Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Hoàn thiện quy định pháp luật về các hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân cấp tỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 68 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC

PHAN THANH TUYỀN
MSSV: 1953801011322

HỒN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH

Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật
Niên khóa: 2019 - 2023

Người hướng dẫn:
ThS. TRƯƠNG THỊ MINH THÙY

TP.HCM – Năm 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC

PHAN THANH TUYỀN
MSSV: 1953801011322

HỒN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH

Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật
Niên khóa: 2019 - 2023



Người hướng dẫn:
ThS. TRƯƠNG THỊ MINH THÙY

TP.HCM – Năm 2023


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Hoàn thiện quy định pháp
luật về các hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” là cơng trình
nghiên cứu do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Trương
Thị Minh Thùy. Khóa luận có sử dụng, trích dẫn ý kiến, quan điểm khoa học của một
số tác giả. Các thơng tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể và chính xác. Các số
liệu, thơng tin được sử dụng trong khóa luận là hồn tồn khách quan và trung thực.
Tác giả

Phan Thanh Tuyền


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁM
SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH ................................................. 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh.................................................................................................................. 5
1.1.1. Khái niệm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ......... 5
1.2.2. Đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh........... 7
1.2.3. Ý nghĩa hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ........... 10
1.2. Quy định pháp luật hiện hành về các hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân ............................................................................................................. 14

1.2.1. Quy định pháp luật hiện hành về xem xét báo cáo công tác .............. 14
1.2.2. Quy định pháp luật hiện hành về xem xét việc trả lời chất vấn ......... 16
1.2.3. Quy định pháp luật hiện hành về xem xét văn bản quy phạm pháp luật
......................................................................................................................... 18
1.2.4. Quy định pháp luật hiện hành về giám sát chuyên đề ........................ 20
1.2.5. Quy định pháp luật hiện hành về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm ............................................................................................................... 22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁM
SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN..................................................................................................................... 27
2.1. Thực trạng pháp luật về các hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh................................................................................................................ 27
2.1.1. Thực trạng pháp luật về xem xét báo cáo công tác ............................. 27
2.1.2. Thực trạng pháp luật về xem xét việc trả lời chất vấn ........................ 29
2.1.3. Thực trạng pháp luật về xem xét văn bản quy phạm pháp luật.......... 32
2.1.4. Thực trạng pháp luật về giám sát chuyên đề ....................................... 34
2.1.5. Thực trạng pháp luật về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm ..... 36
2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh .............................................................................................. 39
2.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xem xét báo cáo công tác............. 39


2.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xem xét việc trả lời chất vấn ........ 41
2.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xem xét văn bản quy phạm pháp
luật ................................................................................................................... 44
2.2.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giám sát chuyên đề ...................... 46
2.2.5. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm ............................................................................................................... 48
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 53

KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................. 54
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

Viết đầy đủ

Viết tắt

1

Hội đồng nhân dân

HĐND

2

Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội

Luật

đồng nhân dân năm 2015
3

Nghị quyết số 85/2014/QH13 ngày 28/11/2014

Hoạt


động

giám sát của Quốc hội
và HĐND năm 2015
Nghị

quyết

số

của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu 85/2014/QH13
tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội,
Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn
4

Nghị quyết số 119/2020/QH14 Thí điểm tổ chức

Nghị

quyết

số

mơ hình Chính quyền đơ thị và một số cơ chế, 119/2020/QH14
chính sách đặc thù phát triển trên thành phố Đà
Nẵng
5

Nghị quyết số 131/2020/QH14 Tổ chức chính
quyền Đơ thị tại thành phố Hồ Chí Minh


6

Nghị quyết số 594/NQ-UBTVQH15 Hướng dẫn

Nghị

quyết

số

131/2020/QH14
Nghị quyết số 594/

hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, NQ-UBTVQH15
Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội
đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và
đại biểu Hội đồng nhân dân
7

Toà án nhân dân

TAND

8

Uỷ ban nhân dân

UBND


9

Văn bản quy phạm pháp luật

VBQPPL

10

Viện kiểm sát nhân dân

VKSND


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giám sát là một trong những chức năng cơ bản, quan trọng của HĐND nói
chung và HĐND cấp tỉnh nói riêng. Nhận thức được tầm quan trọng của chức năng
giám sát đối với hoạt động của Nhà nước, Hiến pháp năm 2013 với tư cách là đạo
luật gốc có giá trị pháp lý cao nhất đã cụ thể hoá thẩm quyền thực hiện chức năng
giám sát của HĐND tại khoản 2 Điều 113 như sau: “HĐND quyết định các vấn đề
của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND”. Như vậy, sự thừa nhận chức năng
giám sát của HĐND trong Hiến pháp thể hiện sự thành công lớn của các nhà lập hiến
trong việc quy định về một chức năng quan trọng của HĐND.
Ngày nay, với tiến trình phát triển của xã hội, xu hướng đề cao vị trí cơ quan
đại diện của Nhân dân được quan tâm hơn. Đồng thời, trước yêu cầu đổi mới về việc
mở rộng dân chủ theo chủ trương của Đảng cùng với quá trình phát triển của cách
mạng nước ta, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung cũng như của
HĐND nói riêng ngày càng được đổi mới. Do đó, việc đổi mới hoạt động giám sát

của HĐND cấp tỉnh là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng và thực sự cấp thiết trong
bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang đề cao vấn đề kiểm sốt quyền lực, nhằm xây
dựng, hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân. Bởi lẽ, để hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh đúng với ý nghĩa của
nó, đáp ứng những đòi hỏi của thực tế cần phải làm tốt các công tác tổ chức thực hiện
như đổi mới, cải tiến về nội dung, phương thức hoạt động, củng cố tổ chức. Tuy
nhiên, có thể nhận thấy, những quy định trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội
và HĐND năm 2015 và các văn bản hiện hành về hoạt động giám sát của HĐND cấp
tỉnh còn mang nặng tính hình thức, chưa thiết kế được những cơ chế phù hợp đáp ứng
được yêu cầu, mong đợi của Nhân dân. Hơn nữa, nhìn chung thì hoạt động giám sát
của HĐND cấp tỉnh hiện nay vẫn chưa thực sự nổi bật, chưa có chiều rộng và chiều
sâu. Bởi lẽ, những quy định của pháp luật về hoạt động giám sát hiện nay vẫn chưa
thực sự đủ sức mạnh để hoạt động giám sát phát triển đúng với vị trí vốn có của
HĐND cấp tỉnh. Có nhiều lý do, khơng chỉ xuất phát từ những quy định của pháp
luật chưa thật sự phù hợp, mà cịn vì nhiều ngun nhân khách quan, chủ quan khác
đã tác động, ảnh hưởng ở các mức độ và phạm vi khác nhau. Cụ thể là, từ các yếu tố
tổ chức bộ máy nhà nước, các cơ chế, điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát,
trong đó, quan trọng nhất là xuất phát từ nhận thức và những đòi hỏi, yêu cầu của
thực tiễn hiện nay. Mặc dù trong thời gian qua, những vấn đề này đã được quan tâm,


2
nghiên cứu nhưng các cơng trình vẫn chưa tập trung tìm hiểu sâu và tồn diện về hoạt
động giám sát của HĐND cấp tỉnh. Với tất cả lý do trên, tác giả chọn đề tài “Hoàn
thiện quy định pháp luật về các hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh” để nghiên cứu nhằm góp phần hồn thiện những bất cập trong quy định của
pháp luật về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu vấn đề hồn thiện quy
định pháp luật về các hoạt động giám sát của HĐND nói chung và giám sát của

HĐND cấp tỉnh nói riêng.
Đầu tiên có thể nhắc đến Luận án Tiến sĩ “Hoàn thiện pháp luật về hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân” của tác giả Nguyễn Hải Long được thực hiện vào
năm 2012. Mặc dù Luận án này nghiên cứu trực tiếp đến pháp luật về hoạt động giám
sát của HĐND nhưng Luận án này nghiên cứu với phạm vi rất rộng, nghiên cứu cả
pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Bên cạnh
đó, Luận văn Thạc sĩ “ Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường từ thực
tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Hùng Vương được thực hiện vào
năm 2019. Mặc dù các vấn đề lý luận về hoạt động giám sát của HĐND được tác giả
phân tích khá kỹ nhưng về cơ bản Luận văn chỉ đề cập đến các hoạt động giám sát
của HĐND phường. Đối với những cơng trình nghiên cứu này, tác giả có thể kế thừa
những vấn đề lý luận về hoạt động giám sát của HĐND, một số thực trạng liên quan
đến các hoạt động giám của HĐND cấp tỉnh và những ý tưởng, kiến nghị để hoàn
thiện sự giám sát này.
Ngồi ra, cịn có một số cơng trình nghiên cứu khác về vấn đề này: Sách chuyên
khảo “Chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân” của GS. TS Nguyễn Đăng Dung
được xuất bản vào năm 2016 của Nxb. Tư pháp, Hà Nội đã giới thiệu chức năng giám
sát của HĐND trên thế giới, phân tích chức năng giám sát của Hội đồng địa phương
trên thế giới và phân tích chức năng của HĐND Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp để
nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND. Mặc dù việc giám sát của HĐND được các
tác giả phân tích khá cụ thể nhưng vấn đề giám sát của HĐND cấp tỉnh cũng chỉ được
đề cập một cách khái qt.
Một số cơng trình nghiên cứu khác về hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh
cũng được thể hiện dưới hình thức các bài viết đăng trên tạp chí khoa học như: bài
viết “Quan niệm về giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước và các cơ chế thực
hiện giám sát” của GS. TS Đào Trí Úc đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật năm
2003; bài viết “Bàn về đối tượng giám sát của Hội đồng nhân dân” của tác giả


3

Nguyễn Hải Long đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 08 (168)/Kỳ 1, tháng
04/2010; bài viết, “Một số ý kiến về Dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân”, của tác giả Lê Xuân Thân đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp số 21 (301)/Kỳ 1, tháng 11/2015; bài viết “Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” của ThS. Hà Ngọc Anh đăng
trên Tạp chí Tổ chức Nhà nước, cơ quan của Bộ Nội vụ năm 2016; bài viết “Một số
vấn đề lý luận và pháp lý về giám sát của Hội đồng nhân dân” của tác giả Trần Thị
Ngọc Hiếu đăng trên Tạp chí Cơng thương năm 2021; bài viết “Nâng cao chất lượng
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” của tác giả Nguyễn Hữu Hào
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7 (383)/Kỳ 1, tháng 4/2019; bài viết “Hoàn
thiện pháp luật về hoạt động lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội” của tác giả Trương
Thị Minh Thùy đăng trên Tạp chí Nghiên cứu – trao đổi năm 2020. Tuy nhiên, nội
dung của các bài viết này chỉ tập trung ở một khía cạnh của vấn đề nhất định, chưa đi
sâu vào phân tích vấn đề về hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh.
Như vậy, qua tình hình nghiên cứu trên ta có thể thấy, cho đến nay chưa có một
cơng trình nào nghiên cứu sâu, tồn diện và có tính hệ thống về các hoạt động giám
sát của HĐND cấp tỉnh. Tuy nhiên, các cơng trình trên đều là cơ sở, nền tảng để khóa
luận kế thừa và phát triển những mặt ưu điểm, hạn chế của các đề tài đã nghiên cứu
trên để tiếp tục hoàn thiện cũng như đề xuất những giải pháp có giá trị thực tiễn nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh trong thời gian tới.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài bao gồm:
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận và pháp luật về các hoạt động giám sát của HĐND
cấp tỉnh.
Thứ hai, phân tích thực trạng quy định pháp luật về hoạt động giám sát của
HĐND cấp tỉnh để chỉ ra những hạn chế, bất cập trong những quy định của pháp luật
và thực tiễn thực hiện; đồng thời đề ra những phương hướng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh.
4. Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Về phạm vi nghiên cứu, trong giới hạn đề tài, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu

những vấn đề trọng tâm về 05 hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh tại Điều 57
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015; không nghiên cứu về
các hoạt động giám sát của Thường trực HĐND, Ban của HĐND. Đồng thời, tác giả
làm rõ các quy định về hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh trong Nghị quyết Tổ
chức chính quyền đơ thị tại thành phố Hồ Chí Minh, Nghị quyết Thí điểm tổ chức mô


4
hình Chính quyền đơ thị tại thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó, đề tài chỉ ra những
bất cập còn tồn tại về mặt pháp lý và thực trạng của vấn đề này cũng như những kiến
nghị hoàn thiện.
Về phương pháp nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích: trong Chương 1, phương pháp này được sử dụng để
phân tích, lý giải về cơ sở lý luận của hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh như:
phân tích khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh;
phân tích quy định pháp luật về các hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh. Trong
Chương 2, phương pháp này được sử dụng để phân tích thực trạng thực hiện hoạt
động giám sát của HĐND cấp tỉnh từ đó chỉ ra những bất cập cịn tồn đọng và kiến
nghị hoàn thiện.
- Phương pháp so sánh: trong Chương 1, phương pháp này được sử dụng để so
sánh các khái niệm về “giám sát” theo từng quan điểm của các học giả.
- Phương pháp thống kê: trong Chương 2, phương pháp này được sử dụng để
tổng hợp các quy định pháp luật có liên quan cũng như các số liệu, báo cáo từ thực
tiễn hoạt động giám sát làm cơ sở để phân tích, đánh giá các vấn đề pháp lý.
- Phương pháp tổng hợp: phương pháp này được sử dụng kết hợp với phương
pháp phân tích để đưa ra những kết luận cuối cùng mà đề tài hướng tới.
5. Cơ cấu đề tài
Ngoài Mục lục, Danh mục từ viết tắt, Phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh
mục tài liệu tham khảo, khóa luận được chia thành 02 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về các hoạt động giám sát của HĐND cấp

tỉnh
Chương 2: Thực trạng pháp luật về các hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh
và kiến nghị hoàn thiện


5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CÁC
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh
1.1.1. Khái niệm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Có nhiều khái niệm về thuật ngữ “giám sát” được đưa ra, tuỳ theo nội dung
nghiên cứu mà nội hàm của thuật ngữ này được khái quát theo nhiều cách khác nhau
cho phù hợp.
Thứ nhất, dưới góc độ ngơn ngữ học, theo Từ điển tiếng Việt, giám sát có nghĩa
là “theo dõi, kiểm tra việc thực thi nhiệm vụ”.1 Còn theo Từ điển giải thích thuật ngữ
hành chính thì giám sát là “sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động
thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và
hướng hoạt động của đối tượng chịu giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế, nhằm đạt
được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được
tuân thủ nghiêm minh”.2 Có thể thấy, cách diễn đạt và biểu thị ý nghĩa của thuật ngữ
“giám sát” của Từ điển tiếng Việt còn khá đơn giản, ngắn gọn, chưa biểu lộ hết nội
dung cũng như bản chất pháp lý của “giám sát” như Từ điển giải thích thuật ngữ
hành chính. Tuy nhiên, qua đó, có thể thấy, các định nghĩa trên đã phần nào đề cập
đến nội dung cơ bản của giám sát, đó là hoạt động theo dõi, quan sát một cơ quan, tổ
chức hay cá nhân nào đó trong việc thực hiện pháp luật có đúng với yêu cầu đã được
xác định trước hay không.
Thứ hai, dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm “giám sát” được đề cập trong
nhiều cơng trình nghiên cứu. Cụ thể, Tiến sĩ Đặng Đình Tân định nghĩa giám sát là
“sự theo dõi, quan sát của một chủ thể mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và

sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối
tượng đi đúng quỹ đạo, đúng quy chế nhằm giới hạn quyền lực, đảm bảo cho pháp
luật được tuân thủ nghiêm minh”.3 Còn theo Tiến sĩ Nguyễn Hải Long thì giám sát
là “sự theo dõi, quan sát, kiểm tra hoạt động của chủ thể có quyền đối với chủ thể
khác để biết đối tượng bị giám sát có thực thi đúng, đủ theo quy định hay không và
quy định về hành vi đối tượng giám sát phải thực hiện có phù hợp với điều kiện thực

1

Nguyễn Như Ý (2002), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội, tr. 728.
Mai Hữu Khê, Bùi Văn Nhơn (2002), Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính, Nxb. Lao động, Hà Nội, tr.
261.
3
TS. Đặng Đình Tân (2006), Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam trong thời kì đổi mới, Nxb.
Chính trị Quốc gia, tr. 14-15.
2


6
tiễn hay không và làm rõ được nguyên nhân của sự vi phạm, sự không phù hợp này”.4
Những cách diễn đạt trên về thuật ngữ “giám sát” nêu trên là có sự tương đồng nhất
định với nhau, nhìn chung đều thể hiện được hai nội dung cơ bản, đó là theo dõi và
đánh giá. Hoạt động giám sát mang bản chất hoạt động theo dõi, quan sát, xem xét
đối với một đối tượng nhất định, từ đó đưa ra nhận định về một việc làm nào đó đã
thực hiện đúng hay sai so với quy định hiện hành. Hơn nữa, với những quan niệm
này, có thể thấy, giám sát là hoạt động có mục đích, đồng thời hoạt động này được
thực hiện bởi sự uỷ quyền của Nhân dân để giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước
ở địa phương. Theo đó, mục đích của hoạt động này nhằm bảo đảm cho sự hoạt động
đúng đắn, minh bạch, liên tục của các cơ quan, tổ chức trên cơ sở tuân thủ pháp luật.
Bên cạnh đó, hoạt động giám sát gắn với một chủ thể giám sát và một đối tượng bị

giám sát nhất định. Hoạt động này trải qua hai giai đoạn, bao gồm giai đoạn theo dõi,
quan sát và giai đoạn đánh giá, đưa ra kết luận. Trong đó, giai đoạn theo dõi, quan
sát là tiền đề để thực hiện giai đoạn đánh giá và việc theo dõi, xem xét, nếu làm tốt
thì việc đánh giá sẽ đúng đắn, chính xác, cuộc giám sát sẽ có kết quả tích cực và
ngược lại.
Thứ ba, dưới góc độ pháp lý, Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và
HĐND năm 2015 quy định: “Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân
theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý
theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”.5 Như vậy,
hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh theo quy định này được hiểu là các hoạt động
mà HĐND thực hiện, bao gồm: giám sát, theo dõi, đánh giá các hoạt động của cơ
quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát của HĐND trong việc tuân theo Hiến pháp
và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Từ đó, HĐND có thể
đưa ra các biện pháp xử lý theo thẩm quyền của HĐND hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ
quan có thẩm quyền xử lý. Song, có thể thấy, điểm khác biệt cơ bản giữa khái niệm
của Luật so với khái niệm giám sát theo Từ điển Tiếng Việt và quan điểm giám sát
của Tiến sĩ Nguyễn Hải Long thì khái niệm giám sát theo khoản 1 Điều 2 của Luật
thiếu quy định về hoạt động “kiểm tra”. Theo đó, có thể thấy, nếu HĐND khơng
“kiểm tra” thì những vấn đề trong q trình giám sát, khi HĐND thấy cịn nghi ngờ,
cần phải tìm hiểu thêm thì khi báo cáo lại khơng có cơ chế thực hiện. Vì khi HĐND
thực hiện hoạt động báo cáo thì HĐND phải kiểm tra lại, đi thực tế, thậm chí phải
4

ThS. Nguyễn Hải Long (2010), “Bàn về đối tượng giám sát của Hội đồng nhân dân”, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp số 08(168)/Kỳ 1, tháng 04/2010, tr. 17.
5
Khoản 1 Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015.



7
xem văn bản.6 Do đó, theo tác giả, nếu HĐND khơng thực hiện kiểm tra thì khơng
thể đưa ra được kết luận, khơng thể đánh giá một cách chính xác nên khó có thể đánh
giá một cách khách quan, tồn diện vấn đề.
Từ những phân tích trên, theo quan điểm của tác giả, hoạt động giám sát của
HĐND cấp tỉnh được hiểu là “tổng thể các hoạt động của HĐND, Thường trực của
HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu HĐND cấp tỉnh nhằm xem xét, theo dõi,
kiểm tra, đánh giá việc chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, các văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên, các Nghị quyết của HĐND trên các lĩnh vực của địa phương
đối với các đối tượng chịu sự giám sát của HĐND cấp tỉnh, từ đó đưa ra kết luận và
những phương pháp xử lý phù hợp để khắc phục những hạn chế, phát huy mọi tiềm
năng, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hố, xã hội, đảm bảo quốc phịng an ninh
của địa phương”. Theo đó, cách giải thích “hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh”
của tác giả đã xác định những vấn đề quan trọng của hoạt động giám sát: Một là, làm
rõ chủ thể thực hiện giám sát, bao gồm: HĐND, Thường trực của HĐND, các Ban
của HĐND và đại biểu HĐND cấp tỉnh; Hai là, chỉ ra được đối tượng giám sát của
HĐND cấp tỉnh là các đối tượng chịu sự giám sát của HĐND cấp tỉnh; Ba là, nêu
cách thức tiến hành giám sát gồm: xem xét, theo dõi, kiểm tra, đánh giá; Bốn là, giới
hạn nội dung hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh gồm việc giám sát việc chấp
hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, các Nghị
quyết của HĐND trên các lĩnh vực của địa phương.
1.2.2. Đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Thứ nhất, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh là hoạt động mang tính quyền
lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước được xem là khả năng của Nhà nước buộc các cá nhân, tổ
chức khác trong xã hội phải phục tùng Nhà nước, dựa trên những ưu thế mà Nhà nước
có được so với các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội.7 Quyền lực nhà nước được
thực hiện bởi các cơ quan nhà nước trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, pháp luật.
Các cơ quan nhà nước “được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật, nhân
danh Nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước”8 và “chỉ có cơ quan nhà nước mới có

6

Phát biểu của Đại biểu Bùi Mạnh Hùng – Bình Phước trong Bản tổng hợp thảo luận về dự án Luật hoạt động
giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân tại hội trường (ghi theo băng ghi âm), buổi chiều ngày 09/6/2015,
truy cập ngày 03/5/2023.
7
GS. TS Nguyễn Minh Đoan (2022), “Thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp,
viện
nghiên
cứu
lập
pháp
thuộc
Uỷ
ban
thường
vụ
quốc
hội,
truy cập ngày
15/5/2023.
8
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, tr.
97.


8
quyền nhân danh cả Nhà nước để thực thi quyền lực nhà nước”9 hoặc “chỉ cơ quan
nhà nước mới được giao quyền nhân danh Nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước”.10

Do vậy, Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và
thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Thế nên, có thể hiểu, hoạt động giám
sát của HĐND là việc cơ quan này thay mặt Nhân dân để tiến hành giám sát các hoạt
động của các cơ quan nhà nước. Bởi lẽ, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, vì thế giám sát của HĐND là giám sát của cơ quan quyền lực, mang tính
quyền lực.11 Do đó, giám sát của HĐND nói chung và HĐND cấp tỉnh nói riêng là
hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, mang tính quyền lực nhà nước. Đây được
xem là một yếu tố cấu thành nên quyền lực nhà nước, không tách rời quyền lực nhà
nước. Hơn nữa, xét về bản chất, việc thực hiện quyền giám sát của HĐND cấp tỉnh
là việc HĐND thay mặt Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước do chính Nhân dân
giao cho. Bởi Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua cơ quan đại diện cho
ý chí và nguyện vọng của Nhân dân, do Nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước
Nhân dân.12
Mặt khác, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh còn là hoạt động mang tính
đặc thù. Bởi lẽ, về cơ bản, giám sát của HĐND cấp tỉnh tồn tại một số điểm khác biệt
nhất định so với giám sát của Đảng, giám sát của Quốc hội hay giám sát của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội. Theo đó, khi xét đến tính tương
quan trong hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh với hoạt động giám sát của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thì đối với tổ chức này có phạm vi
rộng lớn, bao trùm lên tồn bộ bộ máy nhà nước theo Điều 9, Hiến pháp năm 2013.
Tuy nhiên, có thể thấy, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khơng
mang tính quyền lực nhà nước mà là hoạt động giám sát mang tính xã hội13, hỗ trợ
cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước. Do đó, hoạt động này khơng
áp dụng các hình thức, phương pháp mang tính quyền lực nhà nước như đối với

9

Đại học quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học quốc gia
Hà Nội, tr. 113.

10
Đại học quốc gia Hà Nội (1998), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội, tr. 56 và Học viện Hành chính quốc gia (2001), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp
luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 65.
11
GS. TS Nguyễn Đăng Dung (2016), Chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân, sách chuyên khảo, tr. 144.
12
Vũ Thị Hương (2018), Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Điện Biên theo Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 - Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 16.
13
Khoản 2 Điều 25 Luật Mặt trận tổ quốc năm 2015.


9
HĐND mà mang tính Nhân dân dưới các hình thức theo dõi, phát hiện, nhận xét, phản
biện.
Thứ hai, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh là một chức năng cơ bản của
HĐND.
Giám sát là một trong những chức năng cơ bản, hợp lệ của HĐND. Bởi lẽ, với
tư cách là thiết chế do cử tri địa phương bầu ra, đại diện cho cử tri14, HĐND thay mặt
Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước mà Nhân dân ủy quyền tiến hành theo dõi,
xem xét, kiểm tra hoạt động của các cá nhân, đơn vị, tổ chức chịu sự giám sát đã làm
đúng hay sai, tốt hay chưa tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, cũng như việc ban hành
những nghị quyết có phù hợp với thực tiễn hay khơng. Từ đó HĐND có những kiến
nghị xử lý tránh lạm dụng quyền lực, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân.15
Với bản chất là Nhà nước pháp quyền, mọi vấn đề liên quan đến địa phương do
HĐND cấp tỉnh tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Nhiều
vấn đề lớn của địa phương sau khi được HĐND quyết định thì phải tiến hành giám
sát việc tổ chức thực hiện. Qua đó, HĐND có thể xem xét điều chỉnh, bổ sung mới

cho phù hợp với thực tế, chức năng này luôn song hành với cơ quan dân cử nhằm
nâng cao chất lượng về hiệu quả giám sát đáp ứng nguyện vọng của cử tri. Trên cơ
sở chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, HĐND cấp tỉnh sẽ
quyết định những vấn đề cụ thể cho tỉnh mình và theo dõi các hoạt động của các cơ
quan chấp hành của mình, kiểm tra tính khả thi của những chính sách, phương pháp
mà địa phương áp dụng trong thực tiễn để đưa ra những giải pháp đúng đắn, phù hợp.
Thứ ba, chủ thể và đối tượng trong hoạt động giám sát của HĐND tỉnh được
quy định chặt chẽ, cụ thể.
Giám sát luôn gắn với những chủ thể nhất định, chủ thể giám sát của HĐND
cấp tỉnh ngày càng được mở rộng và quy định chặt chẽ hơn, từ các hoạt động giám
sát, chương trình giám sát, đến các hoạt động như: xem xét báo cáo, chất vấn và trả
lời chất vấn, xem xét các VBQPPL, giám sát chuyên đề, bỏ phiếu tín nhiệm,… Việc
quy định rõ ràng chủ thể thực hiện cũng như các hoạt động giám sát cụ thể của HĐND
đã tạo nên cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc thực hiện các hoạt động giám sát của HĐND
tỉnh trên thực tế.16 Ngoài ra, chủ thể của hoạt động giám sát phải có những nhiệm vụ,
quyền hạn nhất định đối với đối tượng chịu sự giám sát. Nói cách khác, hoạt động

14

GS. TS Nguyễn Đăng Dung (2016), sđd (11), tr. 82.
Nguyễn Hùng Vương (2019), Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường từ thực tiễn thành phố
Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 16.
16
Nguyễn Hùng Vương (2019), tlđd (15), tr. 17.
15


10
giám sát phải được tiến hành dựa trên những quy định do chủ thể có quyền giám sát
đặt ra.

Bên cạnh đó, đối tượng giám sát của HĐND cấp tỉnh cũng là một yếu tố quan
trọng để phân biệt với hoạt động giám sát của Quốc hội hay của Mặt trận Tổ quốc.
Theo pháp luật hiện hành, có thể thấy, đối tượng của hoạt động giám sát của HĐND
khá rộng, bao gồm: Thường trực HĐND, Ban của HĐND, UBND, TAND, VKSND,
cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, HĐND cấp huyện,… Theo đó, Thường trực
HĐND và Ban của HĐND là các cơ quan nằm trong tổ chức của HĐND cấp tỉnh,
đây là những cơ quan, tổ chức do HĐND bầu trực tiếp nên HĐND cấp tỉnh có quyền
xử lý khi có vi phạm. Do đó, trong q trình hoạt động và làm việc, HĐND cấp tỉnh
cũng giám sát luôn cả hoạt động của các cơ quan này nhằm đảm bảo sự kiểm tra,
giám sát của Nhân dân luôn được theo sát từng hoạt động của cơ quan nhà nước. Còn
UBND là đối tượng giám sát thường xuyên, quan trọng nhất của HĐND, bởi UBND
là cơ quan chấp hành của HĐND, có chức năng, nhiệm vụ thực hiện những nội dung
mà HĐND đã quyết định. Bên cạnh đó, so với hoạt động giám sát của HĐND cấp
huyện, cấp xã thì đối tượng của hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh có phạm vi
rộng nhất.17 Hơn nữa, với đặc điểm hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh là luôn
gắn liền với một đối tượng cụ thể giúp ta có thể phân biệt được giữa giám sát và kiểm
tra. Bởi lẽ, nếu nói đến kiểm tra thì chủ thể hoạt động kiểm tra và đối tượng chịu sự
tác động này có thể là một. Đó là trường hợp chính chủ thể tự kiểm tra hoạt động của
chính mình. Tức là chủ thể này tự xem xét, đánh giá tình trạng tốt xấu của cơng việc
mình đang làm để từ đó có hướng khắc phục, sửa chữa. Nhưng trong hoạt động giám
sát thì khơng thể xảy ra tình trạng tự chủ thể hoạt động quan sát chính hành vi của
chính mình mà phải là hoạt động xem xét, theo dõi, kiểm tra, đánh giá được thực hiện
thông qua một chủ thể khác, cụ thể là HĐND cấp tỉnh để từ đó đưa ra kết luận và xử
lý.
1.2.3. Ý nghĩa hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Thứ nhất, hoạt động giám sát đảm bảo cho HĐND cấp tỉnh thực sự là cơ quan
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân trên tinh thần của
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân.
Giám sát của HĐND là giám sát của cơ quan đại diện của Nhân dân, do Nhân
dân bầu ra và được Nhân dân ủy quyền. Do đó, giám sát của HĐND cấp tỉnh có ý

nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm quyền lực thuộc về Nhân dân, phát huy quyền làm
chủ của Nhân dân, đồng thời, đảm bảo cho các hoạt động đó phục vụ lợi ích, ý chí,
17

Nguyễn Hùng Vương (2019), tlđd (15), tr. 17-18.


11
nguyện vọng của Nhân dân.18 Hơn nữa, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh còn
đảm bảo cho người dân địa phương trong việc thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của
mình đối với hoạt động của bộ máy nhà nước.19 Bởi lẽ, thông qua công tác giám sát
của HĐND, hoạt động của các cơ quan nhà nước sẽ được đặt dưới sự kiểm tra, giám
sát chặt chẽ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, khắc phục tính cục bộ địa phương, ngăn
chặn, đẩy lùi những tiêu cực trong bộ máy nhà nước. Đây chính là điều kiện bảo đảm
vững chắc cho quyền lực của Nhân dân được thực hiện trong thực tế.20
Thứ hai, hoạt động giám sát đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết của
HĐND cấp tỉnh được chấp hành, thực hiện nghiêm chỉnh trên phạm vi địa phương.
Giám sát của HĐND cấp tỉnh đảm bảo việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật ở
địa phương. Bởi lẽ, thông qua hoạt động giám sát, HĐND cấp tỉnh sẽ có thể kịp thời
phát hiện những việc trái quy định pháp luật của cơ quan nhà nước để kịp thời sửa
chữa, khắc phục sai phạm, đảm bảo quyền, lợi ích của cá nhân tổ chức, Nhà nước.
Bên cạnh đó, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh còn giúp HĐND kịp thời phát hiện
những VBQPPL do chính quyền địa phương ban hành trái với Hiến pháp, pháp luật
và nghị quyết của HĐND tỉnh, phát hiện những mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn
bản pháp luật do cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành để đình chỉ việc thực hiện,
sửa đổi bãi bỏ, tạo sự thống nhất trong hệ thống các VBQPPL.21 Điều này đúng với
tinh thần quy định trong Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động
theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ”.22 Hơn nữa, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh
còn nhằm đưa ra những nhận định chính xác của chủ thể có quyền giám sát đối với

hoạt động của đối tượng giám sát, qua đó có biện pháp xử lý đối với những việc làm
trái quy định của đối tượng chịu sự giám sát, bảo đảm cho những quy định của chủ
thể có quyền giám sát được chấp hành đúng.

18

ThS. Lê Thị Tươi (2022), “Vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân với việc bảo đảm tất cả quyền lực thuộc
về Nhân dân, Tạp chí Quản lý Nhà nước, truy cập ngày 27/03/2023.
19
Nguyễn Hải Long (2012), Hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Luận án
Tiến sĩ Luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội tr. 47-48.
20
ThS. Hà Ngọc Anh (2016), “Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh”,
Tạp
chí
Tổ
chức
Nhà
nước,

quan
của
Bộ
Nội
vụ,
/>nhan_dan_cap_tinhall.html, truy cập ngày 26/03/2022.
21
Nguyễn Hùng Vương (2019), tlđd (15), tr. 23-24.
22

Điều 8 Hiến pháp năm 2013.


12
Thứ ba, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh có ý nghĩa quan trọng trong
việc tăng cường chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương và bộ máy nhà
nước.
Việc thực hiện chức năng giám sát của HĐND tạo ra sự thống nhất cao trong
xây dựng, áp dụng pháp luật ở địa phương, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của bộ máy chính quyền, đồng thời giúp HĐND có thơng tin, căn cứ khoa học, thực
tiễn để ban hành nghị quyết phù hợp với yêu cầu thực tế. Giám sát của HĐND cấp
tỉnh là một hoạt động quan trọng, nhất là trong bối cảnh chính quyền địa phương phát
huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm trước trung ương và Nhân dân. Đồng thời,
qua giám sát có thể theo dõi, giám sát, đôn đốc để các cơ quan nhà nước hoạt động
đúng chức năng, nhiệm vụ được giao. Ngồi ra, đây cũng là cơng cụ quan trọng trong
việc tạo đựng được sự cân bằng trong bộ máy nhà nước, có vai trị thúc đẩy UBND,
TAND, VKSND cấp tỉnh cũng như cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thực thi đúng pháp
luật, đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động quản lý nhà nước. Hơn nữa, việc pháp
luật quy định về hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh còn là cơ sở quan trọng trong
việc tạo dựng sự cân bằng trong việc quản lý nhà nước, có vai trò thúc đẩy các cơ
quan, tổ chức, cá nhân thực thi đúng tinh thần pháp luật để góp phần đem lại hiệu quả
cao nhất trong hoạt động quản lý nhà nước. Bởi lẽ, trong mọi hoạt động quản lý nhà
nước và xã hội thì “giám sát” là hoạt động không thể thiếu của lãnh đạo đối với người
bị lãnh đạo. Nếu thiếu hoặc yếu trong hoạt động giám sát thì người, cơ quan lãnh đạo
sẽ trở thành quan liêu, khơng thực quyền.23 Bên cạnh đó, xuất phát từ câu chuyện lý
luận luôn đi sau thực tiễn nên mọi cách thức, biện pháp, giải pháp được ứng dụng đều
cần thời gian thử nghiệm, rút kinh nghiệm và đi vào thực tiễn cuộc sống. Do đó, hoạt
động giám sát của HĐND cấp tỉnh có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường chất
lượng hoạt động của chính quyền địa phương và bộ máy nhà nước.
Thứ tư, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh góp phần làm trong sạch, vững

mạnh bộ máy chính quyền, các cơ quan nhà nước ở địa phương.
Hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh nhằm đảm bảo thực hiện một cách có
hiệu quả, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, đảm bảo pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Bởi lẽ, hoạt động giám sát là một trong những cách thức để tăng cường
tiếng nói, nhằm tăng tính minh bạch của người dân trong hoạt động của chính quyền
địa phương. Theo đó, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh là cơ sở để đảm bảo
các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân ở địa phương được giao quyền, thực hiện
đúng quyền hạn mà Nhà nước giao, kiểm soát việc thực hiện quyền lực, đánh giá hiệu
23

ThS. Lưu Trung Thành (2004), “Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân”, Tạp chí Luật học, tr. 13.


13
quả của việc sử dụng quyền lực của cơ quan nhà nước ở địa phương. Đồng thời, hạn
chế sự tiêu cực, sự lạm quyền của cơ quan, tổ chức được trao quyền cũng như góp
phần cải thiện lịng tin của cơng chúng vào chính quyền. Hơn nữa, thơng qua hoạt
động giám sát của HĐND còn giúp tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tổ chức,
cá nhân chịu sự giám sát. Điều này tạo sức ép cũng như tâm lý bắt buộc các cơ quan,
tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát phải báo cáo trung thực, khách quan, đầy đủ kịp
thời những yêu cầu của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giám sát. Ngồi ra, hoạt động
giám sát của HĐND còn để các cơ quan được giám sát phải nghiêm chỉnh chấp hành
nghị quyết giám sát của HĐND, đảm bảo thực hiện kiến nghị của HĐND, thường
trực HĐND, các ban HĐND, tổ đại biểu HĐND và đại biểu HĐND. Bởi lẽ, trong
trường hợp, các chủ thể bị giám sát không thực hiện nghị quyết kiến nghị theo yêu
cầu của chủ thể giám sát thì chủ thể giám sát có quyền yêu cầu tổ chức có thẩm quyền
cấp trên xem xét xử lý, trách nhiệm cơ quan tổ chức cá nhân đó nếu vi phạm chính
sách pháp luật. Hơn nữa, giám sát của HĐND nhằm phát hiện những điểm chưa phù
hợp của các đối tượng chịu giám sát để kiến nghị các biện pháp khắc phục.24
Thứ năm, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh góp phần vào phát triển kinh

tế - xã hội.
Phát triển kinh tế, xã hội rất cần sự minh bạch trong hoạt động của bộ máy nhà
nước, sự tuân thủ đúng các quy định của luật pháp trong quản lý và điều hành hoạt
động của bộ máy nhà nước. Do đó, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh góp phần
rất tích cực trong cơng cuộc phát triển kinh tế - xã hội, bởi HĐND thơng qua hoạt
động giám sát sẽ kiểm sốt phần lớn bộ máy nhà nước về mọi mặt của đời sống từ
cấp tỉnh đến cấp cơ sở. Đồng thời, giám sát về mặt kinh tế của HĐND cấp tỉnh còn
chống lại sự lãng phí, sự thiếu trung thực và đảm bảo hiệu quả. Trọng tâm khi đó là
tìm kiếm giá trị của đồng tiền: Liệu các nghị quyết của HĐND cấp tỉnh có được thực
thi theo cách có hiệu quả với chi phí được bỏ ra hay khơng?25 Theo đó, hoạt động
giám sát của HĐND có ba mục tiêu chính, trong đó có mục tiêu giám sát về mặt kinh
tế nhằm kiểm tra tính hiệu quả, chống lại sự lãng phí trong hoạt động của bộ máy nhà
nước. Có thể nói, đây là nội dung giám sát tương đối khó, vì việc xác định một nghị
quyết của HĐND đem lại lợi ích cao hơn hoặc chí ít là cân bằng với chi phí bỏ ra hay
khơng là rất khó khăn. Do đó, hoạt động giám sát khơng chỉ nhằm mục đích theo dõi,
giám sát, xem xét, đánh giá phù hợp tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động của các
đối tượng chịu sự giám sát mà cịn có thể đem lại nhiều kết quả cho công tác hoạch
24
25

ThS. Lê Thị Tươi (2022), tlđd (18).
GS. TS Nguyễn Đăng Dung (2016), sđd (11), tr. 86.


14
định chính sách và xây dựng pháp luật, phục vụ cho việc khơng ngừng đổi mới tổ
chức và góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội.
1.2. Quy định pháp luật hiện hành về các hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân
1.2.1. Quy định pháp luật hiện hành về xem xét báo cáo công tác

Xem xét báo cáo công tác của các đối tượng thuộc quyền giám sát của HĐND
theo quy định của pháp luật là hình thức giám sát cơ bản và quan trọng của HĐND
cấp tỉnh.
Thứ nhất, quy định pháp luật về loại báo cáo mà HĐND cấp tỉnh xem xét.
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 59 Luật Hoạt động giám sát của Quốc
hội và HĐND 201526 thì có thể thấy, những quy định này là căn cứ quan trọng để
HĐND cấp tỉnh xem xét, thông qua các dự thảo nghị quyết đảm bảo chất lượng để
đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương, góp phần tổ
chức thực hiện các mục tiêu đề ra. Các loại báo cáo này được sử dụng để làm tài liệu
giám sát do chúng đã cung cấp thơng tin để góp phần minh bạch hóa q trình hoạt
động của chính quyền địa phương, làm tăng trách nhiệm giải trình. Ngồi ra, có thể
thấy, trong tất cả bốn chủ thể giám sát của HĐND, bao gồm: (i) HĐND; (ii) Thường
trực HĐND; (iii) các Ban của HĐND; (iv) đại biểu HĐND, thì hình thức xem xét báo
cáo công tác kể trên chỉ thuộc về thẩm quyền của HĐND. Đây là hoạt động thường
niên vừa thực hiện hoạt động giám sát mà Đảng và Nhà nước giao phó, vừa thực hiện
hoạt động tổng kết chung về tình hình thực hiện hoạt động giám sát của HĐND. Kết
quả của hoạt động giám sát được thông báo rộng rãi với cử tri trên các phương tiện
truyền thông đại chúng và hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND. Bên cạnh
đó, đối với các địa phương thực hiện tổ chức chính quyền đơ thị như thành phố Hồ
Chí Minh, thí điểm tổ chức chính quyền đơ thị như thành phố Đà Nẵng thì HĐND
cấp tỉnh cịn có thêm trách nhiệm là xem xét báo cáo cơng tác của UBND quận,
phường, TAND quận, VKSND quận.27

26

Theo đó, HĐND xem xét các báo cáo sau đây: Một là, báo cáo công tác 06 tháng, hằng năm của Thường
trực HĐND, Ban của HĐND, UBND, TAND, VKSND, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh; Hai là, báo cáo
công tác nhiệm kỳ của Thường trực HĐND, Ban của HĐND, UBND, TAND, VKSND cấp tỉnh; Ba là, báo
cáo của UBND về kinh tế - xã hội; báo cáo của UBND về thực hiện ngân sách nhà nước, quyết toán ngân sách
nhà nước của địa phương; báo cáo của UBND về cơng tác phịng, chống tham nhũng; báo cáo của UBND về

thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; báo cáo của UBND về cơng tác phịng, chống tội phạm và vi phạm pháp
luật; báo cáo của UBND về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cử tri; Bốn là, báo cáo về việc
thi hành pháp luật trong một số lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật; Năm là, báo cáo khác theo đề nghị
của Thường trực HĐND.
27
Điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 131/2020/QH14; điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị
quyết số 119/2020/QH14.


15
Thứ hai, quy định pháp luật về thời điểm xem xét báo cáo.
Theo đó, căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 59 Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội và HĐND năm 201528 thì việc quy định cụ thể các loại báo cáo và thời điểm
xem xét kiểm tra báo cáo giúp cho việc tổ chức và thực hiện công việc trở nên khoa
học, dễ dàng, rõ ràng nhằm đạt được hiệu quả tối ưu. Bởi lẽ, khi thực hiện hình thức
giám sát này, HĐND cấp tỉnh xem xét, đánh giá nội dung báo cáo công tác cả các cơ
quan nói trên, thơng qua đó cũng có thể khẳng định những ưu điểm và đồng thời, có
thể chỉ ra và phân tích những hạn chế, yếu kém cịn tồn tại, những vi phạm pháp luật
nếu có. Quy định về thời điểm hợp lý giúp HĐND chủ động hơn trong việc xác định
được những nguyên nhân khách quan, chủ quan của sự trì trệ, những vi phạm pháp
luật trong công tác của các đối tượng thuộc quyền giám sát của HĐND và trong
trường hợp cần thiết HĐND áp dụng các biện pháp pháp lý thuộc phạm vi thẩm quyền
của HĐND theo quy định của pháp luật.29
Thứ ba, quy định pháp luật về trình tự xem xét báo cáo.
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 cũng quy định rõ
trình tự xem xét các báo cáo của các cơ quan trên tại kỳ họp của HĐND theo quy
định tại khoản 4 Điều 59.30 Nhìn chung, quy định về trình tự như trên giúp cho người
đứng đầu các cơ quan tham gia vào kỳ họp HĐND chủ động hơn về những vấn đề
của địa phương mà HĐND quan tâm nằm ngoài báo cáo đã được chuẩn bị và góp
phần giúp cho việc thảo luận về sau của kỳ họp HĐND trở nên linh hoạt, sôi nổi, chủ

động hơn. Đồng thời, những quy định này cũng đã đảm bảo được việc thảo luận báo
cáo công tác một cách chặt chẽ, khoa học, đảm bảo sự trao đổi giữa đại biểu HĐND
và cơ quan bị giám sát góp phần tăng hiệu quả của hoạt động giám sát.
Như vậy, mục đích của việc xem xét báo cáo cơng tác của Thường trực HĐND,
UBND, TAND, VKSND cấp tỉnh và các văn bản, tài liệu khác được trình bày trong
kỳ họp của HĐND, trong đó có cả các dự thảo nghị quyết của HĐND làm cơ sở để
đại biểu HĐND tham gia vào việc quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương
trên tất cả các lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ của HĐND và thể hiện sự tập trung

28

Thời điểm xem xét báo cáo bao gồm: Một là, tại kỳ họp giữa năm và cuối năm, HĐND xem xét, thảo luận
các báo cáo quy định tại điểm a và điểm c khoản 1 Điều 59; Hai là, tại kỳ họp cuối nhiệm kỳ, HĐND xem xét,
thảo luận các báo cáo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 59; Ba là, thời điểm xem xét các báo cáo quy định tại
điểm d và điểm đ khoản 1 Điều 59 theo đề nghị của Thường trực HĐND.
29
Nguyễn Hùng Vương (2019), tlđd (15), tr. 27.
30
HĐND xem xét, thảo luận báo cáo theo trình tự: Đầu tiên, người đứng đầu cơ quan có báo cáo trình bày báo
cáo. Sau đó, trưởng Ban của HĐND trình bày báo cáo thẩm tra, đồng thời, người đứng đầu cơ quan có báo cáo
có thể trình bày bổ sung những vấn đề có liên quan HĐND quan tâm và HĐND tiến hành thảo luận. Cuối cùng
HĐND có thể ra nghị quyết về cơng tác của cơ quan có báo cáo.


16
nhất là việc đại biểu HĐND biểu quyết thông qua nghị quyết của HĐND trong kỳ
họp.31
1.2.2. Quy định pháp luật hiện hành về xem xét việc trả lời chất vấn
Chất vấn là việc đại biểu HĐND nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch
UBND, thành viên khác của UBND, Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND, Thủ

trưởng cơ quan thuộc UBND cùng cấp và yêu cầu những người này trả lời về trách
nhiệm của mình đối với vấn đề được nêu.32 Có thể nói, đây hình thức giám sát trực
tiếp hiệu quả và đặc biệt quan trọng của HĐND cấp tỉnh. Bởi lẽ, thông qua hoạt động
chất vấn, đại biểu HĐND thể hiện được trách nhiệm của người đại biểu trước dân,
nêu lên những vấn đề mà cử tri đang bức xúc, yêu cầu giải quyết.33 Thông qua xem
xét trả lời chất vấn, HĐND buộc các đối tượng bị chất vấn phải giải thích trước cơ
quan quyền lực nhà nước về những khuyết điểm trong hoạt động, công tác của cơ
quan mà mình lãnh đạo hay đứng đầu, cùng với đó là phải trả lời được những nguyên
nhân và biện pháp khắc phục các khuyết điểm đó. Hơn nữa, phương thức chất vấn
cũng là giám sát phổ quát và có hiệu lực, hiệu quả mà các cơ quan trên thế giới hay
áp dụng và cũng đạt được hiệu quả34 với điều điều kiện ở Việt Nam vì văn hố nước
ta vốn dùng dư luận như một sức ép điều tiết xã hội.35
Thứ nhất, quy định pháp luật về đối tượng chất vấn.
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 5 Luật Hoạt động giám sát của Quốc
hội và HĐND năm 201536 thì ta thấy những đối tượng chịu sự chất vấn là các chức
danh cụ thể liên quan đến con người cụ thể. Ngoài ra, ở các địa phương tổ chức thực
hiện và thí điểm thực hiện tổ chức mơ hình chính quyền đơ thị như đối với thành phố
Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng thì đại biểu HĐND thành phố cịn có quyền chất
vấn Chủ tịch UBND quận, Chánh án TAND quận, Viện trưởng VKSND quận.37
Thứ hai, quy định pháp luật về trình tự, thủ tục chất vấn.38

31

Nguyễn Khắc Nam Sơn (2017), Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Thuận, Luận văn thạc
sĩ Quản lý cơng, Học viện Hành chính quốc gia, tr. 21.
32
Khoản 7 Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015.
33
TS. Đinh Xuân Thảo (2010), “Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội”, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, số 09(170)/Kỳ 1, tháng 05/2010, tr. 14.

34
Nguyễn Hải Long (2012), tlđd (19), tr. 153.
35
Văn phòng Quốc hội (2004), Quyền giám sát của Quốc hội, nội dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 71-72.
36
Đối tượng chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh bao gồm: Chủ tịch UBND, thành viên khác của UBND, Chánh
án TAND, Viện trưởng VKSND, Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cấp tỉnh.
37
Điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 131/2020/QH14; điểm e khoản 1 Điều 2 Nghị
quyết số 119/2020/QH14.
38
Theo đó, trước phiên họp chất vấn, đại biểu HĐND ghi vấn đề chất vấn, người bị chất vấn vào phiếu chất
vấn và gửi đến Thường trực HĐND, sau đó, căn cứ vào chương trình kỳ họp, ý kiến, kiến nghị của cử tri, vấn


17
Nhìn chung, các quy định về việc chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp của
HĐND cấp tỉnh có nhiều điểm tiến bộ, rõ ràng và cụ thể, theo từng công đoạn và
trách nhiệm của của từng cơ quan, cá nhân, tổ chức. Cụ thể, theo quy định tại khoản
4 Điều 60 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 201539, có thể thấy
rằng, mặc dù hiện nay pháp luật quy định người bị chất vấn phải trả lời trực tiếp
nhưng lại quy định thêm các trường hợp được trả lời chất vấn bằng văn bản. Theo đó,
quy định các trường hợp trả lời chất vấn bằng văn bản giúp cho cơ quan và người bị
chất vấn có thể có thời gian tìm hiểu, điều tra thêm về những vấn đề nằm ngoài nội
dung chất vấn tại kỳ họp. Cùng với đó, việc pháp luật quy định theo hướng các chức
danh bị chất vấn không được ủy quyền cho cấp dưới trả lời chất vấn, đại biểu HĐND
chất vấn chức danh nào thì chức danh đó phải trực tiếp trả lời là một quy định rất tiến
bộ và phù hợp. Bởi lẽ, đại biểu là người đại diện cho cử tri và cử tri luôn mong muốn
vấn đề chất vấn được chính chức danh đó trả lời, nhằm khắc phục hạn chế, tìm ra

những giải pháp tối ưu để quản lý, điều hành đất nước, ngành mình, địa phương mình
phát triển tốt hơn. Ngồi ra, với quy định về hình thức trao đổi qua lại giữa người
chất vấn và người bị chất vấn thông qua việc quy định tại điểm c khoản 3 Điều 60
cũng là một điểm mới. Theo đó, quy định này nhằm đảm bảo cho hoạt động chất vấn
thực chất hơn, giúp cho đại biểu có thể chất vấn đến cùng vấn đề mà mình nêu ra mà
chưa được câu trả lời thỏa đáng từ phía người bị chất vấn. Hơn nữa, quy định này còn
tránh được trường hợp việc chất vấn chỉ mang tính hình thức, khi hoạt động chất chất
lúc này khơng chỉ mang tính hỏi – đáp mà cịn là mang tính phản biện để chốt được
vấn đề, do mục đích cơ bản của chất vấn khơng nhằm thu thập thông tin, mà nhằm để
“quy kết trách nhiệm”.40 Cùng với đó, khi quy định giám sát về lời hứa của người bị
chất vấn thì tại khoản 7 Điều 60 Luật cũng quy định người bị chất vấn có trách nhiệm
báo cáo HĐND về việc giữ lời hứa, tiếp thu, ghi nhận tại kỳ họp trước. Quy định này

đề xã hội quan tâm và phiếu chất vấn của đại biểu HĐND thì Thường trực HĐND đề nghị HĐND quyết định
nhóm vấn đề chất vấn và người bị chất vấn.
Trình tự chất vấn bao gồm: Đầu tiên, Đại biểu HĐND nêu chất vấn, có thể cung cấp thơng tin minh họa bằng
hình ảnh, video, vật chứng cụ thể. Sau đó, người bị chất vấn phải trả lời trực tiếp, đầy đủ vào vấn đề mà đại
biểu HĐND đã chất vấn, không được ủy quyền cho người khác trả lời thay; xác định rõ trách nhiệm, biện pháp
và thời hạn khắc phục hạn chế, bất cập (nếu có). Trường hợp đại HĐND khơng đồng ý với nội dung trả lời
chất vấn thì có quyền chất vấn lại để người bị chất vấn trả lời và những người khác có thể được mời tham dự
phiên họp và trả lời chất vấn của đại biểu HĐND về vấn đề thuộc trách nhiệm của mình. Đồng thời, thời gian
nêu chất vấn, thời gian trả lời chất vấn được thực hiện theo quy định tại Quy chế hoạt động của HĐND và đại
biểu HĐND.
39
Các vấn đề được trả lời chất vấn bằng văn bản bao gồm: Một là, chất vấn khơng thuộc nhóm vấn đề chất vấn
tại kỳ họp; Hai là, vấn đề chất vấn cần được điều tra, xác minh; Ba là, chất vấn thuộc nhóm vấn đề chất vấn
tại kỳ họp nhưng chưa được trả lời tại kỳ họp.
40
Trương Thị Minh Thuỳ (2018), Kiểm soát của lập pháp đối với hành pháp ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.15.



18
nhằm tránh tình trạng người bị chất vấn “né” trong dùng từ “hứa” khi trả lời và có
thể nghĩ rằng mình được “hứa” để có thể trốn tránh nghĩa vụ phải thực hiện.41
Thứ ba, quy định pháp luật về tiêu chí lựa chọn nhóm vấn đề chất vấn.
Điều 8 Nghị quyết số 594/NQ-UBTVQH15 Hướng dẫn hoạt động giám sát của
HĐND, Thường trực HĐND, Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND và đại biểu HĐND
năm 202242 đã có quy định cụ thể về tiêu chí lựa chọn nhóm vấn đề chất vấn và người
bị chất vấn tại kỳ họp HĐND. Theo đó, những quy định bổ sung kịp thời này nhằm
góp phần đảm bảo phù hợp với quy định của Hiến pháp, bảo đảm tính khả thi, phù
hợp với điều kiện HĐND ở nước ta. Đồng thời vẫn có thể đảm bảo được tính khách
quan của hoạt động chất vấn, phản ánh được ý chí, kiến nghị của cử tri và những vấn
đề xã hội quan tâm.
Như vậy, có thể thấy, về cơ bản, nhiệm vụ của hoạt động chất vấn là để làm rõ
trách nhiệm của chủ thể bị chất vấn trong việc điều hành, thực hiện nhiệm vụ chưa
tốt, hay có sai sót dẫn đến hiệu quả đạt được chưa cao. Đồng thời, hoạt động này còn
là cơ sở để HĐND kiểm tra, đánh giá hiệu quả hoạt động và trách nhiệm của chủ thể
bị chất vấn trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, uy tín của người bị chất vấn
nhanh chóng được đánh giá qua việc trả lời chất vấn. Hơn nữa, đây còn là sự cảnh
báo của HĐND để cho chủ thể bị chất vấn có cơ hội tự rà soát lại việc thực hiện nhiệm
vụ của mình.43
1.2.3. Quy định pháp luật hiện hành về xem xét văn bản quy phạm pháp luật
Giám sát VBQPPL của HĐND là hoạt động quan trọng nhằm thực hiện quyền
giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, thông qua đó là giám sát của Nhân dân đối
với hoạt động của bộ máy nhà nước ở địa phương nói chung, cũng như đảm bảo chất
lượng của các VBQPPL nói riêng. HĐND cấp tỉnh thực hiện xem xét quyết định của
UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, luật, VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp
bằng cách xem xét tính hợp pháp và hợp lý của những văn bản này. Theo đó, xem xét

tính hợp pháp là việc HĐND cấp tỉnh xem xét các văn bản do các cơ quan này ban
41

GS. TS Nguyễn Đăng Dung (2016), sđd (11), tr. 168-169.
Tiêu chí lựa chọn nhóm vấn đề chất vấn bao gồm: Một là, vấn đề bức xúc, nổi lên trong đời sống kinh tế xã hội của địa phương, được nhiều đại biểu HĐND, cử tri quan tâm; Hai là, vấn đề có dấu hiệu vi phạm các
quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phịng,
chống tội phạm, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cử tri và các quy định khác của pháp luật; Ba
là, vấn đề đã được người bị chất vấn trả lời trực tiếp tại kỳ họp HĐND hoặc trả lời bằng văn bản nhưng đại
biểu HĐND không đồng ý với nội dung trả lời; Bốn là, vấn đề khác nhằm nâng cao hiệu quả chỉ đạo, điều
hành, quản lý nhà nước hoặc qua khảo sát, giám sát phát hiện hạn chế, bất cập cần được chất vấn để làm rõ và
đưa ra những yêu cầu, giải pháp để kịp thời khắc phục.
43
Nguyễn Khắc Nam Sơn (2017), tlđd (31), tr. 22.
42


19
hành có đúng thẩm quyền khơng, có nội dung nào trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, VBQPPL của
cơ quan nhà nước cấp trên ban hành. Hình thức và trình tự, thủ tục ban hành có đúng
với quy định của Luật ban hành VBQPPL pháp luật và các văn bản pháp luật khác
hay khơng.44 Cịn xem xét tính hợp lý đối với văn bản là việc HĐND tỉnh xác định
xem văn bản đó có phù hợp với đời sống kinh tế, xã hội ở địa phương hay khơng, có
thiết thực và khả thi trên thực tế khi thực hiện hay không.45
Thứ nhất, quy định pháp luật về văn bản bị xem xét.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì những văn bản bị xem xét46 là những
văn bản được ban hành bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có thể mang nội dung
quản lý nhà nước. Do đó, việc tuyên bố một VBQPPL là có dấu hiệu sai trái khơng
chỉ mang tính pháp lý đơn thuần mà cịn mang màu sắc chính trị, bởi vì việc ban hành
văn bản trái pháp luật không chỉ là hành động làm giảm uy tín của các cơ quan nhà

nước mà còn là biểu hiện tiêu cực của hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ hai, quy định pháp luật về trình tự, thủ tục xem xét.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 61 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và
HĐND năm 201547 ta có thể thấy, quy định về thủ tục, trình tự phương thức giám sát
việc xem xét VBQPPL là những quy định cơ bản để HĐND cấp tỉnh thực hiện quyền
giám sát. Theo đó, những ghi nhận minh thị trong luật đã phần nào tạo được điều kiện
cho HĐND cấp tỉnh chủ động hơn hoạt động giám sát này, đồng thời đảm bảo được
việc HĐND sẽ không can thiệp quá sâu vào hoạt động của cơ quan bị giám sát.
Thứ ba, quy định pháp luật về hệ quả của VBQPPL được xem xét.
Khoản 3 Điều 61 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015
quy định trường hợp VBQPPL trái với Hiến pháp, luật, VBQPPL của cơ quan nhà
nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cấp tỉnh thì quyết định bãi bỏ một phần hoặc
tồn bộ văn bản đó. Theo đó, cần lưu ý là, khi HĐND tỉnh xem xét các VBQPPL do
các cơ quan trình thì HĐND tỉnh phải xác định VBQPPL trái hoặc không trái với
44

Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Hành chính, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia
Việt Nam, tr. 474.
45
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2017), gtđd, tr. 476.
46
VBQPPL được xem xét, bao gồm: Thứ nhất, quyết định của UBND cấp tỉnh, nghị quyết của HĐND cấp
quận, huyện theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015;
Thứ hai, nghị quyết của HĐND thành phố trên địa bàn quận, phường thuộc quận đối với các địa phương tổ
chức thực hiện và thí điểm thực hiện mơ hình chính quyền đô thị theo điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số
131/2020/QH14 và điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 119/2020/QH14.
47
HĐND xem xét VBQPPL theo trình tự sau đây: Đầu tiên, đại diện Thường trực HĐND trình bày tờ trình và
HĐND thảo luận. Tiếp đến, người đứng đầu cơ quan đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật trình bày bổ
sung những vấn đề có liên quan. Cuối cùng, HĐND ra nghị quyết về việc xem xét văn bản.



×