Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

BTL LỊCH SỬ ĐẢNG ĐHBK Đường lối kháng chiến chống thực dân pháp của đảng và giá trị đối với sự phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.11 KB, 42 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÀI TẬP LỚN MÔN HỌC
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI

ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
CỦA ĐẢNG VÀ GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
LỚP: TT01 - NHÓM: 09 - HK222
GVHD: TS-GVC Đào Thị Bích Hồng
SINH VIÊN THỰC HIỆN
STT

MSSV

HỌ

1

1951213

Nguyễn Cơng

Trí

2

2053548



Nguyễn Thanh

Trúc

3

1951219

Tạ Minh

Trung

4

1851122

Lê Quang

Vinh

Thành phố Hồ Chí Minh, 2023

TÊN


BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 09
STT


Họ và tên

MSSV

Nhiệm vụ

Kết quả

1.

Nguyễn Cơng Trí

1951213

Lý do chọn đề tài, Phần 1.1.

100%

2.

Nguyễn Thanh Trúc

2053548

Phần 2.2, Tiểu kết chương 2.

100%

3.


Tạ Minh Trung

1951219

Phần 2.1, Phần kết luận.

100%

4.

Lê Quang Vinh

1851122

Phần 1.2, Tiểu kết chương 1

100%

Chữ ký

NHÓM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Lý do chọn đề tài......................................................................................................1
Nhiệm vụ của đề tài..................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................3
Chương 1................................................................................................................... 3

QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT VỚI PHÁP
TRƯỚC KHI QUYẾT ĐỊNH PHÁT ĐỘNG KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (19/12/1946)......................................3
1.1.

Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám...............................3

1.1.1.

Bối cảnh thế giới......................................................................................3

1.1.2.

Bối cảnh trong nước................................................................................5

1.2. Những hành động hiếu chiến của thực dân Pháp và quá trình Đảng từng
bước giải quyết xung đột với Pháp..........................................................................8
1.2.1. Những hành động hiếu chiến của thực dân Pháp......................................8
1.2.2. Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Pháp.........................10
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1.........................................................................................13
Chương 2................................................................................................................. 14
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ....................14
GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM.........14
2.1. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp................................................14
2.1.1. So sánh lực lượng giữa Việt Nam và thực dân Pháp, yêu cầu đặt ra cần
giải quyết..............................................................................................................14
2.1.2. Nội dung đường lối kháng chiến...............................................................15
2.2. Giá trị đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.................................20
2.2.1. Khái quát một số kết quả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
Thành tựu............................................................................................................. 20

2.2.2. Giá trị đối với công cuộc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước hiện nay.......................................................................................................23
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2.........................................................................................32
PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................34
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................37


PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã để lại cho dân tộc
một niềm tự hào to lớn cùng với vô số những bài học kinh nghiệm quý báu. Chiến
thắng vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là thắng lợi của ý chí “…
Chúng ta muốn hịa bình, chúng ta phải nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
khơng chịu làm nơ lệ …” 1, ý chí đó đã giúp Đảng, Chính phủ vững vàng lèo lái con
thuyền cách mạng đi đến thành công. Lời kêu gọi đó cách đây 70 năm được xem là
một lời hịch non sơng-lời hiệu triệu lịch sử, một văn kiện có tính chất như một cương
lĩnh chính trị, qn sự có giá trị sâu sắc. Thắng lợi ấy đã khẳng định tầm vóc to lớn của
Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến và thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng ta đứng
đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhân dân ta đã bảo vệ và phát triển thành quả của
Cách mạng Tháng Tám, giải phóng hồn tồn miền Bắc. Qua chiến tranh, lực lượng vũ
trang nói chung, Quân đội nhân dân, Cơng an nhân dân nói riêng được tơi luyện,
trưởng thành và phát triển mạnh mẽ.
Để đạt được kết quả này, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã dổ rất nhiều mồ
hôi, xương máu và nước mắt. Và một trong những yếu tố quan trọng không thể thiếu
được để ta đạt thắng lợi trong các cuộc đấu tranh đó là nhờ ở đường lối lạnh đạo đúng
đắn và sáng suốt của nhà lãnh đạo. Nhìn ngược dịng lịch sử về với Việt Nam những
năm kháng chiến chống Pháp, ta sẽ thấy rõ hơn về vai trò của việc đề ra một đường lối
kháng chiến đúng đắn.

Ngày nay, nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
không ngồi mục đích nêu cao niềm tự hào của dân tộc Việt nam anh hùng, của một
Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh. Mặt khác giúp chung ta rút ra những kinh
nghiệm, những bài học có giá trị lớn nhất là: Phát huy sức mạnh tổng hợp trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Hiện nay, thế giới đang trải qua một thời kỳ với nhiều biến động phức tạp với
tốc độ cao. Xung đột dân tộc, tôn giáo, khủng bố quốc tế, chiến tranh cục bộ, chiến
tranh kinh tế, chiến tranh mạng, các hoạt động can thiệp, lật đổ, bất tuân dân sự, tranh
chấp chủ quyền, lãnh thổ, tài nguyên… diễn ra dưới những hình thức mới, gay gắt
hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu
tranh kiềm chế lẫn nhau quyết liệt, giành vị thế và lợi ích gây ra tình hình phức tạp tại
nhiều khu vực và nhiều nước. Những vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống như:
an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh mạng, an ninh tài chính quốc tế, biến
đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, Covid-19, v.v.. diễn biến nghiêm trọng. Chủ nghĩa
1

Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng tồn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 160

1


dân tuý, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng gia tăng mạnh mẽ
trong quan hệ quốc tế. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng
trước những thách thức lớn. Với bối cảnh đó, sự gắn kết về lợi ích gia tăng cùng với
nhận thức về trách nhiệm chung trong giải quyết những vấn đề toàn cầu trở thành yếu
tố thuận lợi cho khơng khí hợp tác và đối thoại. Sự biến đổi của tình hình thế giới, khu
vực đem lại cả thuận lợi và thời cơ, khó khăn cùng với thách thức đan xen, đặt ra nhiều
yêu cầu mới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Môi trường quốc tế tiềm ẩn nhiều yếu tố bất định cho q trình phát triển, địi
hỏi Việt Nam phải liên tục nâng cấp công tác dự báo và tăng cường năng lực nội tại để

kịp thời xử lý được những tình huống phức tạp phát sinh. Tranh chấp lãnh thổ, chủ
quyền trên Biển Đông tiếp tục là thách thức lớn đối với an ninh và phát triển của Việt
Nam. Vấn đề mang tính tồn cầu và mất an ninh phi truyền trống sẽ ảnh hưởng đến
Việt Nam ngày càng sâu sắc.
Vì vậy, việc nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ đó làm rõ những giá trị của đường lối kháng
chiến chống thực dân Pháp đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, đặc biệt
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay là yêu cầu cần thiết.
Với những lý do trên, nhóm chọn đề tài: “Đường lối kháng chiến chống thực
dân Pháp của Đảng và giá trị đối với sự phát triển của Cách mạng Việt Nam” làm
bài tập lớn kết thúc môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhiệm vụ của đề tài
Một là, làm rõ bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám
và những hành động hiếu chiến của thực dân Pháp và quá trình Đảng từng bước giải
quyết xung đột với Pháp trước khi quyết định phát động kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp (19/12/1946);
Hai là, làm rõ nội dung của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của
Đảng và có những đánh giá chung về nội dung của đường lối kháng chiến đối với cách
mạng Việt Nam;
Ba là, khái quát một số kết quả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
dưới sự lãnh đạo của Đảng và làm rõ giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân
Pháp đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.

2


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT VỚI
PHÁP TRƯỚC KHI QUYẾT ĐỊNH PHÁT ĐỘNG KHÁNG CHIẾN TOÀN

QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (19/12/1946)
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám
1.1.1. Bối cảnh thế giới
Chiến tranh thế giới thứ II làm thay đổi căn bản tư duy chính trị quốc tế
của các cường quốc trên thế giới. Sau cuộc chiến này, nhiều quốc gia từ bỏ tư
duy bá quyền, dùng sức mạnh để xâm chiếm lãnh thổ của quốc gia khác. Quan
hệ quốc tế từ dựa trên sức mạnh, "cá lớn nuốt cá bé", chuyển sang quan hệ bình
đẳng, cùng tồn tại hịa bình. Đồng thời ngay sau chiến tranh, phe Đồng Minh đã
bị rạn nứt khi có xung đột về hệ tư tưởng. Mỗi phía đã giành một khu vực khác
nhau trong các lãnh thổ phe Trục. Tại châu Âu, mỗi phía liên minh với nhau
trong khu vực ảnh hưởng. Về phía tây, các nước Mỹ, Anh và Pháp đã lập ra
Liên minh Bắc Đại Tây Dương (NATO). Về phía đông, Liên Xô lập ra liên
minh với các nước Đông Âu khác bằng Hiệp ước Warszawa. Xung đột giữa hai
phe sau này là một trong những hậu quả của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.
Sự trỗi dậy của Mỹ và việc mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô cũng tạo ra
sự ủng hộ cho phong trào giải phóng dân tộc vì hai nước này muốn xóa bỏ chủ
nghĩa thực dân, thiết lập một trật tự thế giới mới, lôi kéo các nước thuộc địa
mới giành được độc lập trở thành đồng minh, thâm nhập thị trường và khai thác
tài nguyên tại các nước từng là thuộc địa. Các đế quốc tại Tây Âu phải phụ
thuộc vào viện trợ Mỹ để tái thiết nên chịu áp lực chính trị của Mỹ phải phóng
các thuộc địa. Hơn nữa Mỹ và Liên Xơ đều hình thành dựa trên hệ tư tưởng
chống chủ nghĩa thực dân. Mỹ từng là thuộc địa của Anh và đã chiến đấu để
giành độc lập cịn Liên Xơ là liên minh các quốc gia từng là các tỉnh, các chư
hầu của Đế quốc Nga đã giành độc lập sau khi chế độ Sa hoàng sụp đổ.
Trong bối cảnh đó, một hội nghị quốc tế đã được triệu tập tại lanta (Liên
Xô) từ ngày 4 đến ngày 11/2/1945, với sự tham dự của nguyên thủ ba cường
quốc là Xtalin (Liên Xô), Ph. Rudơven (Mĩ) và U. Sớcsin (Anh).
Tháng 7, tháng 8 năm 1945 tại Potsdam, một cuộc hội nghị quan trọng của các
cường quốc Liên Xô, Anh, Mỹ (về sau thêm Pháp) đã được triệu tập. Hội nghị
Potsdam, đã thơng qua các quyết định về biên giới phía đơng của Đức và về con

đường phát triển sau này của nước đó. Biên giới giữa Ba Lan và Đức được vạch theo
sông Oder and Neisse. Như vậy, Đức sẽ phải hoàn trả cho Ba Lan những đất đai truyền
thống của Ba Lan mà Đức đã chiếm của nước này. Phần phía nam Đơng Phổ của nước
3


Đức bị cắt cho Ba Lan. Thành phố Kênichbec (sau đổi tên là Kaliningrat) và những
vùng phụ cận nằm ờ phía bắc Đơng Phổ được chuyển giao cho Liên Xơ.
Hội nghị Potsdam quy định các quân đội Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp tạm thời
chiếm đóng nước Đức. Hội nghị này còn vạch ra phương hướng biến nước Đức sau
chiến tranh thành một nước dân chủ, thống nhất và yêu chuộng hịa bình.
Ngồi Đức, tại hội nghị Potsdam, các vấn đề từ các quốc gia khác đã được thảo
luận: Vấn đề của Đơng Dương trong đó có Việt Nam sẽ được chia thành hai khu vực
chiếm đóng sau chiến tranh. Miền Nam sẽ bị các cường quốc phương Tây chiếm đóng
dưới sự chỉ huy của Anh và nửa phía bắc sẽ bị Trung Quốc chiếm đóng như một quốc
gia đồng minh. Quyết định của Hội nghị Postdam đã tạo nên khó khăn cho tình hình
Việt Nam sau khi CMT8 thành cơng là để cho quân Anh và quân Trung Hoa Dân
Quốc vào Đông Dương làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Thực chất, Hội nghị
Pơtxđam góp phần hồn thiện, bổ sung cho những thỏa thuận của Hội nghị Ianta.
Sau Hội nghị Ianta không lâu, từ ngày 25/4 đến ngày 26/6/1945, một hội
nghị quốc tế họp tại Xan Phranxixcô (Mĩ) với sự tham gia của đại biểu 50 nước,
để thông qua bản Hiến chương và tuyên bố thành lập tổ chức Liên hợp quốc.
Ngày 24/10/1945, sau khi được Quốc hội các nước thành viên phê chuẩn, bản
Hiến chương chính thức có hiệu lực.
Ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trên thế giới đã diễn ra nhiều sự
kiện quan trọng với xu hướng hình thành hai phe - tư bản chủ nghĩa và xã hội
chủ nghĩa - đối lập nhau gay gắt.
Trong những năm 1945 - 1947, các nước Đông Âu đã tiến hành nhiều
cải cách quan trọng như: xây dựng bộ máy nhà nước dân chủ nhân dân, cải cách
ruộng đất, ban hành các quyền tự do dân chủ. Đồng thời, Liên Xơ cùng các

nước Đơng Âu kí kết nhiều hiệp ước tay đôi về kinh tế như: trao đổi buôn bán,
viện trợ lương thực, thực phẩm. Năm 1949, Hội đồng tương trợ kinh tế được
thành lập. Nhờ đó, sự hợp tác về chính trị, kinh tế, mối quan hệ giữa Liên Xô và
các nước Đông Âu ngày càng được củng cố, từng bước hình thành hệ thống xã
hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội đã vượt ra khỏi phạm vi một nước và trở thành
hệ thống thế giới.
Tóm lại, thế giới chia thành 2 pha, một bên theo xã hội chủ nghĩa do
Liên Xơ dẫn đầu, bên cịn lại là tư bản chủ nghĩa do Mỹ dẫn đầu. Dưới sự nhăm
nhe của các nước đế quốc hòng chia lại thuộc địa trên thế giới, cách mạng của
nước ta còn gặp nhiều khó khăn. Thế chiến thứ II năm 1939, cuộc chiến giữa
phe Đồng minh, dẫn đầu là Anh, Liên Xơ, Mỹ và phe Trục phát xít gồm các
nước thế lực chính Đức, Italy và Nhật Bản, là cuộc chiến rộng và thảm khốc
nhất trong lịch sử nhân loại.
Mặt trận châu Á- Thái Bình Dương là một trong những bộ phận hợp thành cuộc
Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Mặc dù không sánh được với cuộc chiến châu Âu,
4


đặc biệt là cuộc chiến tranh Xô – Đức, về mức độ tập trung binh lực và vai trò quyết
định đối với Thế chiến thứ hai, nhưng chiến tranh Thái Bình Dương diễn ra trên diện
lớn, gồm nhiều cường quốc tham gia, và có ảnh hưởng tới vận mệnh của đa số các
quốc gia trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam.
Cuộc chiến kết thức với sự thất bại hoàn toàn của phe phát xít, dẫn đến những
biến đổi căn bản trong tình hình thế giới. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mĩ La-tinh đã giành được những
thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đó là sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa và chế độ
phân biệt chủng tộc Apacthai.
Ngay sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc với thắng lợi vĩ đại
của Quân đội Xô viết và lực lượng dân chủ thế giới, toàn thể nhân dân Việt
Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đã đứng lên làm Cách mạng tháng

Tám, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945,
thành lập chính quyền nhân dân trên khắp đất nước Việt Nam ta từ Bắc vào.
1.1.2. Bối cảnh trong nước.
Do lợi ích cục bộ của mình, các nước lớn khơng có nước nào ủng hộ lập trường
độc lập và công nhận địa vị pháp lý của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bị bao vây cách
biệt hồn tồn vói thế giới bên ngồi. Cách mạng ba nước Đơng Dương nói chung,
cách mạng Việt Nam nói riêng phải đương đầu với nhiều bất lợi, khó khan, thử thách
hết sức to lớn và rất nghiêm trọng.
Theo quy định của hội nghị lanta và Potxdam, vấn đề giải giáp quân đội Nhật ở
Đông Dương, mà cụ thể là ở Việt Nam được quy định như sau: phía Bắc vĩ tuyến 16
giao cho 20 vạn quân Tưởng, mà đằng sau quân Tưởng là nước Mỹ. Còn Nam vĩ tuyến
16 được giao cho quân Anh, mà đằng sau quân Anh là thực dân Pháp.
Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, Việt Nam lại cùng lúc phải đối phó với
nhiều kẻ thù đến như vậy. Đó là chưa kể đến lúc này ở Việt Nam cịn có 6 vạn qn
Nhật đang chờ giải giáp
Về chính trị: Hệ thống chính quyền cịn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm
lãnh đạo. Khối đại đồn kết tồn dân cần có thời gian củng cố. Chính phủ Hồ Chí
Minh vừa mới thành lập, chưa được một nước nào trên thế giới công nhận nên gặp
nhiều khó khan trong đối ngoại. Bọn phản động ngoc đầu dậy ráo riết hoạt động.
Ở miền Nam, dựa vào quân Anh, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược nước ta.
Ngày 23/9/1945, tiếng súng chống Pháp đã nổ tại Sài Gịn, sau đó lan rộng tồn Nam
bộ, báo hiệu một trận chiến mới vơ cùng khắc nghiệt. Tình thế lúc này được những
người trong cuộc và những người chép sử gọi là “ngàn cân treo sợi tóc”.
Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đối sách vô cùng
sáng suốt, linh hoạt, mềm dẻo nhưng cũng rất kiên quyết. Riêng trong việc xây dựng
và củng cố chính quyền, vấn đề được coi là cơ bản, cốt yếu của mọi cuộc cách mạng
5


xã hội, đã được thực hiện rất quyết liệt và đạt được những kết quả rất quan trọng, góp

phần giữ vững thành quả cách mạng.
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa:
chống giặc đói; chống giặc dốt; tổ chức tổng tuyển cử; giáo dục lại tinh thần của nhân
dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đị và cấm
thuốc phiện; thực hiện tự do tín ngưỡng.
Đối với thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cảnh giác và
sẵn sàng chiến đấu. Ngày 5/9/1945, Người kêu gọi: “(Nhân dân Việt Nam) cương
quyết phản đối quân Pháp kéo vào Việt Nam, vì mục đích của họ chỉ là hãm dân tộc
Việt Nam vào vịng nơ lệ một lần nữa… Hiện một số quân Pháp đã lọt vào nước ta.
Đồng bào hãy sẵn sàng đợi lệnh Chính phủ để chiến đấu!”.
Ngày 10 và 11/9/1945, Hội nghị cán bộ Bắc kỳ của Đảng đã ra nghị quyết,
trong đó về vấn đề chính quyền, nghị quyết nêu rõ: huy động các hạng nhân tài và
chính trị phạm ra giúp việc; cấp tốc tổ chức các ủy ban nhân dân các làng, các phố; thi
hành thống nhất các chương trình của Việt Minh và do Chính phủ quyết định…
Từ ngày 17 đến 24/9/1945, Chính phủ tổ chức “Tuần lễ vàng” để có nguồn tài
chính phục vụ việc xây dựng đất nước và chuẩn bị chiến tranh chống xâm lược. Trong
một tuần, nhân dân qun góp tổng cộng 60 triệu đồng Đơng Dương và 370 ký vàng.
Khi Cách mạng thành công, chúng ta chiếm được Ngân hàng Đông Dương nhưng chỉ
thu được 1,25 triệu đồng Đơng Dương mà trong đó phần lớn là tiền rách nát! Điều đó
cho thấy ý nghĩa lớn lao của “Tuần lễ vàng” như thế nào.
Để đối phó với sự cơng kích trực diện của kẻ thù, ngày 11/11/1945, Đảng Cộng
sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán và rút vào hoạt động bí mật, đồng thời thành lập
Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác, hoạt động công khai.
Bấy giờ, để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia các hoạt động
cách mạng, Đảng ta đã chỉ đạo phát triển rộng khắp các tổ chức quần chúng, mở rộng
mặt trận đoàn kết toàn dân. Chẳng hạn, trong các xí nghiệp thì có ủy ban cơng nhân
(sau đổi thành ủy ban xí nghiệp); tổ chức lực lượng Thanh niên cứu quốc, Tự vệ chiến
đấu (kể cả trong học sinh, thanh niên Công giáo và hướng đạo); tổ chức Phụ nữ cứu
quốc; tiếp tục phát triển Hội Văn hóa cứu quốc; đồng thời hình thành nhiều tổ chức

quần chúng khác như Cơng thương cứu quốc đồn, Cựu binh sĩ cứu quốc đồn, Liên
đồn Cơng giáo cứu quốc, Hội Phật giáo cứu quốc…
Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ban hành chỉ thị về kháng chiến kiến quốc
(mật), nêu rõ “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược” nên “chiến thuật
của ta lúc này là lập Mặt trận Dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược”,
đồng thời “phải củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản,
cải thiện đời sống cho nhân dân”, “xúc tiến việc đi đến Quốc hội để quy định Hiến
pháp, bầu Chính phủ chính thức”.
6


Ngày 6/1/1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa I đã diễn ra tại 71 tỉnh thành trong
cả nước theo lối phổ thông đầu phiếu và chọn ra 333 đại biểu. Hai Đảng đối lập trong
Chính phủ là Việt Quốc và Việt Cách không tham gia bầu cử; trong kỳ họp thứ nhất,
Quốc hội đã đồng ý công nhận thêm 70 ghế thuộc các đảng này, nâng tổng số đại biểu
là 403. Cuộc bầu cử đã được tồn dân nơ nức tham gia; dù diễn ra trong điều kiện
chiến sự, có sự cản trở, phá hoại của bọn phản động và sự hạn chế đi lại nhưng có đến
89% cử tri đi bầu; thậm chí ở Trung bộ và Nam bộ, cuộc bầu cử đã có đổ máu, với ít
nhất 42 cán bộ của ta hy sinh. Tại kỳ họp đầu tiên, Quốc hội đã cơng nhận Chính phủ
liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu; với hai đảng đối lập, Việt
Quốc nắm một số bộ gồm Kinh tế, Ngoại giao, Việt Cách nắm chức Phó Chủ tịch
Chính phủ, Bộ Xã hội, Y tế, Cứu tế - Lao động, Canh nơng. Sau đó, Quốc hội đã thơng
qua Hiến pháp năm 1946 tại kỳ họp thứ hai.
Về vấn đề ngoại xâm, ngày 6/3/1946, Chính phủ ta đã ký Hiệp định Sơ bộ với
Pháp, đồng ý cho 15.000 quân Pháp thay thế quân Tưởng giải giáp quân Nhật. Đến
tháng 6/1946, toàn bộ quân Tưởng rút khỏi Việt Nam; bọn phản động mất chỗ dựa nên
ra sức chống phá, nhân Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Pháp đã mưu toan đảo chính lật
đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 7/1946, âm mưu của chúng bị vạch
trần, thơng qua sự kiện vụ án phố Ơn Như Hầu. Vụ phá án đã đập tan cuộc đảo chính
phản cách mạng, làm tan rã hệ thống tổ chức của một đảng phản động, phá vỡ liên

minh phản cách mạng giữa bọn phản động bên trong với thế lực xâm lược bên ngồi.
Về kinh tế- tài chính: Kinh tế - tài chính lâm vào tình trạng kiệt quệ. Kinh tế
Việt Nam tiêu điều, xơ xác, nạn đói tràn lan, mùa màng thất bát. Nhà máy nằm trong
tay tư bản pháp, hang hóa khan hiếm, giá cả tang vọt. Tài chính khánh kiệt, ngân quỹ
trống rống, kho bạc Nhà nước chỉ còn 1,2 triệu, trong đó 58 vạn rách nát, ngân hang
Đơng Dương vẫn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng lại tung them tiền quan kim
và quốc tệ đang mất giá khiến tình hình tài chính càng them rối loạn. Bức tranh kinh tế
- tài chính ảm đạm. Các ngành sản xuất đều bị sa sút, ngưng trệ, hàng hóa trở lên khan
hiếm, thị trường rơi vào tình trạng đình đốn, tiêu điều. Kho bạc hoàn toàn trống rỗng.
Lạm phát phi mã, giá gạo từ chỗ 4 - 5 đồng/tạ, đến giữa năm 1945 đã lên tới 700 - 800
đồng/tạ. GDP bình quân đầu người năm 1945 chỉ đạt 60 đồng, tương đương 35 USD.
Hơn 90% dân số Việt Nam vẫn không biết đọc, biết viết. Cuộc sống của nhân dân rơi
xuống mức cùng cực…
Về văn hóa – xã hội: Hậu quả chính sách văn hóa ngu dân để lại là 95%
dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội tràn lan.
Tóm lại, những khó khăn về đối nội và đối ngoại trên là một thách thức
quá lớn đối với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đang cịn non trẻ lúc
bấy giờ. Việt Nam lúc này như đang trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Do
đó, từ khi nhân dân ta có Đảng lãnh đạo, thắng lợi tháng 8/1945 mở ra bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam: chính quyền về tay nhân dân, nước
Việt Nam dân chủ Cộng Hòa ra đời chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở
7


Việt Nam, kết thúc hơn 80 năm của nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân
Pháp. Nhân dân Việt Nam từ thân phân nô lệ đã trở thành người làm chủ vận
mệnh của mình. Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành
một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng Sản Việt Nam trở thành một
Đảng cầm quyền, từ đây, đất nước và dân tộc Việt Nam bước vào kỉ nguyên
mới- kỷ nguyên độc lập dân tộc. Điều đó làm cho các thế lực đế quốc và bọn

phản động quốc tế hết sức lo sợ, tìm mọi cách chống phá hịng thủ tiêu Việt
Nam ta - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Mỹ công khai ủng hộ, giúp đỡ Pháp quay lại xâm lược Việt Nam và
Đông Dương. Đế quốc Anh xuất phát từ quyền lợi thực dân và theo quỹ đạo của
Mỹ cũng ra sức ủng hộ ý đồ của thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương. Điều
này đã gây nên nhiều khó khăn vơ cùng to lớn đối với vận mệnh của dân tộc
1.2. Những hành động hiếu chiến của thực dân Pháp và quá trình
Đảng từng bước giải quyết xung đột với Pháp
1.2.1. Những hành động hiếu chiến của thực dân Pháp
Tháng 7/1945, tại Hội nghị Potsdam, bản đồ chính trị thế giới được tái
phân chia. Nước Anh được giao quyền cai quản bán đảo Đơng Dương. Như vậy
nghĩa là, Pháp đã chính thức khơng có quyền lợi gì ở Việt Nam. Tuy nhiên,
qn Anh đã nắm quá nhiều quyền lực ở khắp nơi trên thế giới, quân lực của họ
cũng đã cạn kiệt phần nào sau chiến tranh thế giới. Do vậy, Anh chia lại cho
Pháp một phần quyền hành tại Đông Dương.
Tuy Việt Nam ta đã giành lại độc lập từ tay phát xít Nhật. Tuy nhiên,
điều đó cũng khơng có giá trị ở Hội nghị Postdam, quân Anh cùng Pháp bắt đầu
đổ bộ xuống Việt Nam ta. Chúng liên tục có những hành động khiêu khích cực
kỳ nghiêm trọng vào chính quyền Việt Nam. Ngày 2-9-1945, chúng xả súng
vào cuộc biểu tình khơng vũ trang của nhân dân Sài Gịn. Vụ xã súng này làm
47 người chết và bị thương. Ngày 5-9, quân Anh đòi quân ta phải giải tán dân
quân tự vệ, nộp vũ khí cho chúng, cấm thường dân khi ra đường mang dao găm,
gậy gộc, dây thừng. Hơn thế, chúng còn giành chiếm trụ sở Ủy ban nhân dân
Nam bộ, địi ta giao cho chúng quản lý tồn bộ các bến cảng thương mại và
quân sự, xưởng sửa chữa tàu biển Ba Son… Ngày 6-9-1945, quân Anh đổ binh
vào Sài Gịn, kèm theo đó là một số đơn vị bộ binh nhỏ và xe tăng của Pháp.
Tại đây, 1.500 lính Pháp bị Nhật giam giữ được Anh thả ra và cung cấp vũ khí.
Ngày 23-9-1945, quân Pháp nổ súng tấn cơng Sài Gịn, mở đầu cuộc
chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Ngay lập tức, một cuộc họp được diễn
ra giữa Xứ ủy, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Kháng chiến Nam bộ và đại diện Tổng

bộ Việt Minh. Hội nghị thảo diễn ra sôi nổi và có hai kết luận được đưa ra:
Pháp đã nổ súng xâm lược nước ta chứ khơng cịn là những hành động khiêu
khích nữa. Mục đích trước mắt của địch là chiếm Sài Gòn rồi chiếm rộng ra
8


toàn Nam bộ và tiến tới chiếm lại toàn bộ Việt Nam; Phải cấp thời hiệu triệu
quân dân Sài Gòn và Nam bộ nhất tề đứng lên đánh trả địch để bảo vệ nền độc
lập của Tổ quốc. Phải đánh trả lại ngay không chờ đợi, tin chắc rằng Trung
ương cũng đồng ý (có một số thành viên dự hội nghị phát biểu ta không nên
hiệu triệu quân dân đánh trả ngay mà chỉ nên hô hào bãi công bãi thị phản đối
địch, để có cửa cho đàm phán và chờ lệnh của Trung ương. Ý kiến này bị đa số
phản đối).
Ngày 28/2/1946, chính quyền Tưởng Giới Thạch và Chính phủ Pháp ký
kết Hiệp ước Pháp - Hoa, trao cho thực dân Pháp quyền thay thế quân đội
Tưởng tước vũ khí quân Nhật ở miền Bắc Việt Nam 1. Thực dân Pháp tỏ rõ ý
định đem quân vào Bắc Bộ. Anh, Mỹ, Tàu cũng đã đồng ý nhân nhượng với
Pháp về vấn đề Đông Dương, để quân Pháp và Đông Dương thay quân Tàu, lấy
danh nghĩa quân Đồng Minh vào Đông Dương để “canh giữ tù binh Nhật” và
“giữ trật tự” theo “Hiệp ước quốc tế”. Mục đích của Anh và Mỹ là kéo thực dân
Pháp bao vây Liên Xô và ngăn ngừa cách mạng thuộc địa, giao thực dân Pháp
nhiệm vụ canh giữ Đông Dương để Anh – Mỹ rảnh tay hịng ngăn chặn sức
bành trướng của Liên Xơ.
Ngày 24/3/1946, cuộc hội kiến giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Cao ủy
Pháp Đácgiăngliơ (D’Argenlieu) đã diễn ra trên tuần dương hạm “Emile
Bertin” đậu trên Vịnh Hạ Long. Cuộc gặp mặt diễn ra rất niềm nở. Ông đã đồng
ý với Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng: Quốc hội Việt Nam sẽ cử một đoàn đại biểu
sang Việt Nam; rồi sau đó đồn ngoại giao của Chính phủ Việt Nam sẽ sang
Pháp mở cuộc đàm phán chính thức để ký một bản hiệp ước Việt – Pháp chính
thức. 2Tưởng như đây là một dấu hiệu khả quan cho mối quan hệ Việt – Pháp.

Tuy nhiên, những hành động trái với Hiệp định Sơ bộ vẫn liên tục được quân
đội Pháp thi hành. Chúng vẫn bắn vào quân Việt Nam trong Nam Bộ. Máy bay
Pháp vẫn ném bom xuống Rạch Giá. Lính Pháp tự tiện mang xe thiết giáp trên
lắp súng liên thanh đi diễu hành các phố và đeo súng ra ngồi khu vực của họ.
Điều đó cho ta thấy những đại biểu Pháp bên trên vẫn tỏ thái độ thân thiện, tử
tế, song những người bên dưới vẫn được lệnh làm bừa. Họ tỏ ra lời nói và việc
làm khơng đồng nhất. Tóm lại họ khơng trọng tín nghĩa, nói được nhưng không
làm được.
Dù đã ký Tạm ước 14/9/1946, thực dân Pháp vẫn tiếp tục thi hành kế
hoạch thủ tiêu cán bộ của ta; chúng ra sức tiến công quân sự và khủng bố nhân
dân ta ở khu vực Nam Bộ và Miền Trung Nam Bộ. Chúng dàn máy bay tàn sát
lương dân. Tính mệnh hàng nghìn chiến sĩ Việt Nam đang bị uy hiếp. Nhiều
nhà trí thức, nhiều chiến sĩ công giáo và đại biểu Quốc hội đã bị chúng đem
Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM, Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946) - Nước cờ ngoại giao
Xuất sắc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946) - Nước cờ
ngoại giao Xuất sắc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh (hcmcpv.org.vn), truy cập ngày 22/04/2023.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 57.
1

9


hành hình. Chúng thi hành chính sách “việc đã rồi”, tấn cơng nhiều mặt về qn
sự, kinh tế, chính trị nhằm bắt ta nhượng bộ nhiều hơn và đặt lại quyền thống trị
trên khắp nước ta.
Từ cuối tháng 11/1946, những nỗ lực cứu vãn hồ bình từ phía Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà cuối cùng đã bị đổ vỡ. Pháp đã phá tan những nỗ lực và hy
vọng cuối cùng về một nền hồ bình ở Đơng Dương. Sau khi qn Pháp tấn
cơng Hải Phịng trong vịng 1 tuần từ cuối tháng 11/1946 làm 6.000 người chết

và bị thương, quân Pháp tiếp tục tấn công Lạng Sơn. Tại Hà Nội, xe tăng của
Pháp tràn ra đường phố. Thậm chí, ngày 16/12, Cao ủy Pháp D'Argenlieu còn
ngang ngược tuyên bố: "Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng là lãnh thổ của Pháp" .1
Tóm lại, thực dân Pháp là bọn xảo quyệt. Chúng ngồi mặt thì tỏ ra
muốn làm hịa và xây dựng một Đơng Dương hịa bình. Nhưng sâu bên trong là
dã tâm muốn chiếm lấy Việt Nam nói riêng và Đơng Dương nói chung.
1.2.2. Q trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Pháp
Trong văn bản “Gửi đồng bào Nam Bộ” của Hồ Chí Minh có đoạn: “Đối
với những người Pháp bị bắt trong chiến tranh, ta phải canh phòng cẩn thận,
nhưng phải đối đãi với họ cho khoan hồng. Phải làm cho thế giới trước hết là
làm cho Pháp biết rằng: chúng ta là quang minh chính đại. Chúng ta chỉ đòi
quyền độc lập tự do, chứ chúng ta khơng vì tư thù tư ốn, làm cho thế giới biết
rằng chúng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người cướp
nước”2. Thêm vào đó, ở văn kiện “Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về
kháng chiến kiến quốc” có viết: “... khêu gợi chí căm hờn chống thực dân Pháp
nhưng tránh khuynh hướng “vị chủng”. Trong công tác tuyên truyền, đặt riêng
bọ thực dân Pháp ra một bên mà đánh (đừng bỏ cả Pháp, Anh, Ấn, Nhật vào
một bị và đừng coi họ là kẻ thù ngang nhau, đừng cơng kích nước Pháp và dân
Pháp, chỉ cơng kích bọn thực dân Pháp)” . Từ đó, ta có thể thấy quan điểm
trung lập, thiện chí của Nhà nước ta trong giai đoạn này. Ta chủ động tách riêng
bọn thực dân man rợ ra để đánh chứ không gọp chung với những người dân
nước Pháp.
Ngày 6/3/1946, sau khi hiệp định Pháp – Hoa được ký kết, chính phủ ta
đã ký với đại biểu Pháp ở Hà Nội bản Hiệp định sơ bộ gồm ba điều khoản:
“Thứ nhất, nước Pháp cơng nhận nước Cộng hịa Dân chủ Việt Nam là một
nước tự do có 3 kỳ, đứng trong khối Liên hiệp Pháp. Thứ hai, nước Việt Nam
thuận để quân đội Pháp vào Bắc Việt Nam, thay quân đội Tàu, hạn quân Pháp ở
Đông Dương không quá 5 năm. Thứ ba, hai bên đình chiến để mở cuộc đàm
phán, quân hai bên đóng đâu vẫn cứ đóng đấy”. 3Có thể thấy đây là một bước
Ngọc Hà, Dấu ấn cuộc kháng chiến lịch sử tháng 12 năm 1946, Dấu ấn cuộc kháng chiến lịch sử tháng 12 năm

1946 | VTV.VN, truy cập ngày 22/04/2023.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng tồn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 15.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 48.
1

10


đi khơn ngoan đạt được nhiều mục đích của chúng ta. Đầu tiên, ta có thể tránh
tình thế bất lợi khi phải bị cô lập chiến đấu với nhiều thế lực chuẩn bị lao vào
xâu xé (thực dân Pháp, Trung Quốc và bọn phản cách mạng trong nước. Tiếp
theo, nhân giai đoạn này, qn ta có thể bảo tồn lực lượng và cũng cố những vị
trí đã chiếm được. Thêm vào đó, Đảng ta cũng có thời gian để chấn chỉnh đội
ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng cũng như cũng cố phong trào. Cũng
tranh giai đoạn này, hàng loạt biểu ngữ, khẩu hiệu cũng được điều chỉnh để phù
hợp với hoàn cảnh hiện thời. “Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp
xâm lược” phải đổi thành “Mặt trận dân tộc thống nhất chống phản động và
giành độc lập hoàn toàn”. Những khẩu hiệu “kháng chiến” phải nhường chỗ cho
khẩu hiệu “kiến quốc”. Khẩu hiệu “chống thực dân Pháp xâm lược” phải
nhường chỗ cho khẩu hiệu “liên hiệp bình đẳng với nước Pháp mới” và “hai
dân tộc Việt – Pháp liên hiệp lại chống bọn phản động Pháp”.
Sau cuộc đàm phán Việt-Pháp tạm đình ngày 1/8/1946, vì thái độ khiếm
nhã của thực dân Pháp thì Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp thương thảo với
Chính phủ Pháp để hai bên mau họp lại. Ngày 10/9/1946, Phái đoàn Pháp đưa
ra bản dự thảo “Hiệp định tạm thời” trong đó khơng những khơng ghi đủ mọi
vấn đề hai bên đã đồng ý mà còn thêm những điều mà ta chưa đồng ý với họ.
Rõ ràng họ ép ta ký một bản hiệp định tạm thời về cục bộ bất lợi cho ta. Phái
đồn Việt Nam cự tuyệt khơng tán thành .

Ngày 13/9/1946, Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng và phần lớn thành viên
phái đoàn Việt Nam rời Paris đi cảng Toulon và lên tàu thủy Pasteur về nước
ngày 16/9/1946. Để khơng làm chuyến cơng tác trở nên vơ ích, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ở lại Paris thêm vài ngày để tìm gặp Thủ tướng Pháp George Bidault và
trực tiếp đàm phán với Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại Marius Moutet một văn
bản thỏa thuận trong ngày 14/9/1946. Đến 1 giờ sáng ngày 15/9/1946, tại nhà
riêng của ông Moutet, Hồ Chủ tịch và Bộ trưởng Moutet đã ký bản Tạm ước
14/9/1946 gồm 11 điều khoản có tính chất ngun tắc và sau này sẽ được hai
bên tiếp tục đàm phán cụ thể hóa. Tạm ước 14/9/1946 quy định hai bên sẽ tiếp
tục cuộc đàm phán chậm nhất là tháng 1/1947, sẽ cùng ấn định thể thức trưng
cầu dân ý ở Nam Bộ và đảm bảo các quyền tự do, dân chủ ở Nam Bộ. Tạm ước
14/9/1946, có hiệu lực thi hành từ ngày 30/10/1946, chứa đựng những nhân
nhượng cao nhất về kinh tế, thương mại mà Chính phủ Việt Nam có thể dành
cho Pháp. Đây là những nhân nhượng cuối cùng mà Hồ Chủ tịch và Chính phủ
ta có thể cam kết. Nếu nhượng bộ thêm nữa sẽ vi phạm đến độc lập, chủ quyền
tối cao của đất nước, dân tộc Việt Nam chúng ta sẽ bắt đầu đánh trả. Việc Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký Tạm ước 14/9/1946 là một giải pháp chính trị linh hoạt, tài
tình nhằm bảo vệ Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, cứu vãn Hội nghị Fontainebleau và
kéo dài thêm một khoảng thời gian hịa bình quý giá cho Việt Nam tiếp tục xây
dựng, củng cố lực lượng cho tới ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946.
11


Từ cuối tháng 11/1946, quân Pháp liên tục có những hành động khích
động lên chủ quyền của Việt Nam ta. Đỉnh điểm là việc chúng còn ngang ngược
tuyên bố lãnh tổ của chúng ngay trên chính mảnh đất Hà Nội. Khi những sự
nhượng bộ của quân ta đã không được quân Pháp xem trọng, ngày 19/12/1946,
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đến toàn
thể đồng bào cả nước mửo đầu cho một chiến thắng vang dội của nhân dân Việt
Nam ta:

“Hỡi đồng bào tồn quốc. Chúng ta muốn hịa bình. Chúng ta phải nhân
nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì
chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nơ lệ.”1
Tóm lại, Việt Nam ln muốn xây dựng một đất nước hịa bình và thân
thiện. Tuy nhiên, chúng ta lại bị nhịm ngó bởi nhiều thế lực. Vì vậy, nhiệm vụ
của chúng ta ở giai đoạn này là vô cùng nặng nề: vừa phải bảo vệ đất nước
trước sự thực dân Pháp, Trung Quốc và cả các thế lực chống phá bên trong; vừa
phải xây dựng đất nước. Dù Việt Nam ta đã nhiều lần nhượng bộ cho quân
Pháp nhưng khơng thành. Vì vậy, chúng ta đã quyết định phát động cuộc đấu
tranh chính nghĩa để giành lại tổ quốc.
Nhận xét chung:
Đối với Việt Nam
Để giữ gìn nền hịa bình độc lập dân tộc, tránh chiến tranh, Đảng ta đã
chủ động đàm phán với Pháp, rồi ký Hiệp định sơ bộ (6/3/1946), sau đó ký Tạm
ước (14/9/1946). Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn gửi thư tới ngun thủ các nước
lớn như Anh, Mỹ, Liên Xô và các thành viên của Liên hiệp quốc, nêu rõ thiện
chí hịa bình, mong mỏi Liên hiệp quốc chấp nhận những yêu cầu chính đáng
của Việt Nam để duy trì hịa bình. Thế nhưng, phía thực Pháp chúng khơng
nhân nhượng, khơng đàm phán, cũng khơng chấp nhận, ln tìm cách phá bỏ
Hiệp ước, tìm cách đánh chiếm nước ta bằng mọi giá. Sự lãnh đạo thống nhất
của Trung ương Đảng đã tạo tiền đề, quyết định để cuộc kháng chiến từng bước
phát triển về mọi mặt.
Đối với thực dân Pháp
Về phía Pháp, sau khi được tăng cường lực lượng, chúng mở rộng vùng
chiếm đóng, ráo riết thực hiện địn tấn cơng quyết định sớm kết thúc chiến
tranh, bằng cách mở cuộc hành quân lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu
não, tiêu diệt quân chủ lực, phá tan căn cứ kháng chiến của ta. Không thể sớm
kết thúc chiến tranh theo ý định, các nhà cầm quân Pháp buộc phải chuyển sang
“đánh kéo dài”, thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy

chiến tranh nuôi chiến tranh”, đồng thời tiến hành “Chiến tranh tổng lực”, tăng
cường đánh phá nhiều cơ sở của ta. Chúng khơng hề có bất kì sự muốn hồ bình
1

Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng tồn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 160

12


nào, chúng luôn ấp ủ âm mưu cướp nước ta. Dù nước ta đã thể hiện thiện chí
hết lần này đến lần khác để có thể hồ giải với chúng nhưng đều vô nghĩa, với
bản chất cố hữu của kẻ thực dân chúng ngoan cố và không thoả mãn luôn rắp
tăm đánh chiếm toàn bộ Việt Nam.
Về quyết định phát động cuộc chiến tranh của Đảng
Quyết định phát động toàn quốc kháng chiến là một quyết định đúng đắn
mang giá trị lịch sử sâu nặng đối với nước ta, khẳng định sức mạnh to lớn của
Cách mạng Việt Nam, được hình thành từ sự kết hợp giữa truyền thống yêu
nước oanh liệt với cuộc chiến tranh nhân dân toàn diện, rộng khắp. Nhận định
đây sẽ là cuộc đấu tranh trường kỳ, mở ra thắng lợi đầu tiên trong 30 năm
trường kỳ kháng chiến giữ nước giải phóng dân tộc và độc lập dân tộc, góp
phần khẳng định lại đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và
sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam Đông Dương.
Để thực hiện thắng lợi cuộc chiến trên, ta phải nắm bắt và phát huy, thực
hiện thành công nhiều nhiệm vụ quan trọng: nắm bắt thời cơ, vượt qua khó
khăn, thách thức, giữ vững, tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn liền
với bảo vệ Tổ quốc, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc… Giữ vững tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng
đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch. Khơng
ngừng vun đắp, củng cố khối đại đồn kết tồn dân tộc, tạo sự đồng thuận, phát
huy sức mạnh tổng hợp. Thực hiện có hiệu quả cơng tác xây dựng, chỉnh đốn

Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Sau chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xơ trở thành thành trì của chủ nghĩa
xã hội. Bên cạnh đó, tại Hội nghị Postdam, bản đồ chính trị thế giới được vẽ lại.
Quân Anh được tiếp quản bán đảo Đơng Dương. Tuy nhiên, vì lực lượng đã có
phần cạn kiệt, chúng cấu kết cùng Pháp để tiếp tục đặt ách thống trị lên vùng
đất này.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Việt Nam thành công lật đổ phát xít Nhật
để giành lại thống nhất đất nước. Đảng Cộng sản lên lãnh đạo cả nước bắt đầu
công cuộc tái xây dựng đất nước. Bên cạnh những lợi ích mà Cách mạng Tháng
Tám mang lại, Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức. Nạn đói hồnh
hành, lũ lụt sắp đến. Hơn 90% dân số mù chữ, là tàn tích của chế độ phong kiến
lạc hậu. Tuy nhiên, thời bình chưa kéo dài được bao lâu, ảnh hưởng từ Hội nghị
Postdam, Anh cùng Pháp đổ bộ xuống Việt Nam nhằm tái chiếm và đặt ách
thống trị lên đất nước ta. Bọn phản động trong và ngoài nước, đại diện là thực
dân Pháp, liên tục chống phá. Với âm mưu xâm lược và đặt lại ách đô hộ trên
lãnh thổ nước ta, thực dân Pháp hết sức muốn trở lại Việt Nam. Chúng ta không
13


chịu khuất phục vì đã tự tay giành lại độc lập nhưng giờ lại phải tiếp tục chịu
cảnh nô lệ. Ta đã nhiều lần đàm phán với Pháp nhằm tìm được tiếng nói chung.
Nhưng càng nhân nhượng, Pháp lại càng lấn tới. Chúng hành hạ nhân dân và
xâm phạm đến chủ quyền của nước Việt Nam ta. Liên tiếp nhiều hành động vi
phạm hiệp ước của quân Pháp đã dẫn đến quyết định dùng bạo lực để bắt đầu
cuộc đấu tranh chính nghĩa, hồn tồn giành lại độc lập cho đất nước Việt Nam
ta.

14



Chương 2
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ
GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

2.1. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
2.1.1. So sánh lực lượng giữa Việt Nam và thực dân Pháp, yêu cầu đặt ra
cần giải quyết
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng của Việt Nam và Pháp
có sự khác biệt rõ rệt về quy mơ, vũ khí và trang bị. Quy mô lực lượng của Việt Nam
và Pháp trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp được tính đến từ những năm đầu
của cuộc kháng chiến, và được đánh giá theo các con số chính thức được cơng bố
trong các báo cáo của các bên.
Trong q trình kháng chiến với Việt Nam, lực lượng của Pháp có sự thay đổi
liên tục, đôi khi tăng lên và đôi khi lại giảm xuống.
Ban đầu, vào năm 1945, lực lượng Pháp có khoảng 100.000 qn lính tại Đơng
Dương, nhưng sau đó tăng lên khoảng 150.000 qn lính vào năm 1946 1. Tuy nhiên,
trong những năm tiếp theo, lực lượng của Pháp đã giảm xuống do sự mất mát lớn về
con người và vật chất trong các trận đánh với các lực lượng kháng chiến của Việt
Nam.Lý do cho sự giảm lực lượng của Pháp trong quá trình kháng chiến với Việt Nam
là do chiến tranh trở nên đắt đỏ và căng thẳng hơn, với nhiều tuyến đường ngập nước,
địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt và các cuộc tấn công bất ngờ từ các lực lượng
kháng chiến của Việt Nam. Ngoài ra, sự phản đối của dư luận quốc tế và các cuộc biểu
tình trong nước cũng đã khiến Pháp phải giảm lực lượng.Trong quá trình kháng chiến
chống Pháp, lực lượng của Việt Nam cũng đã trải qua nhiều thay đổi và biến động.Ban
đầu, khi Pháp tái chiếm Đông Dương vào năm 1945, lực lượng của Việt Nam chỉ là
các đội quân cách mạng, các đội tập kích và các quân đội dân tộc, chưa có một tổ chức
quân sự chính thức.
Vào cuối năm 1946, Việt Nam thành lập quân đội nhân dân Việt Nam với
khoảng 30.000 quân lính. Trong những năm tiếp theo, lực lượng của Việt Nam đã

không ngừng tăng lên lý do cho sự tăng lực lượng của Việt Nam trong quá trình kháng
chiến chống Pháp là do sự nỗ lực của chính phủ Việt Nam trong việc tổ chức lực
lượng, tập luyện quân đội, tăng cường sản xuất vật liệu chiến đấu và quản lý quân đội
hiệu quả. Ngoài ra, sự ủng hộ của dân chúng và sự hợp tác của các lực lượng kháng
chiến khác cũng đóng một vai trị quan trọng trong việc tăng lực lượng của Việt Nam.

1

Nguyễn Văn Phi (2022), Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng ta là gì?,
ngày truy cập 27/04/2023.

15


Về tổ chức lực lượng, lực lượng của Pháp được tổ chức chặt chẽ và có chun
mơn hơn so với lực lượng của Việt Nam. Họ được đào tạo và trang bị đầy đủ, được
quản lý bởi các quân chức chuyên nghiệp, có kinh nghiệm và quản lý kỹ lưỡng. Quân
đội Pháp được chia thành các đơn vị chuyên môn như: lực lượng bộ binh, lực lượng
pháo binh, lực lượng tăng, lực lượng khí tài và lực lượng hải quân.. Trong khi đó, lực
lượng của Việt Nam chủ yếu được tổ chức theo hình thức dân quân tự vệ, với các lực
lượng khơng chun nghiệp và khơng có sự quản lý chun mơn,
Về vũ khí và trang bị, lực lượng Pháp đã sử dụng nhiều loại vũ khí và trang bị
hiện đại, bao gồm các loại súng trường, súng máy, súng ngắn, súng phóng lựu, đại
pháo và tên lửa. Các phương tiện quân sự như xe tăng, xe bọc thép, máy bay, tàu chiến
và tàu ngầm cũng được sử dụng. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, lực lượng
Việt Nam đã sử dụng nhiều loại vũ khí và trang bị khác nhau, Vũ khí truyền thống bao
gồm dao kiếm, gươm, giáo, cung tên, súng trường cổ, v.v. Những loại vũ khí này được
sử dụng chủ yếu trong giai đoạn đầu của kháng chiến. Lực lượng Việt Nam đã sử dụng
nhiều loại súng trường khác nhau và được sản xuất nội địa tại các xưởng sản xuất súng
của Việt Nam. Còn lại là những súng máy, vũ khí nổ … Nhìn chung, lực lượng Pháp

được trang bị vũ khí và trang bị hiện đại hơn so với lực lượng Việt Nam.
Yêu cầu được đặt ra cần giải quyết về chênh lệch lực lượng là cần phải tăng
cường và tập trung lực lượng vũ trang của Việt Nam để có thể đánh bại được đội quân
Pháp. Cần phải đẩy mạnh việc tuyển chọn, Kích thích lịng u nước của người dân
bằng cách tăng cường công tác tuyên truyền và giáo dục, giải thích cho họ về mục đích
và ý nghĩa của cuộc kháng chiến, tạo động lực cho họ tham gia vào sự kháng chiến
chống lại đế quốc Pháp và đào tạo quân đội, đồng thời sử dụng hiệu quả các lực lượng
dân quân để tăng cường sức mạnh chống lại đội quân Pháp. Ngoài ra, cần phải tận
dụng tối đa các yếu tố thuận lợi như địa hình, thời tiết, lịng dân để làm nền tảng cho
chiến lược kháng chiến của Việt Nam. Tập trung vào việc tiến hành các cuộc tấn công
bất ngờ vào các địa điểm quan trọng của đối thủ, cắt đứt các đường lối kết nối của họ,
gây ra sự tàn phá và thiệt hại lớn cũng như tạo động lực cho sự kháng chiến của dân
tộc.
Kết quả là, dù bị yếu hơn về quy mô, vũ khí và trang bị, lực lượng của Việt
Nam đã có thể đánh bại lực lượng của Pháp và đạt được độc lập cho đất nước. Cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam đã là một điển hình cho việc sử dụng
đường lối kháng chiến để chống lại các quốc gia thực dân trong lịch sử thế giới.
2.1.2. Nội dung đường lối kháng chiến
Đường lối kháng chiến của đảng được hình thành từng bước, thể hiện qua các
văn kiện:
− Chỉ thị kháng chiến kiến quốc ( 25-11-1945)
16


− Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của ban thường vụ Trung ương Đảng ( 12
-12 -1946)
− Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (19-12-1946)
− Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh (1947)
Chỉ thị kháng chiến kiến quốc được ban hành vào ngày 25/11/1945, chỉ thị này
thể hiện đường lối kháng chiến của Đảng trong giai đoạn đầu tiên của cuộc kháng

chiến chống Pháp.Theo đó, Chỉ thị kháng chiến kiến quốc khẳng định sự quyết tâm
của Đảng và nhân dân Việt Nam trong việc đấu tranh chống lại sự xâm lược và áp bức
của thực dân Pháp. Nội dung của chỉ thị này bao gồm: Gọi mọi người cùng đứng lên
kháng chiến chống lại thực dân Pháp, bảo vệ độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ của
nước Việt Nam.Yêu cầu người dân tăng cường quân sự, chuẩn bị vũ khí, quân đội, tập
trung lực lượng để đánh bại quân Pháp. Giao cho Đảng Việt Nam Quốc dân Đảng
trách nhiệm lãnh đạo, chỉ huy cuộc kháng chiến chống Pháp, tuyên truyền về tình hình
và nhiệm vụ của cuộc kháng chiến cho mọi người dân.Xây dựng lực lượng vũ trang,
tập hợp các địa phương, thực hiện tiến công tập trung và phối hợp với nhau để đánh
bại quân địch.
Với nội dung của chỉ thị này, Đảng đã khơi gợi được tinh thần yêu nước, đồn
kết giữa các tầng lớp nhân dân, góp phần tạo nên sức mạnh cần thiết cho cuộc kháng
chiến chống Pháp. Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng đã phù hợp với thực tế
và nhu cầu của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn đó. Trước đó, Việt Nam đã chịu
nhiều nền thống trị và áp bức của các thực dân, khiến cho dân tộc Việt Nam bị chia rẽ
và đánh lẻ. Đồng thời, Việt Nam cũng đang đối mặt với nguy cơ bị chia cắt và đánh
chiếm bởi các thực dân khác, trong đó có Pháp. Chính vì vậy, chủ trương kháng chiến
kiến quốc đã được xem là phương tiện cần thiết để bảo vệ chủ quyền và độc lập của
dân tộc Việt Nam. Chủ trương kháng chiến kiến quốc được nêu ra bởi Đảng nhằm
khẳng định quyết tâm của Việt Nam đối với sự tồn tại và độc lập của quốc gia. Đồng
thời, chủ trương này cũng nhấn mạnh sự quyết tâm của Đảng và nhân dân Việt Nam
trong việc bảo vệ đất nước khỏi sự xâm lược của các thực dân và bảo vệ quyền tự do
của nhân dânChủ trương này cịn có mục đích kêu gọi sự tham gia của tất cả các tầng
lớp nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến, nhằm tạo ra một động lực mạnh mẽ để
đẩy lùi sự xâm lược của Pháp. Bên cạnh đó, Đảng cũng đề cập đến vai trò của quân
đội trong cuộc kháng chiến và nhấn mạnh tầm quan trọng của sự quân sự hóa của cuộc
kháng chiến. Đồng thời cũng làm nền tảng cho những đường lối kháng chiến chống
thực dân Pháp của đảng trong thời gian tiếp theo.
Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của ban thường vụ Trung ương Đảng (12-121946) là một tài liệu quan trọng định hướng cho cuộc kháng chiến chống Pháp của
Việt Nam. Trong đó, Đảng khẳng định rằng kháng chiến chống Pháp là một cuộc

kháng chiến toàn dân, tức là một cuộc kháng chiến do toàn bộ nhân dân Việt Nam
tham gia. Điều này có nghĩa là cả dân tộc, không phân biệt đẳng cấp và giai cấp, đều
17



×