.
Kết quả là năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, lực lượng sản xuất
không ngừng phát triển, chi phí sản xuất khơng ngừng giảm xuống.
- Phân hóa giàu nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa.
Q trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu sẽ dẫn đến kết quả là:
Những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ tay nghề cao, có kiến
thức, trang bị kỹ thuật tốt, có vốn nên hạ thấp được mức hao phí lao động cá biệt so
với hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm
thêm tư liệu sản xuất, thuê thêm lao động, mở rộng sản xuất kinh doanh và trở thành
ông chủ.
Ngược lại, những người khơng có điều kiện sản xuất thuận lợi, làm ăn kém cỏi
hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh sẽ có mức hao phí lao động cá biệt cao, khi bán
hàng sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, thậm chí phá sản và trở thành người làm thuê.

12



Tác động phân hóa giàu nghèo của quy luật giá trị cũng chính là một trong
những nguyên nhân, cơ chế làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra
đời của chủ nghĩa tư bản. Bởi vì nó đã tạo điều kiện tập trung một khối lượng tiền lớn
vào tay một số người và đồng thời cũng tạo ra lực lượng lao động làm thuê bán sức
lao động kiếm sống.
► Qua đây, ta có thể thấy quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động
tiêu cực. Một mặt, quy luật giá trị buộc các chủ thể kinh tế phải sàng lọc, lưu giữ các
yếu tố có tác dụng tích cực đến hiệu quả sản xuất, gạt bỏ những yếu tố lạc hậu. Mặt
khác, nó phân hóa xã hội thành giàu nghèo, gây ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
Vì lý do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, Nhà
nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực của quy luật giá trị. Cụ thể,
nhà nước có thể vận dụng quy luật giá trị trong điều tiết vĩ mô để thúc đẩy hoặc
khơng khuyến khích một số ngành sản xuất phát triển, bên cạnh đó là các chính sách
điều tiết, chính sách xã hội để hạn chế sự phân hóa trên. Đặc biệt, đối với Việt Nam,
trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa hiện nay, điều đó càng được thực hiện đúng mức.
9.3. Vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam.
Nhận thức và vận dụng quy luạt giá trị thể hiện chủ yếu trong việc hình thành
giá cả. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả phải lấy giá trị làm cơ sở thì
mới có căn cứ kinh tế, mới có tác dụng kích thích tăng năng suất lao động, cải tiến kỹ
thuật, hạ tầng thành sản phẩm. Nhà nước phải chủ động lợi dụng cơ chế hoạt hoạt
động của quy luật giá trị nghĩa là khả năng giá cả tách rời giá trị, và xu hướng đưa giá
cả trở về giá trị. Thông qua chính sách giá cả, Nhà nước vận dụng quy luật giá trị
nhằm:
Thứ nhất là kích thích sản xuất phát triển. Đối với xí nghiệp quốc doanh, chủ
yếu là xây dựng một hệ thống giá bán buôn để đưa chế độ hạch tốn kinh tế đi vào
nền nếp và có căn cứ vững chắc.
Thứ hai là điều hồ lưu thơng hàng tiêu dùng. Trong chế độ kinh tế thị trường,
tổng khối lượng và cơ cấu hàng tiêu dùng do kế hoạch lưu chuyển hàng hố quyết

định căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức tăng thu nhập quốc
13


dân, và thu nhập bằng tiền của nhân dân, nhu cầu về hàng tiêu dùng trong điều kiện
sức mua khong đổi, nếu giá cả một loại hàng nào đó giảm xuống thì lượng hàng tiêu
thụ sẽ tăng lên và ngược lại. Nhà nước có thể quy định giá cả cao hay thấp để ảnh
hưởng đến khối lượng tiêu thụ một số loại hàng nào đó nhằm làm cho nhu cầu và
mức tăng của sản xuất về một số hàng tiêu dùng ăn khớp với kế hoạch lưu chuyển
hàng hoá của Nhà nước.
Thứ ba là phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân thơng qua chính sách
giá cả, việc quy định hợp lý các tỷ giá, Nhà nước phân phối và phân phối lại thu nhập
quốc dân giữa các ngành nhằm phục vụ cho yêu cầu năng cao đời sống của nhân dân
lao động.
Cuối cùng, nhận thức và vận dụng quy luật giá trị nói rộng ra là biết sử dụng
các địn bẩy của kinh tế hàng hố như tiền lương, giá cả, lợi nhuận… dựa trên cơ sở
hao phí lao động xã hội cần thiết để tổ chức và thực hiện chế độ hạch tốn kinh tế.
Tóm lại, những điều trình bày trên đây nói lên trong kinh tế thị trường có sự
cần thiết khách quan phải kết hợp kế hoạch với thị trường, lấy cái sau bổ sung cho cái
trước. Q trình kết hợp đó cũng là một q trình phát huy tác dụng tích cực của quy
luật giá trị, là một quá trình tự giác vận dụng quy luật giá trị và quan hệ thị trường
như là một công cụ để xây dựng các mặt kinh tế, kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng
năng suất lao động, làm cho giá trị hàng hoá ngày càng hạ, đảm bảo tốt hơn cho nhu
cầu đời sống, đồng thời tăng thêm khối lượng tích luỹ.
Đi đơi với việc phát huy tác dụng tích cực của quy luật giá trị phải đồng thời
ngăn chặn những ảnh hưởng những tiêu cực của nó đối với việc quản lý kinh tế.
Câu 10. Chứng minh T – H – T’ là công thức chung của tư bản.
Mọi tư bản mới đầu đều biểu hiện dưới một số tiền nhất định nhưng tiền tệ chỉ
biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định. Nếu là tiền thơng thường thì hoạt
động theo phương thức hàng - tiền - hàng (H-T-H). Công thức này gọi là cơng thức

lưu thơng hàng hố giản đơn, cịn nếu tiền là tư bản thì vận động theo cơng thức tiền hàng - tiền (T-H-T). Công thức này gọi là cơng thức lưu thơng của tư bản. Mục đích
của lưu thơng hàng hố giản đơn là giá trị sử dụng. Vì vậy sự vận động sẽ kết thúc
khi những người trao đổi có được giá trị sử dụng mà anh ta cần đến. Trái lại, mục
14


đích sự vận động của tư bản khơng phải là giá trị sử dụng mà là giá trị. Hơn nữa là
giá trị tăng thêm vì vậy nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra thì sự vận động trở nên
vơ nghĩa. Vì vậy số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra. Do đó cơng thức vận động
đầy đủ của tư bản là T-H-T’ trong đó T’= T + t. Số dơi ra đó (t) Mác gọi là giá trị
thặng dư và số tiền ban đầu chuyển hoá thành tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại
giá trị thặng dư. Sự lớn lên của giá trị là khơng có giới hạn. Vì vậy sự vận động của
tư bản cũng khơng có giới hạn. Mác gọi công thức T-H-T’ là công thức chung của tư
bản vì mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thơng dưới dạng tổng quát đo dù là tư bản
thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay.
Câu 11. Tại sao nói “Tư bản khơng thể xuất hiện trong lưu thơng và cũng
khơng thể xuất hiện ở bên ngồi lưu thơng. Nó phải xuất hiện trong lưu thơng
và đồng thời không phải trong lưu thông”.
Công thức chung của tư bản: T - H - T' (T’ = T + ∆T). Vậy ∆T xuất hiện từ đâu?
- Trong lưu thông:
Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng khơng
tạo ra ∆T
+ Trường hợp trao đổi ngang giá: Chỉ là sự thay đổi của hình thái giá trị từ T-H
và từ H-T nhưng tổng giá trị và phần giá trị của mỗi bên tham gia trao đổi trước và
sau đều không thay đổi. Tuy nhiên, về giá trị sử dụng thì đơi bên đều có lợi.
+ Trường hợp trao đổi khơng ngang giá, có thể có ba trường hợp xảy ra:
Thứ nhất, Trong trường hợp nhà tư bản bán hàng hóa cao hơn giá trị, nhưng
đến lượt anh ta lại là người đi mua (vì khơng có ai chỉ bán mà khơng mua) thì phải
mua hàng hóa cao hơn giá trị ấy. Hành vi bán hàng hóa cao hơn giá trị khơng mạng
lại bất cứ chút thặng dư (∆T) nào.

Thứ hai, Trường hợp nhà tư bản cố mua hàng hóa thấp hơn giá trị cũng khơng
mang lại chút thặng dư (∆T) nào. Vì đến khi anh ta bán cũng buộc phải bán hàng hóa
thấp hơn giá trị.
Thứ ba, nếu xã hội có một số kẻ lừa gạt chun mua rẻ, bán đắt thì cái ∆T hắn
có là do chiếm đoạt của người khác mà có. Cái hắn được là cái người khác mất đi,
nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá trị của hàng hóa là không thay đổi.
15


Như vậy, trong lưu thông dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá đều
không tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản.
- Ngồi lưu thơng:
Nếu người trao đổi vẫn đứng 1 mình với hàng hóa của anh ta, thì giá trị của
hàng hóa ấy khơng hề tăng lên.
Nếu người sản xuất muốn sáng tạo thêm thặng dư thì phải bằng lao động của
chính mình. Chẳng hạn da thuộc phải trở thành giày da, ở đó giày da có giá trị lớn
hơn da thuộc vì nó đã thu hút nhiều lao động vào trong giày da. Còn giá trị của da
thuộc vẫn không đổi.
Vậy là "Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở
bên ngồi lưu thơng. Nó phải xuất hiện trong lưu thơng, đồng thời khơng phải trong
lưu thơng".
Đó chính là mâu thuẫn trong cơng thức chung của tư bản. Để giải quyết mâu
thuẫn đó, C.Mác đã chỉ rõ: "Phải lấy những quy luật nội tại của lưu thông hàng hố
làm cơ sở".
Câu 12. Hàng hóa sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng
hóa. Ý nghĩa của việc nghiên cứu hàng hóa sức lao động.
12.1. Khái niệm hàng hóa sức lao động.
Là tồn bộ thể lực, trí lực, nhân cách của con người trong hoạt động sản xuất
để tạo ra những vật có ích.
12.2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa.

Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng đều là điều kiện cần thiết để sản
xuất. Nhưng không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá. Sức lao động chỉ
biến thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định. Đó là:
Thứ nhất, người có sức lao động được tự do về thân thể, làm chủ về sức lao
động của mình. Việc biến sức lao động thành hàng hố địi hỏi phải thủ tiêu chế độ
chiếm hữu nơ lệ.
Thứ hai, mgười có sức lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, để duy trì
cuộc sống phải đi làm thuê để sống. Nếu người lao động được tự do thân thể và có tư

16


liệu sản xuất thì người lao động sẽ bán sản phẩm do mình làm ra chứ khơng phải sức
lao động.
Sự tồn tại đồng thời 2 điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng
hoá. Sức lao động biến thành hàng hoá báo hiệu một giai đoạn mới trong sự phát triển
xã hội - giai đoạn sản xuất hàng hố trở thành phổ biến, đó là sản xuất hàng hoá tư
bản chủ nghĩa. Hàng hoá sức lao động là nhân tố tách chủ nghĩa tư bản ra khỏi sản
xuất hàng hoá giản đơn. Như vậy, sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện
quyết định để chuyển hoá tiền tệ thành tư bản. Tuy nhiên để tiền tệ biến thành tư bản
thì lưu thơng hàng hố và lưu thông tiền tệ phải đạt tới mức độ nhất định.
12.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu hàng hóa sức lao động.
Việc nghiên cứu hàng hóa sức lao động có ý nghĩa quan trọng trong việc xây
dựng thị trường lao động ở Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sức lao
động là hàng hóa (khi có đủ các điều kiện trở thành hàng hóa) cho nên việc xây dựng
thịi trường sức lao động là tất yếu. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là vấn đề cốt lõi, trọng tâm. Nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta địi hỏi phải có sự phát triển đồng bộ các loại thị trường và Nghị
quyết Đại hội IX cũng đã nhấn mạnh pahỉ tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị
trường, thị trường lao động từ chỗ khơng tồn tại đã bắt đầu hình thành và phát triển.

Thị trường sức lao động là thị trường mà trong đó các dịch vụ lao động được
mua bán thơng qua một quá trình để xác định số lượng lao động được sử dụng cũng
như mức tiền công và tiền lương. Thị trường lao động là một trong những loại thị
trường cơ bản và có một vị trí đặc biệt trong hệ thống các thị trường của nền kinh tế.
Qúa trình hình thành và phát triển cũng như sự vận động của thị trường lao động có
những đặc điểm hết sức riêng biệt. Thị trường lao động cũng như các loại thị trường
khác tuân thủ theo những quy luật của thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá
trị và quy luật cạnh tranh. Điểm khác biệt lớn nhất ở đây là do tính chất đặc biệt của
hàng hóa ở sức lao động.
Hàng hóa sức lao động xuất hiện đánh dấu 1 bước ngoặt cách mạng trong
phương thức kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất, hình thành quan hệ sản xuất tư

17


bản chủ nghĩa, sản xuất hàng hoá lớn tư bản chủ nghĩa trở thành phổ biến dẫn đến
thời đại kinh tế mới xuất hiện năng lực sản xuất ngày càng cao.
Phạm trù hàng hóa sức lao động chính là điều kiện chuyển hóa tiền dẫn đến tư
bản và làm dáng tỏ mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản; đồng thời là cơ sở
kết hợp để C.Mác và Ăngghen xây dựng thành công học thuyết giá trị thặng dư trong
Chủ nghĩa tư bản.
Câu 13. Tại sao sức lao động là hàng hóa đặc biệt.
Sức lao động là hàng hố đặc biệt: Sức lao động phải là hàng hoá và giống
hàng hố thơng thường khác nhưng tính đặc biệt được thể hiện:
- Trong quan hệ mua bán:
+ Chỉ bán quyền sử dụng chứ khơng bán quyền sở hữu và có thời gian nhất
định.
+ Mua bán chịu: Giá trị sử dụng thực hiện trước, giá trị thực hiện sau.
+ Chỉ có phía người bán là cơng nhân làm th, người mua là nhà tư bản.
+ Giá cả (tiền lương) luôn thấp hơn so với giá trị. Vì sức lao động phải bán

trong mọi điều kiện, mua bán trong mọi điều kiện để sinh sống.
- Hai thuộc tính của hàng hố sức lao động:
Giá trị hàng hoá sức lao động cũng giống như hàng hố thơng thường, lượng
giá trị sức lao động cũng được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
và tái sản xuất sức lao động. Nhưng khác hàng hố thơng thường vì sức lao động là
năng lực (khả năng) tồn tại trong cơ thể sống của con người, để tái sản xuất ra năng
lực đó người cơng nhân phải tiêu dùng một khối lượng sinh hoạt nhất định để thực
hiện nhu cầu tái tạo sức lao động. Như vậy lượng giá trị sức lao động được đo lường
gián tiếp bằng lượng giá trị sinh hoạt.
- Yếu tố cấu thành giá trị sức lao động:
+ Giá trị tư liệu sinh hoạt cho bản thân người công nhân.
+ Giá trị tư liệu sinh hoạt cho gia đình anh ta.
+ Chi phí đào tạo: Sự vận động của lượng giá trị sức lao động (tăng và giảm):
Nhân tố làm tăng là do chí phí đào tạo tăng, do đòi hỏi của cách mạng khoa học kỹ

18


thuật. Nhân tố làm giảm lượng giá trị sức lao động do giá trị tư liệu sinh hoạt giảm và
năng suất lao động của ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt tăng.
Giá trị sức lao động đặc biệt khác hàng hố thơng thường vì nó mang yếu tố
tinh thần và lịch sử. Con người sống trong những điều kiện kinh tế cụ thể ngồi nhu
cầu vật chất cịn có nhu cầu tinh thần.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng giống như hàng hố khác giá
trí sử dụng cũng được thể hiện khi tiêu dùng. Nhưng nó khác ở chỗ nhà tư bản tiêu
dùng sức lao động của công nhân và bắt công nhân lao động kết hợp với tư liệu sản
xuất để tạo ra hàng hoá. Trong q trình lao động đó người cơng nhân đã tạo ra một
giá trị mới (v + m ) trong đó có một bộ phận ngang bằng với giá trị sức lao động của
người công nhân nhà tư bản dùng để trả lương cho người cơng nhân đó (đó là v), cịn
một bộ phận dơi ra ngồi bộ phận sức lao động (m) nhà tư bản chiếm khơng. Như vậy

có thể nói rằng giá trị sức lao động khi nhà tư bản tiêu dùng nó tạo ra một giá trị mới
lớn hơn giá trị bản thân nó. Hay nói cách khác: Giá trị sử dụng đặc biệt của hàng hoá
sức lao động là nguồn gốc của giá trị và giá trị thặng dư.
Câu 14. Phân tích ví dụ về quá trình sản xuất giá trị thặng dư của nhà tư bản.
Giả định để sản xuất 10 kg sợi, cần 10 kg bông và giá 10 kg bông là 10$. Để
biến số bơng đó thành sợi, một cơng nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mịn máy
móc là 2$; giá trị sức lao động trong một ngày là 3$ và ngày lao động là 12 giờ; trong
một giờ lao động, người công nhân tạo ra một lượng giá trị là 0,5$; cuối cùng giả
định trong quá trình sản xuất, sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết.
Với giả định như vậy, nếu nhà tư bản chỉ bắt cơng nhân lao động trong 6 giờ,
thì nhà tư bản phải ứng ra là 15$ và giá trị của sản phẩm mới (10 kg sợi) mà nhà tư
bản thu được cũng là 15$. Như vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái điểm
đủ bù đắp lại giá trị sức lao động (6 giờ), tức là bằng thời gian lao động tất yếu, thì
chưa sản xuất ra giá trị thặng dư, do đó tiền chưa biến thành tư bản.
Trong thực tế quá trình lao động khơng dừng lại ở điểm đó. Giá trị sức lao
động mà nhà tư bản phải trả khi mua và giá trị mà sức lao động đó có thể tạo ra cho
nhà tư bản là hai đại lượng khác nhau, mà nhà tư bản đã tính đến trước khi mua sức

19


lao động. Nhà tư bản đã trả tiền mua sức lao động trong một ngày (12 giờ). Việc sử
dụng sức lao động trong ngày đó là thuộc quyền của nhà tư bản.
Nếu nhà tư bản bắt công nhân lao động 12 giờ trong ngày như đã thoả thuận
thì:
- Chi phí sản xuất Giá trị sản phẩm mới (20 kg
sợi) + Tiền mua bơng (20 kg): 20$
+ Tiền hao mịn máy móc: 4$
+ Tiền mua sức lao động trong một ngày: 3$
Tổng cộng: 27$

- Giá trị của bông được chuyển vào sợi: 20$
- Giá trị của máy móc được chuyển vào sợi: 4$
- Giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra trong 12 giờ lao động:
6$ Tổng cộng: 30$
Như vậy, tồn bộ chi phí sản xuất mà nhà tư bản bỏ ra là 27$, còn giá trị của
sản phẩm mới (20 kg sợi) do công nhân sản xuất ra trong 12 giờ lao động là 30$. Vậy
27$ ứng trước đã chuyển hoá thành 30$, đã đem lại một giá trị thặng dư là 3$. Do đó
tiền tệ ứng ra ban đầu đã chuyển hoá thành tư bản.
Câu 15. Giá trị thặng dư là gì? Tại sao nói sản xuất giá trị thặng dư là quy luật
kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.
15.1. Khái niệm giá trị thặng dư.
Là bộ phận của giá trị mới dôi ra ngồi giá trị sức lao động do cơng nhân làm
th tạo ra và bị tư bản chiếm không.
15.2. Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư
bản.
Mỗi phương thức sản xuất đều có 1 quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật kinh tế
phản ánh mối quan hệ bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Theo C.Mác, chế
tạo ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
Giá trị thặng dư là phần giá trị mới dơi ra ngồi giá trị sực lao động do công
nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ kinh tế bản
20



×