Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thẩm quyền xétxử sơ thẩm vụ án hình sự và việc hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.32 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta biết rằng thẩm quyền xét xử của tòa án là một trong chế định quan
trọng tố tụng hình sự. Thẩm quyền càng phân định rõ ràng và khoa học thì có tính
khả thi và kết quả xét xử của tòa án càng khả quan và chính xác bấy nhiêu. Trong
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định mở rộng thẩm quyền cho tòa án cấp
huyện đồng thời Quốc hội cũng có Nghị quyết quy định lộ trình hoàn thiện quy
định đó trên thực tế. Thêm vào đó, Pháp lệnh Tổ chức tòa án quân sự năm 2002
cũng quy định phân biệt một cách cơ bản thẩm quyền của Tòa án quân sự và Tòa
án nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về lĩnh
vực này vẫn gặp những vướng mắc và bất cập nhất định.
Trên cơ sở đó, chúng ta thấy rằng muốn xây dựng thẩm quyền của tòa án
trước hết phải xây dựng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án. Thẩm quyền xét xử
sơ thẩm là cơ sở để xây dựng thẩm quyền của tòa án các cấp ở trên, việc nghiên
cứu các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm có ý nghĩa
quan trọng để tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án. Chính vì
vậy, trong bài tập cuối kì này, em đã quyết định lựa chọn đề bài: “Thẩm quyền xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự và việc hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này”.
I. Một số vấn đề liên quan đến thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1. Khái niệm chung về “thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa
án”.
Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, là cơ quan đại diện
cho quyền lực của nhân dân và do nhân dân bầu ra. Quốc hội trực tiếp thực hiện
quyền lập pháp và giám sát mọi hoạt động của bộ máy nhà nước. Quyền hành pháp
được giao cho Chính phủ và các cơ quan trực thuộc nhằm đưa ra các nghị quyết,
quyết định của quốc hội, pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước vào cuộc
sống. Tòa án là cơ quan nhà nước được Quốc hội giao cho trực tiếp thực hiện
quyền tư pháp, có chức năng xét xử các vụ án để bảo vệ pháp luật và đảm bảo công
bằng xã hội. Xét xử là chức năng đặc thù của Tòa án và chỉ có Tòa án mới có
1



quyền xét xử các vụ án. Điều đó được thể hiện trong quy định của Điều 127 Hiến
pháp năm 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2002: “Tòa án nhân
dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án
khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”. Quyền xét xử thuộc về Tòa án ở đây được hiểu chính là thẩm quyền xét xử.
Theo từ điển tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học thuộc Viện khoa học xã hội
Việt Nam xuất bản năm 1992 thì “thẩm quyền” được hiểu là “quyền xem xét để
kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật”. Từ khái niệm này giúp ta có thể
hiểu “thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án” là tập hợp các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến việc giao vụ án hình sự cho cấp
tòa án nào giải quyết, phạm vi các vấn đề cần giải quyết và quyền ra các quyết định
của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án. Ở đây chúng ta đang đề cập đến khái
niệm thẩm quyền về mặt hình thức, nghĩa là được quy định trong Bộ luật Tố tụng
hình sự và nội dung của thẩm quyền được cụ thể là: cấp Tòa án được xét xử vụ án,
phạm vi giải quyết và quyền ra quyết định của Tòa án.
2. Căn cứ để quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án.
Ở Việt Nam, người ta phân loại thẩm quyền xét xử thành ba loại:
- Thẩm quyền xét xử theo việc.
- Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ.
- Thẩm quyền xét xử theo đối tượng.
Việc phân loại đó được thực hiện thông qua việc xem xét tổng thể một số
dấu hiệu sau:
2.1. Căn cứ vào tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm trong vụ án.
Đây là căn cứ để phân định thẩm quyền xét xử theo việc.
Tính nghiêm trọng của tội phạm được nhà làm luật thể hiện thông qua mức
chế tài quy định đối với tội phạm đó. Tội phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt
càng cao, cụ thể được quy định trong khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Vì vậy, muốn giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác thì khi phân định
2



thẩm quyền xét xử cho Tòa án các cấp phải căn cứ vào tính nghiêm trọng của tội
phạm. Theo đó, loại tội phạm càng nghiêm trọng càng đòi hỏi cơ quan và người
tiến hành tố tụng có năng lực cao hơn.
Cùng với đó, khi quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự còn phải căn
cứ vào tính phức tạp của từng loại tội phạm. Tính phức tạp của tội phạm có thể
được xem xét ở các mặt chủ thể, khách thể, cách thức thực hiện tội phạm.
Sở dĩ, quy định thẩm quyền xét xử phải căn cứ cả tính nghiêm trọng và tính
phức tạp của tội phạm vì đây là hai khái niệm không đồng nhất. Thông thường thì
tội phạm nghiêm trọng là tội phạm phức tạp và tội phạm ít nghiêm trọng là tội
phạm đơn giản. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp, tội phạm ít nghiêm trọng
lại mang tính chất phức tạp. Ví dụ như vụ án mà người phạm tội là người có chức
sắc cao trong tôn giáo, mặc dù tội phạm là ít nghiêm trọng, nhưng đây được coi là
những vụ án phức tạp khi xét xử.
2.2. Căn cứ không gian thực hiện tội phạm hoặc hành vi tố tụng.
Căn cứ không gian thực hiện tội phạm hoặc hành vi tố tụng chính là căn cứ
để xác định thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ.
Dựa vào cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực, hành chính và tư pháp
theo đơn vị hành chính lãnh thổ, nhà làm luật quy định thẩm quyền xét xử cho Toà
án cũng theo lãnh thổ. Việc quy định này phù hợp với nguyên tắc tổ chức bộ máy
nhà nước hiện nay của ta.
Cùng với cách tổ chức cơ quan nhà nước theo địa giới hành chính, việc phân
định thẩm quyền xét xử còn căn cứ vào thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ
quan tiến hành tố tụng. Thẩm quyền xét xử của Tòa án được coi là cơ sở để xác
định thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra và thẩm quyền truy tố của Viện
kiểm sát. Mỗi vụ án có được xét xử tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào kết quả
điều tra. Vì vậy quy định thẩm quyền xét xử phải tính đến việc điều tra của cơ quan
điều tra và việc truy tố của Viện kiểm sát cùng cấp để có sự phối hợp đồng bộ. Đấy

3



là căn cứ để quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án khi tội phạm thực
hiện ở nhiều nơi hay không xác định được nơi xảy ra tội phạm.
2.3. Căn cứ phân định thẩm quyền giữa Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân.
Đây là căn cứ để ta xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
theo đối tượng.
Việc phân định thẩm quyền xét xử theo đối tượng giúp cho các cơ quan tư
pháp thuận lợi hơn trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. Như ở Việt Nam, việc
giải quyết các vụ án liên quan đến quân đội nếu do Tòa án nhân dân xét xử sẽ gặp
rất nhiều khó khăn vì sẽ liên quan đến những lĩnh vực chuyên môn trong quân sự,
cũng như liên quan đến một số bí mật quan sự…
II. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của pháp luật
hiện hành.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003
đã đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình xây dựng và trưởng thành của
pháp luật nước ta. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự này đã có những
đổi mới sâu sắc thể chế hóa được đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam trong
giai đoạn phát triển mới. Một trong những sửa đổi cơ bản của Bộ luật tố tụng hình
sự 2003 chính là sửa đổi về thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo hướng tăng thẩm
quyền xét xử cho Tòa án cấp huyện. Đó là một trong những nội dung quan trọng
trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta. Cụ thể, trong Bộ luật tố tụng hình sự và
các văn bản pháp luật tố tụng hình sự khác có liên quan, vấn đề thẩm quyền xét xử
sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân các cấp được quy định như sau:
1. Thẩm quyền xét xử theo việc.
1.1. Thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện.
Tòa án cấp huyện (bao gồm Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự
cấp khu vực) là cấp xét xử đầu tiên trong trình tự các cấp xét xử theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành. Việc phân định thẩm quyền xét xử
cho Tòa án cấp huyện có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định thẩm quyền

4


của Tòa án cấp tỉnh, Tòa án nhân dân tối cao bởi vì các nhà lập pháp bao giờ cũng
bắt đầu từ việc xác định thẩm quyền của cấp xét xử thấp nhất sau đó mới quy định
thẩm quyền của các cấp xét xử cao hơn.
Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định về thẩm quyền xét xử của
Tòa án các cấp. Theo quy định của điều này, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm
quyền xét xử những vụ án hình sự về những tội phạm ít ngiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng trừ những tội phạm sau đây:
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c) Các tội phạm quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 218, 219, 221,
222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự.
Như vậy, thẩm quyền xét xử theo vụ việc của Tòa án nhân dân cấp huyện
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 bao gồm các loại tội phạm có mức
hình phạt cao nhất theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 là 15 năm tù trừ
những tội phạm được quy định tại điểm a, b, c điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Theo quy định của điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân cấp huyện đã được mở rộng so với quy
định tại Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 theo hướng tăng cường thẩm
quyền xét xử Tòa án nhân dân cấp huyện. Đây là một chủ trương mới và rất kịp
thời của Đảng và Nhà nước ta nhằm chuyên môn hóa hoạt động của các cấp Tòa án
và có ý nghĩa chiến lược trong quá trình cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49 –
NQ/TW cùa Bộ Chính trị và đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Việc tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện cũng là một
biện pháp giúp giảm lượng án tồn động ở Tòa án cấp tỉnh và Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao. Đây cũng là một bước cải cách phù hợp với tình hình của ngành
Tòa án hiện nay khi trình độ chuyên môn của thẩm phán Tòa án nhân dân cấp


5


huyện từng bước được nâng cao và cơ sở vật chất của nhiều tòa án cấp huyện đã
đáp ứng được với nhiệm vụ xét xử mới.
1.2. Thẩm quyền xét xử của tòa án cấp tỉnh.
Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp
quân khu được quy định tại khoản 2 điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự về
những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tức những vụ án về những tội mà mức cao
nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù; những vụ án không thuộc thẩm quyền
xét xử của Tóa án nhân dân cấp huyện được quy định tại điểm a, b, c khoản 1 điều
170 Bộ luật tố tụng hình sự; những vụ án thuộc thẩm quyền của Tóa án nhân dân
cấp huyện nhưng Tóa án cấp tỉnh thấy cần thiết phải lấy lên để xét xử do tính chất
đặc biệt của vụ án.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không có điều luật nào quy định cụ thể về
các điều kiện để Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy các vụ án thuộc thẩm quyền của Tóa
án nhân dân cấp huyện để xét xử. Do đó, Chánh án Tóa án nhân dân cấp tỉnh, Viện
trưởng Viện kiếm sát và Thủ trưởng cơ quan điều tra căn cứ vào tình hình thực tế
của các vụ án và năng lực của điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán cấp huyện
để quyết định những vụ án nào cần lấy lên để điều tra, truy tố, xét xử ở cấp tỉnh.
Hiện tại, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn đang thực hiện theo tinh thần của
Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 12/01/1989 của Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ nội vụ hướng dấn thi hành một số
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Theo hướng dẫn của Thông tư trên
thì thông thường Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy lên xét xử những vụ án sau đây:
- Những vụ án phức tạp (có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất về tính
chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành).
- Những vụ án mà bị cáo là thẩm phán, kiểm sát viên, sỹ quan công an, cán

bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người nước ngoài, người có chức sắc cao trong
tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.
6


Như vậy, khi có những vụ án thuộc vào các trường hợp này thì Cơ quan điều
tra cấp huyện trao đỏi với Viện kiểm sát cùng cấp và chuyển hồ sơ lên Cơ quan
điều tra cấp tỉnh để điều tra. Nếu hồ sơ đã chuyển sang Viện kiểm sát cấp huyện thì
Viện kiểm sát cấp huyện chuyển vụ án cho Viện kiểm sát cấp tỉnh truy tố trước
Tòa án cấp tỉnh.
2. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ.
Thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án các cấp được quy định tại Điều 171
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003: “Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là
Tòa án nơi tội phạm được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện
tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tóa
án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc việc điều tra”.
Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì do Tòa án nhân dân
cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu không xác định
được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì Chánh án Tóa án nhân dân
tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án
nhân dân thành phố HCM xét xử
Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân
sự thì do tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của chánh án
Tòa án quân sự trung ương.
Như vậy vụ án về các tội phạm xảy ra ở nước ngoài thuộc thẩm quyền xét
xử của tòa án nhân dân cấp tỉnh mà không căn cứ vào địa điểm tội phạm được thực
hiện bởi vì chỉ các cơ quan tiến hành tố tụng ở thành phố Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, tòa án quân sự cấp quân khu mới có điều kiện đảm bảo cho các hoạt
động tố tụng diễn ra thuận lợi trong các quan hệ với các cơ quan tố tụng nước
ngoài trong ủy thác hoạt động tư pháp, trong tương trợ hoạt động tư pháp, trong

dẫn độ tội phạm…
Việc quy định thẩm quyền xét xử thuộc về tòa án nơi tội phạm được thực
hiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan điều hành tố tụng và người tham gia
7


tố tụng, các cơ quan điều hành tố tụng sẽ dễ dàng tiết kiệm được nhiều thời gian
hơn trong việc điều hành các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, triệu tập người
làm chứng hoặc những người liên quan trong vụ án, đồng thời nó cũng đảm bảo tốt
hơn sự có mặt của những người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử.
Tuy nhiên trên thực tế có nhiều trường hợp không thể xác định được nơi
thực hiện tội phạm hoặc tội phạm thực hiện ở nhiều nơi khác nhau trong những
trường hợp đó thì thẩm quyền xét xử thuộc tòa án nơi kết thúc việc điều tra.
Máy bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam đang hoạt động ở không phận
hoặc lãnh hải nước ngoài vẫn được xem là một bộ phận lãnh thổ của Việt Nam, do
vậy những tội phạm xảy ra trên tàu biển, máy bay của Việt Nam do Tòa án Việt
Nam xét xử. Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi tàu bay, tàu biển đó được
đăng ký. Tùy vào tội phạm đó là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiệm trọng,
rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng để xác định cấp Tòa án xét xử là Tòa
án cấp huyện hay cấp tỉnh.
3. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng.
Trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không có điều luật cụ thể nào phân
định đối tượng nào thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân. Tuy nhiên trong
Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự năm 2002, có quy định về thẩm quyền xét xử
của Tòa án quân sự. Cụ thể theo quy định tại Điều 3, Pháp lệnh tổ chức Tóa án
quân sự 2002 thì Tóa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị
cáo là:
- Quân nhân tại ngũ, công nhân, nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị
trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu,

dân quân tự vệ phối hợp chiến đấu với Quân đọi và những người được trưng tập
làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị Quan đội trực tiếp quản lý.
- Những người không thuộc các quy định tại khoản 1 điều này mà phạm tội
có liên quan đến bí mật Quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội.
8


Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự còn quy định: Quân nhân tại ngũ phạm tội
trong quân đội và ngoài xã hội đều thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.
Trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân thì Tòa án quân sự xét sử toàn bộ vụ án. Nếu có thể tách riêng ra để xét xử thì
Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân xét xử những bị cáo thuộc thẩm quyền của
riêng mình.
Nếu vụ án có những tình tiết cần điều tra liên quan đến bí mật quốc phòng
như địa điểm, thiết bị, kế hoạch quân sự… thì Tòa án quân sự xét xử. Những việc
phạm tội khác, Tòa án quân sự có thể chuyển vụ án cho Tòa án nhân dân.
Như vậy, có thể thấy, Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử theo đối tượng
rộng hơn Tòa án quân sự.
III. Hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này.
1. Thực trạng về việc thi hành thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
Tòa án.
Trong thực tiễn xét xử, không ít trường hợp tranh chấp về thẩm quyền xét xử
giữa các Tòa án. Các dạng về tranh chấp thẩm quyền thường xảy ra giữa các Tòa
án khác cấp với nhau, giữa các Tòa án cùng cấp với nhau hoặc giữa Tòa án nhân
dân và Tòa án quân sự.
Điều này bắt nguồn từ quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm
hình sự của Tòa án nhân dân các cấp còn nhiều điều chưa hợp lý:
+ Trong khoản 2 Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định trong
trường hợp nào thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh được lấy những vụ án thuộc thẩm

quyền Tòa án nhân dân cấp huyện lên để xét xử. Nhưng cho đến nay, khi văn
thông tư liên ngành số 02/ TTLN ngày 12/01/1989 của Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ nội vụ hướng dẫn thi hành một số
quy định về trường hợp Tòa án nhân dân cấp tỉnh được phép lấy vụ án thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện lên xét xử đã hết hiệu lực thì vẫn chưa có
9


bất kỳ một văn bản nào hướng dẫn về vấn đề này. Thông thường, Tòa án nhân dân
cấp tỉnh lấy vụ án những vụ án mà người phạm tội là kiểm sát viên, thẩm phán, sĩ
quan công an, cán bộ chủ chốt ở cấp huyện, những người có chức sắc tôn giáo lên
để xét xử…
+ Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản liên quan đến tố tụng hình sự khác
không có hướng dẫn thủ tục chuyển vụ án, cho nên trên thực tế việc áp dụng các
quy định này thiếu thống nhất; có trường hợp Toà án chuyển trả hồ sơ cho Viện
kiểm sát để chuyển cho cấp có thẩm quyền truy tố, có Toà lại chuyển thẳng cho
Toà án cấp có thẩm quyền để trả cho Viện kiểm sát cùng cấp truy tố lại.
+ Do không có quy định cụ thể về thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố
tụng trong các vụ án có bị can, bị cáo, người bị hại là người nước ngoài, trường
hợp tội phạm vừa thực hiện ở nước ngoài vừa thực hiện ở trong nước… nên việc
xác định thẩm quyền xét xử các vụ án có yếu tố nước ngoài hiện nay rất khó khăn.
Còn các vụ mà người bị bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có lợi ích
liên quan đến vụ án là người nước ngoài thì vẫn chưa có sự hướng dẫn thống nhất.
Ngoài ra, còn có nguyên nhân từ việc kinh phí cấp cho ngành Toà án nói
chung còn thấp. Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức ngảnh Toà án chưa
tương xứng với yêu cầu. Một số Tòa án nhân dân huyện hiện nay vẫn thiếu cán bộ
hoặc chưa được sự quan tâm, bố trí địa điểm xây dựng trụ sở làm việc đạt yêu cầu
ảnh hưởng tới hiệu quả công tác.
2. Một số biện pháp hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này.
2.1. Sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử

theo việc của Tòa án các cấp.
Bộ luật Bộ luật tố tụng hình sự hạn chế quá nhiều trường hợp vụ án hình sự
về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng
mà Toà án cấp huyện không được xét xử tại điểm c khoản 1 Điều 170 (21 tội phạm
cụ thể). Sở dĩ có sự quy định như vậy là do trước đây năng lực tổ chức và trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp huyện còn
10


nhiều hạn chế, cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động còn thiếu thốn, nên khó có
thể giải quyết tốt những vụ án nói trên. Tuy nhiện, hiện nay những hạn chế nói trên
từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp huyện đã dần dần được khắc phục qua
thực tiễn, qua quá trình đào tạo cũng như những nỗ lực đầu tư của Nhà nước cho
lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm... Đối với các tội phạm quy định tại điểm
c khoản 1 Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự, tới thời điểm hiện nay, các Toà án cấp
huyện đã có khả năng xét xử hầu hết các tội phạm này, và vì vậy chỉ nên quy định
Toà án cấp huyện không được xét xử một số tội phạm quy định tại 9 Điều luật sau
thay vì 21 Điều như hiện nay: Điều 172; 216; 217; 218; 219; 221; 222; 223 và 263.
Do các tội này xâm phạm an ninh quốc gia là các tội phạm liên quan đến sự vững
mạnh cũng như sự tồn vong của Nhà nước của chế độ và việc xử lý các tội phạm
này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các
cơ quan hữu quan khác, đồng thời trong một số trường hợp cần đảm bảo bí mật nhà
nước; các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy
định tại chương XXIV, hơn nữa các tội phạm này ít nhiều đều có liên quan đến các
mối quan hệ và luật pháp quốc tế vì vậy chúng thuộc phạm vi quốc gia, nên không
thể giao cho cấp huyện giải quyết được.
Ngoài ra, xét về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp tỉnh
và Toà án quân sự cấp quân khu, Bộ luật tố tụng hình sự có quy định về việc Toà
án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự cấp Quân khu xét xử những vụ án không
thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực. Phải

chăng chúng ta nên bổ sung vào điểm c khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự
một số trường hợp vụ án hình sự mà tội phạm do một số đối tượng nhất định thực
hiện không thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, để ngay khi
khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đã giao ngay cho cơ quan điều tra cấp tỉnh điều tra từ
đầu để đảm bảo sự thống nhất về thẩm quyền giữa các cơ quan tiến hành tố tụng,
tránh trường hợp sau khi truy tố ra Toà án cấp huyện, vụ án mới bị lấy lên Toà án
cấp trên xét xử. Đối với những vụ án hình sự mà tội phạm do các đối tượng: Thẩm
11


phán Toà án các cấp, Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp, cán bộ lãnh đạo chủ
chốt ở cấp huyện, người nước ngoài, người có chức sắc cao trong tôn giáo, có uy
tín cao trong các dân tộc ít người thì để đảm bảo việc giải quyết vụ án được khách
quan.
2.2. Sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử
theo lãnh thổ của Tòa án các cấp.
Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành quy định: đối với tội phạm xảy ra trên tàu
bay, tài biển, khi tàu bay tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam sẽ thuộc
thẩm quyền xét xử của Toà án nơi có sân bay, bến cảng mà tàu bay, tàu biển trở về
đầu tiên ở trong nước hoặc Tòa án nơi tàu bay, tàu biển đó đăng ký. Quy định như
vậy dễ dẫn đến việc tranh chấp hoặc đùn đẩy lẫn nhau giữa các Toà án nói trên.
Mặt khác, việc quy định cả Toà án nơi đăng ký tàu bay, tàu biển có thẩm quyền xét
xử chắc chắn sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, thu thập chứng cứ vì thực tế nếu
có tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển mà ngưòi phạm tội bị bắt quả tang hay
khẩn cấp thì khi tàu bay, tàu biển trở về sân bay, bến cảng đầu tiên ở trong nước,
do không có thẩm quyền điều tra vụ án nên người chỉ huy tàu bay, tàu biển phải
bàn giao ngay người bị bắt cho cơ quan điều tra có thẩm quyền, chính là cơ quan
điều tra sở tại, cho nên thực chất hoạt động điều tra ban đầu như: lập biên bản
phạm tội quả tang, biên bản nhận người bị bắt, nhận bàn giao vật chứng đã được
thực hiện ngay khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Vì vậy, nên quy định về

thẩm quyền xét xử những tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh
hải Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án Việt Nam, nơi có sân bay hoặc
bến cảng trở vể đầu tiên ở trong nước mà không phải là nơi tàu bay, tàu biển đó
được đăng kí.
Ngoài ra, xuất phát từ thực tế là các vụ mà người bị bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có lợi ích liên quan đến vụ án là người nước ngoài thì vẫn
chưa có sự hướng dẫn thống nhất thì các nhà làm luật cũng cần bổ sung những quy
12


định hướng dẫn cụ thể.
2.3. Sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật liên quan đến tố tụng hình sự.
Điều 126 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
quy định: “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ
tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân”. Hệ thống tòa án ở nước ta đang được tổ chức theo
nguyên tắc hành chính – lãnh thổ, tuy nhiên, theo tinh thần của Nghị quyết số 49 –
NQ/TW của Bộ chính trị về cải cách tư pháp đến năm 2020, để thực hiện cải cách
tư pháp, nâng cao hiệu quả xét xử, hệ thống Tòa án nước ta được tổ chức theo thẩm
quyền xét xử, không phụ thuộc vào các đơn vị hành chính, gồm: Tòa án sơ thẩm
khu vực, Tòa án Phúc thẩm, Tòa thượng thẩm và Tòa án nhân dân tối cao.
Do vậy, để có thể thực hiện được chủ trương đúng đắn này, việc sửa đổi quy định
tại Điều 126 Hiến pháp 1992 là cần thiết và hoàn toàn phù hợp với tinh thần của
Nghị quyết số 49 nói trên.
Ngoài ra Điều 135 Hiến Pháp năm 1992 còn quy định: “Chánh án Tòa án
nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân
dân”. Khi hệ thống Tòa án được tổ chức theo khu vực và theo thẩm quyền xét xử

không phụ thuộc vào một địa bàn hành chính nhất định thì việc báo cáo công tác
trước Hội đồng nhân dân địa phương phải được xem xét. Về lý luận cũng như thực
tiễn, để đảm bảo cho mọi hoạt động của Tòa án các cấp được thực hiện theo đường
lối và chính chính của Đảng và pháp luật Nhà nước, các cấp ủy Đảng, Hội đồng
nhân dân địa phương giữ vai trò chủ đạo, giám sát các vấn đề có tính nguyên tắc.
Vì vậy, việc sửa đổi Điều 135 Hiến pháp năm 1992 là cần thiết.
Ngoài ra còn cần phải sửa đổi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân: cần sửa đổi,
bổ sung các quy định có liên quan đến việc bầu Hội thẩm nhân dân của Tòa án cho
phù hợp với tổ chức và hoạt động của Tòa án sơ thẩm khu vực và Tòa án phúc
13


thẩm. Sửa đổi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và pháp lệnh Điều tra hình sự:
Tác động của các cơ quan tư pháp có liên quan chặt chẽ đến việc điều tra, truy tố
của các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp. Vì vậy, việc xây dựng các cơ quan
điều tra và viện kiểm sát đồng bộ về tổ chức và hoạt động tương ứng với hệ thống
các Tòa án sơ thẩm khu vực là một điều kiện cần thiết đối với việc thay đổi thẩm
quyền xét xử và thành lập các tòa án sơ thẩm.
2.4. Một số biện pháp khác.
Theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ chính trị, ngành Tòa án đã và
đang triển khai thực hiện các nhiệm vụ được đặt ra. Toàn ngành cần tích cực tham
gia vào việc xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật; tăng cường công tác đào tạo,
huấn luyện chuyên môn cho cán bộ, công chức Tòa án các cấp. Để hoàn thiện hơn
các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp
huyện, bên cạnh đó việc hoàn thiện pháp luật, còn có những giải pháp khác để
nâng cao hơn cơ sở vật chất và chất lượng Thẩm phán của ngành Tòa án. Những
giải pháp đó là: cần khẩn trương tuyển dụng và tuyển chọn đủ biên chế cán bộ,
thẩm phán Tòa án các cấp theo hướng: đối với những nơi vùng sâu, vùng xa, miền
núi có khó khăn về nguồn cán bộ tuyển dụng thì phối hợp với cấp ủy, chính quyền
địa phương có những giải pháp thu hút cán bộ, sinh viên tốt nghiệp Đại học Luật

đến công tác tại Tòa án địa phương; mở rộng nguồn bổ nhiệm thẩm phán trên cơ sở
quy định của pháp luật hiện hành. Đảm bảo thực hiện đầy đủ các chế độ, chính
sách đối với cán bộ, công chức; nghiên cứu đề xuất với Nhà nước những vấn đề
liên quan đến chế độ đãi ngộ, bồi thường đặc biệt, tiền lương, phụ cấp, chế độ bảo
vệ cán bộ, thẩm phán khi thi hành công vụ.
Về chất lượng đội ngũ cán bộ ngành Tòa án: Pháp luật hiện hành mới chỉ
quy định thành lập các Tòa chuyên trách ở Tòa án cấp tỉnh, ở cấp huyện vẫn chưa
có các Tòa này. Một Thẩm phán ở cấp Tòa án cấp huyện hiện nay phải xét xử sơ
thẩm tất cả lĩnh vực, điều nay dẫn đến việc xét xử oan sai, không đúng người, đúng
tộ, và thực tế hiện tượng này vẫn còn xảy ra. Vì vậy, bên cạnh việc mở lớp đào tạo
14


nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ ngành Tòa án thì khi tổ chức Tòa án cấp
sơ thẩm theo khu vực, nên thành lập ở các tòa án này các Tòa án chuyên trách cho
từng lĩnh vực cụ thể để bảo vệ để bảo đảm tính chuyên môn trong công tác xét xử.
Cần thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, công tác của cán bộ;
công chức; phối hợp chặt chẽ với cấp ủy Đảng địa phương trong công tác quản lý
cán bộ, khen thưởng kịp thời, xứng đáng các tập, cá nhân có nhiều thành tích trong
công tác, hoàn thành xuất sắc; xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với các trường hợp
có vi phạm, đặc biệt là xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng nghề nghiệp chức
vụ, quyền hạn để tham nhũng, tiêu cực.
Tăng cường cơ sở vật chất ở các cấp của Tòa án các cấp phục vụ công tác
xét xử . Nhìn chung cơ sở vật chất ở các cấp Tòa án hiện nay đã được cải thiện
đáng kể, phòng xử án, trang thiết bị cần thiết cho việc xét xử cũng đáp ứng tương
đối đầy đủ hơn nữa cơ sơ vật chất, góp phần nâng cao triển khai thực hiện ngay
việc nâng cấp trung tâm tin học của Tòa án nhân dân chung cho toàn ngành như:
phần mềm quẩn lý thống kê các loại án khác; phần mềm quản lý các loại đơn, thư
khiếu nại; phần mềm lưu trữ và triển khai áp áp dụng toàn ngành.


KẾT LUẬN
Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có ý nghĩa quan
trọng về khía cạnh chính trị, xã hội cũng như ý nghĩa pháp lý. Việc phân định thẩm
quyền xét xử sơ thẩm nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm, đảm bảo quyền tự do dân chủ của công dân, bảo đảm tính tiết kiệm và hiệu
quả của hoạt động tố tụng. Mặt khác việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm
còn là cơ sở để xây dựng, tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp.
Do vậy, thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án các cấp là một chế định quan
trọng trong tố tụng hình sự. Việc nghiên cứu thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự có
ý nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang tiến hành cuộc cải
cách toàn diện trong lĩnh vực tư pháp mà một nội dung quan trọng trọng tâm chính
là hoàn thiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của các cấp Tòa án.
15


DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam”,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010.
2. Bộ Luật tố tụng hình sự 2003.
3. Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009)
4. Pháp lệnh tổ chức toà án quân sự 2002.
5. Nghị quyết số 293A-NQ/UBTVQH Ngày 27/9/2007 của Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội, về việc giao thẩm quyền xét xử quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ
luật tố tụng hình sự cho các toà ân nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh và toán án quân sự khu vực.
6. Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 12/01/1989 của Toà án nhân dân tối
cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp - Bộ nội vụ hướng dẫn thi hành
một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
7.Vũ Gia Lâm, “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp trường: Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu

quả xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp Trường Đại học Luật mã số: LH - 08 09/ ĐHL, Hà Nội, 2009.
8. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển bách khoa;
Nxb Tư pháp, Hà Nội.

16



×