Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Thực trạng Dollar hóa nền kinh tế ở Việt Nam và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.8 KB, 15 trang )

Trường Đại Học Tài Chính Marketing
Khoa sau Đại học
Ngành Tài chính - Ngân hàng
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 7
Lớp cao học tài chính – ngân hàng 2012
Danh sách nhóm
Stt Họ & Tên
1 Trang Ngọc Đăng
2 Nguyễn Quốc Bá
3 Nguyễn Ngọc Hiếu
4 Nguyễn Thị Phương Châu
5 Nguyễn Anh Tú
6 Lê Lưu Tân Hoàng
7 Nguyễn Thị Kim Yến
8 Phan Thị Hồng Thắm
9 Trần Thị Mộng Thy
10 Đồng Thái Dương
11 Nguyễn Thị Hoàng Oanh
12 Nguyễn Thành Long
13 Nguyễn Thị Thu Hồng
14 Nguyễn Cương

1.Thực trạng Dollar hóa nền kinh tế ở Việt Nam và giải pháp
1.1 Khái niệm Dollar hóa:
Theo IMF Dollar hóa là hiện tượng ngọai tệ (chủ yếu là USD) sử dụng song song
với bản tệ và thực hiện đầy đủ các chức năng tiền tệ. Hay, dollar hóa là việc ngoai
tệ thay thế bản tệ làm chức năng thước đo giá trị, phương tiện thanh toán, phương
tiện tích lũy trong nền kinh tế.
Theo tiêu chí của IMF đưa ra một nền kinh tế được coi là tình tậng đô la hóa cao
khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ (FCD) chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối
tiền tệ mở rộng (M2) bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn,


tiền gửi kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ.
1.2 Nguyên nhân
Đã có nhiều phân tích, đánh giá nguyên nhân của hiện tượng đô la hóa, có
thể tổng kết, đánh giá qua những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, biến động lạm phát và thay đổi tỷ giá
Tỷ lệ lạm phát cao ở Việt Nam khiến sức mua của đồng bản tệ giảm sút thì người
dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác, đặc biệt là đồng USD. Song song với
chức năng làm phương tiện cất giữ giá trị dần dần đồng ngoại tệ cạnh tranh với
đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay thước đo giá trị.
Thứ hai, do nhu cầu thanh toán quốc tế gia tăng và do ảnh hưởng của các
dòng vốn quốc tế
Kể từ khi thực hiện mở cửa nền kinh tế, kim ngạch xuất, nhập khẩu và các dòng
vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng, bởi vậy, các doanh
nghiệp có nhu cầu nắm giữ một lượng ngoại tệ lớn để phục vụ nhu cầu mở rộng
thương mại và đầu tư quốc tế.
Thứ ba, do thu nhập bằng USD của các tầng lớp dân cư
+ Thu nhập của Người VN làm cho các cty nước ngoài và các tổ chức quốc
tế ở Việt Nam.
+ Lượng kiều hối chuyển tiền về VN
+ Thu nhập từ dịch vụ du lịch, khách quốc tế đến VN ngày càng tăng.
+ Thu nhập người nước ngoài sinh sống tại VN( chù yếu cho người nước ngoài
thuê nhà)
+ Tiền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài gửi về, tiền của những người lao
động xuất khẩu, học tập, làm việc ngắn ngày mang về…
+ Tình trạng buôn lậu qua biên giới mạnh làm phát sinh nhu cầu sử dụng ngoại tệ.
+ Kiều hối gia tăng cùng với các quy định cho phép các cá nhân nắm giữ ngoại tệ
dưới hình thức tiết kiệm và tài khoản ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng, cất giữ dưới
dạng ngoại tệ tiền mặt.
Thứ tư, Tâm lý của người dân:
Xuất phát từ tâm lý”chuộng ngoại” vì sợ VN mất giá nên họ lựa chọn đô la Mỹ để

gửi ngân hàng. Thực trạng đó còn do nguyên nhân mệnh giá đồng tiền VN còn
nhỏ, cao nhất là tờ 500 nghìn mới được lưu thong vào cuối năm 2003. Song
tờ 100 USD tương ứng khoảng 2 triệu đồng. Bởi vậy, việc sử dụng đồng đô la
là tiện lợi trong giao dịch mua bán lớn: nhà đất, xe cộ…
Thứ năm,, mặc dù Pháp lệnh Ngoại hối hiện hành quy định trên lãnh thổ Việt
Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo không được thực hiện bằng
ngoại hối trừ một số trường hợp, nhưng trên thực tế, việc thực thi và xử lý các quy
định pháp lý này chưa nghiêm, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
quản lý nhà nước, lực lượng quản lý thị trường nên giao dịch thanh toán bằng
ngoại tệ tiền mặt vẫn tồn tại trên thị trường tự do. Với sự tồn tại của thị trường
này, mỗi khi kinh tế có rủi ro bất ổn, thị trường ngoại hối sẽ bị xáo trộn, tồn tại hai
tỷ giá chênh lệch nhau giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường chợ đen, xuất
hiện tâm lý đầu cơ ngoại tệ
Với lượng tiền mặt ngoại tệ lớn như vậy đang ồ ạt đổ về, buộc Việt Nam
phải đứng trước tình trạng đô la hóa nền kinh tế ngày càng trầm trọng.
Trước thực trạng trên, chúng ta cần phải nhận định rõ rằng: Đô la hóa là tình trạng
khó tránh khỏi đối với những nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình
chuyển đổi nền kinh tế và từng bước hội nhập như Việt Nam. Xóa bỏ đô la hóa
không phải là xóa bỏ hoàn toàn và phủ định tất cả vì cũng giống như lạm phát,
phải duy trì ở một mức độ phù hợp và ổn định để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Chúng ta phải chấp nhận sự hiện diện của đô la hóa trên cơ sở kiềm chế, khai thác
mặt lợi, hạn chế mặt tiêu cực
1.3 Thực trạng dollar hóa ở Việt Nam:
Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đô la Mỹ trong giao dịch
buôn bán…bắt đầu được chú ý từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận
tiền gửi bằng đồng đô la. Cuối năm 1991 lãi suất tiền gửi USD bắt đầu giảm
mạnh, các ngân hàng thương mại nhanh chóng rút lượng tiền gửi ở các ngân hàng
nước ngoài về , cuối năm này lượng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng đã tăng
lên mạnh với hơn 41%. Trong khoảng những năm 2000-2004, đồng USD giảm
dần. Một số yếu tố kinh tế chính trị tác động vào Mỹ khiến cho đồng USD không

còn được sử dụng rộng rãi như trước mà thay vào đó là đồng EUR. Cuối 2000,
nhiều ngân hàng thương mại đồng loạt tăng lãi suất tiền gửi VND và hạ lãi suất
huy động USD. Động thái này giúp đưa tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ xuống mức 31,7%
vào cuối năm 2001, đến năm 2003 còn 23,6% và 24,3% vào cuối năm 2004
Đây là xu hướng tích cực, cho thấy tình trạng đô la hóa trong hệ thống ngân hàng
thương mại đang được kiềm chế một cách có hiệu quả, lượng vốn nhàn rỗi trong
dân đã dần dần dịch chuyển vào hệ thống ngân hàng.
Những năm tiếp theo, tỷ lệ USD có xu hướng giảm chậm nhưng vẫn ở mức cao,
khoảng 20-25%.
Lượng USD trôi nổi trên thị trường lại trở nên khó kiểm soát. Sự tăng nhanh của
tỷ giá USD/VND những năm gần đây làm cho người dân chuyển sang
dự trữ USD với khối lượng lớn.
Tình trạng dollar hóa tác động theo 2 hướng:
1.3.1 Những tác động tích cực:
- Tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát
cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Do có một lượng
lớn đô la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm
phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức.
Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì
được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản
tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này
ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm
phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành
này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt
chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn.
- Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế. Với
một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ có
điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước
ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương đối với luồng
ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối

ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc
tế.
- Hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá chính thức, các chi phí như
chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền
khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết,
các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh.
- Thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có thể
loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích
tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được, chênh
lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách tiảm xuống và thúc
đẩy tăng trưởng và đầu tư.
- Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phí chính thức. Tỷ
giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển các
hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính thức
(thị trường hợp pháp).
1.3.2 Những tác động tiêu cực:
- Ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Trong một nền
kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc
biệt là chính sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn
biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xẩy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế.
- Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ :
• Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó
dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu
thông kém chính xác và kịp thời.
• Làm cho đồng nội tệ nhậy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó
những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế
thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả.

• Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể thực
thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định,

do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của
đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.
Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì
quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực
xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái.
• Ở trong các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định.
Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể
làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ
một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước
hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền
khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân
hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra
những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng.
Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho
người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho
vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá
cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ.

- Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp đô la
hoá chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do
nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát triển
như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ
tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính
sách tiền tệ khác nhau.
- Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người
cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô
la hoá hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn
tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng.
Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này.
Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng

được đối với đô la Mỹ. Đối với vác nước đô la hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng
sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ
phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương
đã bị mất.
1.4 Những giải pháp của chính phủ nhằm xóa bỏ Dollar hóa trong nền
kinh tế:
Đô la hoá là tình trạng khó tránh khỏi đối với các nước có xuất phát điểm thấp,
đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế như
Việt Nam. Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử
dụng tiền mặt trong giao dịch không thể một sớm, một chiều xoá bỏ hay giảm
triệt để được.
Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và ngân hàng Trung ương trong vấn
đề đô la hoá là rất rõ ràng: xoá bỏ đô la hoá trong nền kinh tế - xã hội nước ta phải
được thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát
triển của đất nước; phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế, vừa hành chính kết hợp
với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong lộ trình thực thi nhiều cơ
chế kinh tế nghiệp vụ ngân hàng cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền
Việt Nam trong các chức năng thuộc tính của tiền tệ.

Nghị quyết IV của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá 8) trong phần đề
cập những chủ trương chính sách lớn, riêng trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng
một lần nữa khẳng định yêu cầu "Đẩy nhanh tiến độ thực hiện nguyên tắc trên
đất nước Việt Nam phải thanh toán bằng tiền Việt Nam".

Việc xoá bỏ đô la hoá không thể xử lý theo quan điểm xoá bỏ sạch trơn, phủ định
tất cả. Trong giai đoạn hiện nay cần cố gắng khai thác mặt lợi, thu hút vốn đô la
trong dân vào hệ thống ngân hàng, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội.
thị trường ngoại tệ và hoạt động kinh doanh tiền tệ ở nước ta đang hội nhập với thị
trường tiền tệ quốc tế. Nói kiềm chế, đẩy lùi và hạn chế các mặt tiêu cực, có nghĩa
là chúng ta chấp nhận sự tồn tại của đô la hoá ở những mặt tích cực khách quan.

Điều quan trọng nhất là Nhà nước phải giữ vai trò chủ động để điều chỉnh hiện
tượng đô la hoá; nhất quyết phải có các giải pháp hành chính - kinh tế - giáo dục
đồng bộ để triệt tiêu các mặt tiêu cực của đô la hoá. Chúng ta không thể sử dụng
lại các biện pháp hành chính đã từng áp dụng lại các biện pháp hành chính đã từng
áp dụng trong những thời gian trước đây như là: tăng tỷ lệ kết hối lên 100%,
không cho nhận kiều hối bằng ngoại tệ, không nhận tiền gửi ngoại tệ hoặc hạ thấp
lãi suất tiền gửi ngoại tệ, chỉ cho phép doanh nghiệp được mở tài khoản ngoại tệ
tại một ngân hàng Những biện pháp hành chính này qua thực tiến thực hiện đã
chứng tỏ là chúng gây khó khăn cho các doanh nghiệp, không khuyến khích nguồn
kiều hối chuyển về nước, và không phù hợp với xu hướng hội nhập với khu vực và
thế giới.
Theo Bộ Kế hoạch - Đầu tư, việc chống đô la hóa phải được tiến hành một cách
toàn diện, đồng bộ; về lâu dài, cần coi giải pháp kinh tế, kỹ thuật là chủ đạo.
Bộ đã đề xuất gói giải pháp gồm 5 điểm, được nhiều chuyên gia kinh tế tán đồng.
Giải pháp đầu tiên trong 5 nhóm giải pháp được bộ này đề nghị áp dụng là:
Một là, cần thực hiện các biện pháp vĩ mô để tăng dự trữ USD; chủ động trong
điều hành tỉ giá, tránh tăng tỉ giá quá mạnh gây kích thích tâm lý dự trữ USD; thực
hiện đa dạng hóa ngoại tệ, tránh phụ thuộc vào USD; sớm có chủ trương bán ngoại
tệ cho người dân có nhu cầu chính đáng như du học, chữa bệnh, đi công tác
Hai là, điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo hướng tránh lệ thuộc vào nguồn nhập
khẩu, nhất là nguyên liệu đầu vào để hạn chế cầu USD.
Ba là, nâng cao chất lượng dịch vụ của các tổ chức tín dụng, mở rộng thêm các
tiện ích gắn với việc giao dịch bằng tiền VNĐ như dịch vụ thẻ, điểm thanh toán,
cho vay tiêu dùng.
Bốn là, có giải pháp thu hút triệt để ngoại tệ từ các doanh nghiệp, cá nhân, người
Việt Nam ở nước ngoài khi mang ngoại tệ vào Việt Nam; khuyến khích tăng tỉ lệ
quy đổi sang VNĐ với số lượng USD lớn.
Nhóm giải pháp thứ năm là sửa đổi các văn bản và quản lý chặt chẽ việc niêm yết
hàng hóa trong nước bằng VNĐ, chẳng hạn ban hành một pháp lệnh.
Bộ Kế hoạch - Đầu tư cho rằng trong bối cảnh thị trường tự do ngừng giao dịch,

Nhà nước nên có sự chỉ đạo kịp thời đối với các tổ chức tín dụng để khắc phục
tình trạng găm giữ ngoại tệ. Mặt khác, thời điểm này cần rà soát lượng ngoại
tệ trong các tổ chức tín dụng để phòng ngừa trường hợp ngoại tệ chảy ra nước
ngoài, nhất là hoạt động đánh bạc ở nước ngoài.
2.Thị trường kinh doanh vàng miếng tự do và nghị định 24 NĐ-CP
2.1 Tác hại của việc kinh doanh vàng miếng tự do đối với nền kinh tế
- Hoạt động buôn lậu vàng do giá vàng thế giới rẻ hơn giá vàng VN. Trong thời
gian vừa qua do có sự chênh lệch giá vàng trong nước so với giá vàng thế giới nên
hiện tượng nhập lậu vàng cũng tăng cao, gây thất thoát ngoại tệ, tác động tỷ giá,
ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý ngoại hối của quốc gia.
- Gây hiện tượng vàng hóa: Hiện nay theo như phương thức trao đổi mua bán
truyền thống thì tiền là vật ngang giá chung làm thước đo giá trị và giá trị sử dụng.
Tuy nhiên ngày nay vàng miếng được xem như là một dạng phương tiện thanh
toán cho một số hoạt động mua bán, do công tác quản lý vàng miếng chưa chặt
chẽ nên khi tính tổng phương tiện thanh toán sẽ không chính xác dẫn đến việc đưa
ra Chính sách tín dụng – tiền tệ lệch so với thực tiễn, không tương xứng với khối
lượng hàng hóa dự kiến, giảm đi tác dụng trong thực thi Chính sách tiền tệ.
- Vàng miếng lưu thông trên thị trường tự do này đã “ngốn” một lượng ngoại tệ rất
lớn của nền kinh tế. ( do dòng tiền chủ yếu nằm trong tay giới đầu cơ mà không
đưa vào lưu thông sản xuất tạo hàng hóa phát triển kinh tế) Dẫn chứng tình trạng
thiếu thanh khoản của ngân hàng, lãi suất huy động vàng tăng cao. Vàng miếng
luôn sẵn sàng trở thành tài sản găm giữ và đầu cơ nên nó gây ra sự bất ổn cho thị
trường ngoại hối do cần nguồn ngoại tệ rất lớn dùng để nhập khẩu (do các cửa
hàng vàng đều kiêm thêm kinh doanh ngoại tệ nên đã hình thành hẳn một thị
trường ngoại tệ tự do và giới kinh doanh vàng cũng lấy USD căn cứ cho các giao
dịch vàng. Và mỗi khi giá vàng tăng, các đầu nậu lại gom USD nhập lậu vàng về
"giải khát" cho giới đầu cơ, làm bất ổn tỷ giá) => Ảnh hưởng đến tỷ giá chợ đen
- Các cửa hiệu vàng không uy tín hoạt động nhập lậu tràn lan.
- Ngân hàng khó cho vay vàng. Nếu giá vàng tăng, người dân và doanh nghiệp sẽ
không dám vay vàng, vì lo ngại bị “thiệt hại kép” khi đến ngày đáo hạn trả nợ vay

(vừa trả lãi suất vay vàng, vừa bù lỗ mức chênh lệch giá vàng). Nếu các ngân hàng
huy động vàng mà không cho vay được, kênh tín dụng bằng vàng sẽ bị tắc nghẽn,
gây lãng phí cho nguồn vốn vàng to lớn không sử dụng được.
- Tâm lý đầu cơ, tích trữ vàng cũng sẽ xuất hiện. Với xu hướng giá tăng mạnh,
người dân sẽ rút tiền đồng mua vàng tích trữ để kỳ vọng kiếm lời chênh lệch giá,
thay vì gửi tiền đồng vào các ngân hàng hoặc mua hàng hóa, dịch vụ để kích thích
sức tăng trưởng kinh tế.
- Rủi ro tín dụng bằng vàng. Với các hợp đồng tín dụng bằng vàng đã được giải
ngân, nếu giá vàng biến động mạnh theo xu hướng tăng, rủi ro đối với các ngân
hàng là tài sản đảm bảo của người đi vay sẽ không đủ bù đắp, còn rủi ro đối với
người đi vay là tổng chi phí vay tăng lên do bù lỗ giá vàng.
- Ảnh hưởng đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI): Theo phương pháp tính chỉ số CPI
của Tổng cục thống kê cho giai đoạn 5 năm 2009-2014 trên toàn quốc, hiện tại
vàng không được tính trong 572 nhóm hàng và dịch vụ (hay còn gọi là “rổ hàng
hóa”) để tính CPI. Tuy vậy, vàng tăng giá cũng sẽ tác động gián tiếp đến chỉ số
CPI. Ví dụ, khi giá vàng tăng, các nguyên liệu đầu vào phục vụ cho việc sản xuất,
chế tác các dòng sản phẩm có liên quan đến vàng hoặc ngành vàng bạc đá quý sẽ
tăng theo, dẫn đến giá bán tăng đối với nhóm hàng hóa này. Khi giá bán các sản
phẩm kim loại quý tăng, các sản phẩm này sẽ tác động gián tiếp đến rổ 572 nhóm
hàng và dịch vụ chính thức nói trên.
- Ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ. Khi giá vàng tăng gây ảnh hưởng gián tiếp
đến chỉ số CPI tăng, những dấu hiệu về lạm phát sẽ xuất hiện. Nếu tỷ lệ lạm phát
không dao động trong vùng kiểm soát theo kỳ vọng chung của nền kinh tế, Ngân
hàng Nhà nước sẽ phải xem xét thực thi một số giải pháp như điều chỉnh lãi suất
cơ bản, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và điều tiết tổng phương tiện thanh toán
của nền kinh tế để kiềm chế lạm phát.
Thêm vào đó, khi Nhà nước phát hành tiền giấy để đưa vào lưu thông, với mục
tiêu là tạo sản phẩm, hàng hóa cho thị trường, tăng sản lượng xã hội. Tuy nhiên,
thực tế đồng vốn này không vào đúng địa chỉ mà chạy sang thị trường vàng, làm
tăng dự trữ vàng trong dân (theo số liệu thông kê có thời điểm lượng vàng trong

dân lên tới 500 tấn) không làm tăng sản lượng xã hội như mục tiêu đã đề ra, dẫn
đến việc thực thi Chính sách tín dụng - tiền tệ không hiệu quả.
- Ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán vốn được xem
là hàn thử biểu của nền kinh tế. Khi giá vàng tăng với mức sinh lợi kỳ vọng hấp
dẫn, các công ty chứng khoán một mặt vừa chú tâm theo dõi diễn biến của thị
trường vàng, mặt khác vừa lo ngại một số nhà đầu tư chứng khoán sẽ dịch chuyển
danh mục đầu tư sang vàng. Nếu nhiều nhà đầu tư chuyển hướng đầu tư sang
vàng, thị trường chứng khoán sẽ thiếu tính thanh khoản, và điều này sẽ gây ảnh
hưởng đến sự phục hồi và sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán và nền kinh
tế.
- Ảnh hưởng đến thị trường bất động sản. Theo tập quán truyền thống từ lâu đời,
người dân Việt Nam có thói quen sử dụng vàng để định giá nhà đất hoặc bất động
sản. Nhà đất là tài sản có giá trị rất lớn có khi phải tích lũy vài chục năm mới sở
hữu được, vì vậy việc người dân “neo” giá bán nhà đất vào vàng cũng là điều dễ
hiểu.
Dù hiện nay, việc rao bán nhà đất bằng tiền đồng thay cho vàng có tăng lên, nhưng
đó chỉ là hình thức. Bởi xét về bản chất, người bán nhà hay bất động sản thường
quy đổi ra tiền đồng theo giá vàng hiện hành. Giá vàng tăng, dẫn đến giá trị nhà
đất, bất động sản tăng theo, khiến các nhà đầu tư ngại mua bán nhà đất/bất động
sản do sợ rủi ro giá vàng đảo chiều. Điều này có thể sẽ làm cho thị trường bất
động sản kém sôi động hoặc thậm chí tắc nghẽn
2.2 Nghị định 24 NĐ-CP
2.2.1 Nội dung cơ bản của nghị định
(Xem bản nghị định đính kèm)
2.2.2 Tác động của nghị định
Trước hết theo tôi Chủ trương chính sách quản lý việc kinh doanh vàng miếng,
xoá bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do, đưa về đầu mối tập trung
của Chính phủ là chủ trương hoàn toàn đúng đắn và có những ảnh hưởng như
sau:
- Giảm đầu cơ, râm giữ đầu cơ vàng.

- Giảm nhập siêu, bình ổn tỷ giá, tăng dữ trữ ngoại hối của quốc gia, quản lý
chặt chẽ lượng vàng thỏi nhập vào thị trường trong nước.
- Ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới.
- Tạo sự liên thông, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa giá vàng trong nước
và giá vàng thế giới.
- Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước, tạo được môi trường kinh doanh
vàng ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
2.2.3 Dẫn chứng Thực tế đạt được:
Mặc dù đến 25/5, Nghị định 24 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng của
Chính phủ mới chính thức có hiệu lực, nhưng trong tuần qua văn bản này đã bắt
đầu có những tác động tích cực đối với thị trường vàng. Giá vàng đã dần ổn định
trở lại, khoảng cách giữa giá vàng trong nước và thế giới cũng đã được rút ngắn
a. Giá vàng dần ổn định
Trên thị trường, giá vàng giao dịch sáng 17/4 phổ biến đã về dưới mức 43 triệu
đồng/lượng, thấp nhất từ đầu năm đến nay.
Tại Công ty Vàng bạc đá quý Sacombank (SBJ), giao dịch vàng tại doanh nghiệp
này rất chậm. Thị trường không có nhiều “sóng” như trước. Hiện tượng đầu cơ giá
lên, giá xuống cũng không còn.
Theo lãnh đạo của công ty này, trước đây mỗi lần giá thế giới “chạy” chừng 10
USD, giá trong nước cũng “chạy” theo 200.000 - 300.000 đồng/lượng. Nhưng
trong tuần qua có ngày, giá thế giới “chạy” đến 20 USD nhưng giá vàng trong
nước vẫn “án binh bất động”, thậm chí còn giảm vì mãi lực quá yếu.
Theo bà Nguyễn Thị Cúc, Phó Tổng giám đốc Công ty Vàng bạc Đá quý Phú
Nhuận (PNJ), mãi lực vàng miếng của đơn vị này trong những ngày qua cũng chỉ
bằng có 50% so với cùng kỳ năm 2011. Mặc dù đơn vị này đã có nhiều biện pháp
kích cầu như để giá mua vào bằng với giá vàng miếng SJC và bán giá thấp hơn giá
vàng miếng SJC 30.000 - 50.000 đồng/lượng.
Không chỉ có các cửa hàng “phi SJC” mà ngay cả các chi nhánh của Công ty SJC
cũng rất ế ẩm. Theo ông Nguyễn Công Tường, Phó phòng Kinh doanh vàng miếng
của Công ty SJC, cả lực mua vào và bán ra cũng đều rất thấp (chỉ khoảng 1.000

lượng/ngày).
Có thể thấy, dù Nghị định 24 hiện chưa chính thức được thực thi, nhưng đã bắt
đầu có tác động đến các hoạt động giao dịch mua bán vàng miếng của người dân
trong những ngày qua. Trong đó, tình trạng đầu cơgiá lên, giá xuống đã giảm hẳn
khiến giá vàng trong nước và thế giới thu hẹp trở lại.
b. Tỷ giá ngân hàng và tỷ giá chợ đen dần về ổn định do không còn nhu
cầu về USD để nhập lậu vàng
c. Phân tầng rõ rệt Doanh nghiệp kinh doanh vàng
Một số doanh nghiệp kinh doanh vàng đang phải loay hoay để tìm hướng kinh
doanh khác vì không đáp ứng đủ điều kiện như có vốn điều lệ từ 3.000 tỷ đồng
trở lên, có đăng ký hoạt động kinh doanh vàng, có mạng lưới chi nhánh tại Việt
Nam từ 5 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên. với quy định này, có
thể hiểu là phần lớn các ngân hàng thương mại có đủ điều kiện hoạt động kinh
doanh vàng miếng. Điều này giúp cho Ngân hàng Nhà nước dễ dàng hơn trong
việc quản lý hoạt động kinh doanh vàng
Nghị định có nói đến việc quy hoạch lại hệ thống các cửa hàng kinh doanh nữ
trang, thay vì thả lỏng như lâu nay. Khi hệ thống cửa hàng kinh doanh nữ trang
được quy hoạch lại, chắc chắn chất lượng nữ trang cũng được kiểm soát và
được đảm bảo hơn trước.

×