Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 146 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

----- 🙠✶🙢 -----

HUỲNH THỤ CĂN

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Giảng viên hướng dẫn: TS. MAI THỊ THỦY

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2023


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

----- 🙠✶🙢 -----

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THƠNG ĐƯỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: TS. Mai Thị Thủy
Người thực hiện: Huỳnh Thụ Căn


MSSV: 1953801013019
Lớp: 105 – HS44A(A)

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2023


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
CHƯƠNG 1 ................................................................................................................9
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM .................................................................................................................9
1.1. Khái niệm Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ .............9
1.2. Sơ lược về lịch sử hình thành các quy định về Tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ trong pháp luật hình sự Việt Nam ....................12
1.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 .........................................12
1.2.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi ban hành Bộ
luật Hình sự năm 1985 .......................................................................................14
1.2.3. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985 .................................................16
1.2.4. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 ..................................................17
1.3. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về Tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ .......................................................................................21
1.3.1. Dấu hiệu pháp lý ......................................................................................21
1.3.2. Tình tiết định khung tăng nặng ................................................................27
1.3.3. Hình phạt ..................................................................................................30
1.4. Quy định của pháp luật hình sự một số quốc gia về Tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ .........................................................................32
1.4.1. Quy định của Bộ luật Hình sự Liên Bang Nga về Tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ ...........................................................................32
1.4.2. Quy định của Bộ luật Hình sự Cộng hịa nhân dân Trung Hoa về Tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ..............................................40
CHƯƠNG 2 ..............................................................................................................48
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THƠNG ĐƯỜNG BỘ TRONG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM .............................................................................................48
2.1. Thực tiễn áp dụng Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
theo pháp luật hình sự Việt Nam và những hạn chế, bất cập ............................48
2.1.1. Thực tiễn áp dụng Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
............................................................................................................................48


2.1.2. Một số hạn chế, bất cập về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ và nguyên nhân những hạn chế, bất cập ............................................50
2.2. Một số kiến nghị hồn thiện quy định pháp luật hình sự Việt Nam về Tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ........................................75
KẾT LUẬN ..............................................................................................................88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “Tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên
cứu của cá nhân tác giả dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Mai Thị Thủy. Các
số liệu và nghiên cứu khóa luận là hồn tồn trung thực.
Tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả

Huỳnh Thụ Căn



LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tác giả xin chân thành cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Mai Thị
Thủy, người đã hướng dẫn tác giả hết sức tận tâm, khoa học để tác giả hồn thành
khóa luận tốt nghiệp này.
Đồng thời, tác giả cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các Thầy, Cô
giáo của Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, đặc biệt là các Thầy, Cơ trong
khoa Luật Hình sự đã giúp tác giả trong q trình thực hiện khóa luận.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, những người đã quan
tâm, sát cánh bên cạnh và ủng hộ tác giả, là động lực cho tác giả hồn thành khóa
luận này một cách thuận lợi.
Ngoài ra, xin chân thành cảm ơn Trung tâm thông tin – Thư viện đã tạo điều
kiện tốt để cho tác giả hoàn thành trọn vẹn khóa luận của mình một cách sn sẻ.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2023
Tác giả

Huỳnh Thụ Căn


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Số thứ tự

Ký hiệu chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

1

BLHS


Bộ luật hình sự

2

GTĐB

Giao thơng đường bộ


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội xâm phạm an tồn giao thơng đường bộ (GTĐB) nói chung, Tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB nói riêng đang là một trong những vấn nạn báo động ở
nước ta trong suốt những năm qua và đã trở thành một trong những vấn đề nhức
nhối đối với toàn xã hội trong cơng cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm xâm
phạm an toàn GTĐB. Hậu quả mà tội phạm này gây ra hết sức nghiêm trọng khi
xâm phạm đến trật tự an tồn GTĐB và gây thiệt hại tính mạng, sức khỏe, tài sản
của người tham gia giao thông. “Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), hàng năm, cuộc
sống của hơn 1,25 triệu người bị rút ngắn do tai nạn GTĐB. Trong số 20 đến 50
triệu người bị chấn thương, có nhiều người bị khuyết tật do hậu quả của nó để lại.
Thương tích do tai nạn GTĐB gây thiệt hại đáng kể về mặt kinh tế cho các cá nhân,
gia đình nói riêng và các quốc gia nói chung”.1
Ở phương diện pháp lý, trong những năm qua, các quy định của BLHS năm
1985, BLHS năm 1999 và tiếp đó BLHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung về
các tội xâm phạm an tồn GTĐB nói chung và tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB nói riêng song vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập. Một vài quy định cịn
có cách hiểu chung chung, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể chi tiết khi áp dụng

vào thực tiễn. Cụ thể, trong quy định của Điều 260 BLHS năm 2015 một loại bất
cập còn tồn tại như: bất cập khi xác định nhiều thiệt hại đồng thời xảy ra giữa các
khoản của điều luật trong cùng một vụ án; quy định tỷ lệ tối thiểu trong trường hợp
vi phạm quy định về tham gia giao thơng gây thương tích hoặc tổn hại tại điểm b, c
khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 còn thiếu tính cơng bằng, phịng ngừa tội phạm
chưa cao, thậm chí bỏ lọt tội phạm,… Ngoài ra, tác giả nhận thấy trong điều luật
cịn thiếu tính răn đe khi thiếu sót những hình phạt có ý nghĩa trong việc giáo dục,
phịng chống tội phạm GTĐB như: hình phạt tước giấy phép lái xe người vi phạm,
hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.
Trong thực tiễn công tác xét xử, Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB
ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất nghiêm trọng. Việc áp dụng quy định
pháp luật để xét xử còn gặp nhiều vướng mắc, đặc biệt là quy định tại Điều 260
BLHS năm 2015 về Tội vi phạm quy định tham gia GTĐB. Mỗi cơ quan thẩm
quyền có cách hiểu khác nhau trong cùng một quy định pháp luật, lúng túng và chưa
Kim Thanh, Tai nạn giao thơng dưới góc nhìn của Who, truy cập ngày 28/02/2023.
1


2

có quan điểm thống nhất hoặc mắc phải thiếu sót trong việc giải quyết các vụ án vi
phạm quy định về tham gia GTĐB. Chẳng hạn, trường hợp cơ quan tiến hành tố
tụng khơng áp dụng tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2 Điều 260 BLHS năm
2015 vì khơng xác định được chính xác nồng độ cồn là bao nhiêu; hay các tình tiết
định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự như: tình tiết “khơng có giấy phép lái xe
theo quy định” tại điểm a khoản 2 Điều 260 BLHS, tình tiết “trong tình trạng có sử
dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định”
tại tại điểm b khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 còn thiếu sự rõ ràng, chưa thống
nhất về cách hiểu,…
Từ các lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam” để làm khóa luận tốt
nghiệp với mong muốn đóng góp những nghiên cứu của mình cho pháp luật quốc
gia, đưa ra những quan điểm của tác giả để làm rõ những bất cập, hạn chế và kiến
nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về tội phạm này. Tạo nên cơ sở, đề xuất
khoa học vững chắc để góp phần vào trong cơng tác xét xử của ngành Tịa án nói
riêng và ngành Lập pháp của Việt Nam nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với đề tài “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thơng đường bộ theo
pháp luật hình sự Việt Nam”, có một số cơng trình nghiên cứu khoa học sau:
Giáo trình, sách chuyên khảo:
Trần Thị Quang Vinh (Chủ biên) (2019), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam,
Phần Chung, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Hồng Đức- Hội
Luật gia Việt Nam; Trần Thị Quang Vinh (Chủ biên) (2019), Giáo trình Luật Hình
sự Việt Nam, Phần Các tội phạm, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh,
NXB Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam; Trần Thị Quang Vinh – Vũ Thị Thúy
(Đồng chủ biên) (2018), Luật Hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ
Chí Minh.; Nguyễn Ngọc Hịa (Chủ bên) (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
Phần Chung, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân; Nguyễn Đức
Mai (Chủ biên) (2018), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015, NXB Chính
trị quốc gia - Sự thật; Nguyễn Thị Phương Hoa - TS. Phan Anh Tuấn (Chủ biên)
(2017), Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017), NXB Hồng Đức; Đinh Văn Quế (2020), (Bình luận Bộ luật
Hình Sự năm 2015) (Phần thứ hai các tội phạm – Chương XXI: Mục 1: Các tội xâm
phạm an toàn giao thông), NXB Thông tin và Truyền Thông.


3

Những giáo trình, sách chuyên khảo trên là những cơ sở lý luận khoa học
vững chắc về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB (Điều 260 BLHS năm

2015). Những giáo trình, sách chun khảo này đã phân tích các dấu hiệu pháp lý
cũng như những điểm mới của Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB một cách
rõ ràng, tạo tiền đề để tác giả hiểu rõ hơn quy định của tội danh cần nghiên cứu.
Các bài báo, tạp chí khoa học:
Đỗ Đức Hồng Hà (2017), Cơ sở và cách tính tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn
nhân trong các tội xâm phạm an toàn giao thơng, Tạp chí Kiểm sát số 06, tháng 3
năm 2017. Bài viết đề cập một số vấn đề lý luận về cấu thành tội phạm – Cơ sở và
nguyên tắc tính tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân đối với các tội xâm phạm an
tồn giao thơng nói chung và Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB nói riêng.
Đây là nguồn khoa học pháp lý đáng tin cậy mà tác giả tham khảo bên cạnh các
nguồn khoa học pháp lý khác để hoàn thiện những quy định cịn thiếu sót, bất cập
của Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB.
Lê Đăng Doanh (2018), Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB (Điều 260
BLHS năm 2015) – Một số nội dung mới và những vấn đề đặt ra khi hướng dẫn áp
dụng trong thực tiễn, Tạp chí Tịa án nhân dân số 18, tháng 9 năm 2018 Bài viết
này đề cập đến một số nội dung mới của Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB
thông qua việc so sánh quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015 với Điều 202 BLHS
năm 1999. Từ đó, tác giả bài viết chỉ ra một số bất cập trong quy định khi áp dụng
vào thực tiễn và gợi mở một số kiến nghị hoàn thiện những thiếu sót trong bất cập
đó.
Nguyễn Văn Lam (2019), Về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trong
BLHS năm 2015, Tạp chí Tịa án nhân dân số 11, tháng 6 năm 2019. Bài viết làm
rõ các quy định của pháp luật hình sự về tội “Vi phạm quy định về tham gia GTĐB”
tại Điều 260 BLHS năm 2015. Bên cạnh đó, tác giả phân tích làm rõ sự bất cập,
cũng như tính phù hợp trong quy định của BLHS năm 1999, BLHS năm 2015, trên
cơ sở đó đề xuất hướng hồn thiện quy định có liên quan về tội phạm.
Đinh Cơng Thành (2018), Bình luận Tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB trong BLHS năm 2015, Tạp chí Kiểm sát số 03, tháng 02 năm 2018. Bài
viết chủ yếu đi sâu phân tích, bình luận về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB
khi so sánh với Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB tại Điều

202 BLHS năm 1999. Qua đó, thấy sự thay đổi về tên tội danh, sự sửa đổi, bổ sung
các tình tiết là dấu hiệu định tội, định khung hình phạt.


4

Nguyễn Thành Thông (2019), Một số ý kiến về việc xử lý tội phạm vi phạm
quy định về tham gia GTĐB, Tạp chí Kiểm sát số 18, tháng 9 năm 2019. Bài viết đã
đề cập đến những vướng mắc của các cơ quan tiến hành tố tụng khi vẫn còn nhận
thức khác nhau trong việc xử lý tội phạm vi phạm quy định về tham gia GTĐB, đặc
biệt là đối với các vụ án có tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”. Bài viết nêu lên
các ý kiến khác nhau về vấn đề này. Từ đó, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sớm
ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất nhận thức khi áp dụng trong thực tiễn.
Bùi Thanh Minh (2020), Vướng mắc trong định tội danh tội vi phạm quy
định về tham gia GTĐB, Tạp chí Kiểm sát số 16, tháng 8 năm 2020. Từ thực tiễn
công tác, tác giả bài viết chỉ ra những vướng mắc trong các quy định của pháp luật
ảnh hưởng đến việc định tội danh Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, chẳng
hạn như: cần hướng dẫn thống nhất về tình tiết “khơng có giấy phép lái xe theo quy
định” hay tình tiết “vi phạm quy định về tham gia GTĐB trong trường hợp có khả
năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b, c khoản 3 Điều
này nếu không được ngăn chặn kịp thời”.
Nguyễn Thanh Mai - Nguyễn Bá Hưng (2021), Một số khó khăn, vướng mắc
khi giải quyết các vụ án tai nạn GTĐB, Tạp chí Nghề luật số 03, năm 2021. Bài viết
đề cập tới những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn giải quyết vụ án GTĐB khi
quy định của pháp luật có những điểm khơng rõ ràng, chưa phù hợp dẫn đến việc áp
dụng pháp luật chưa thống nhất, chưa phù hợp với tính chất, mức độ và hậu quả xảy
ra.
Đinh Thị Thu Hằng (2018), Bàn về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB
trong BLHS 2015, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 12, năm 2018.
Bài viết đề cập đến những quy định mới của BLHS năm 2015 về Tội vi phạm quy

định về tham gia GTĐB so với BLHS năm 1999, lưu ý và bất cập khi áp dụng trong
thực tiễn. Cụ thể của những điểm mới, những thay đổi quan trọng như: tên gọi của
điều luật, quy định cụ thể hậu quả về tính mạng, sức khỏe, tài sản (điều kiện truy
cứu trách nhiệm hình sự) do hành vi vi phạm an tồn GTĐB gây ra để làm căn cứ
định tội, định khung hình phạt.
Nhìn chung, những cơng trình này khơng nghiên cứu sâu về những bất cập,
vướng mắc cũng như kiến nghị hoàn thiện quy định về Tội vi phạm quy định về
tham gia GTĐB. Tuy nhiên, các cơng trình đã đề cập đến những quy định pháp lý,
những thiếu sót cơ bản của Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB.


5

Luận án Tiến sĩ:
Luận án Tiến sĩ của tác giả Hoàng Đạt Nam (2019) với đề tài “Các tội xâm
phạm an tồn GTĐB theo pháp luật hình sự từ thực tiễn xét xử của các Tòa án quân
sự ở Việt Nam”.
Luận văn Thạc sĩ:
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Phương Thảo (2018) với đề tài “Tội
vi phạm quy định về tham gia GTĐB trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 2015”; Luận
văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Hữu Mạnh (2021) với đề tài “Tội vi phạm các quy
định về tham gia GTĐB từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên”; Luận văn Thạc sĩ của tác
giả Trần Thị Mỹ Hạnh (2020) với đề tài “Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB
từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai”; Luận văn Thạc sĩ của tác giả
Trần Văn Sinh (2020) với đề tài “Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam”; Luận
văn Thạc sĩ của tác giả Cao Thị Hoài Thương (2020) với đề tài “Tội vi phạm quy
định về tham gia GTĐB từ thực tiễn tỉnh Bình Định”.
Khóa luận tốt nghiệp:
Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Trần Hoài Thương (2019) với đề tài

“Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB theo pháp luật hình sự Việt Nam”; Khóa
luận tốt nghiệp của tác giả Trần Thị Niên (2018) với đề tài “Tội vi phạm quy định về
tham gia GTĐB theo luật hình sự Việt Nam”.
Tóm lại, những cơng trình mà tác giả liệt kê trong phần “Tình hình nghiên cứu
của đề tài” đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng về Tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB đồng thời cũng đã đề xuất những giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết các vụ án trong thực tiễn hiện nay.
Tuy nhiên, có thể thấy việc nghiên cứu đề tài này còn nhiều vấn đề bất cập, vướng
mắc chưa được làm rõ. Tác giả xin kế thừa và phát huy những kết quả đạt được của
những cơng trình nghiên cứu này, đồng thời bổ sung những vấn đề bất cập, vướng
mắc chưa được làm rõ, những vấn đề mới cần được bổ sung. Qua đó, tác giả đề xuất
những kiến nghị hồn thiện góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự
về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là thơng qua phân tích quy định pháp luật của
Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB (Điều 260 BLHS năm 2015) để làm sáng


6

tỏ những điểm bất cập, những vướng mắc, thiếu sót của quy định này. Từ đó kiến
nghị và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật hình sự Việt Nam
về tội danh này.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được được mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
được đặt ra như sau:
(i) Nghiên cứu một số vấn đề chung của Tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB bao gồm: khái niệm, lịch sử hình thành các quy định về Tội vi phạm quy
định về tham gia GTĐB theo pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ.

(ii) Nghiên cứu các quy định về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB theo
pháp luật hình sự Việt Nam thơng qua các dấu hiệu pháp lý, tình tiết định khung,
hình phạt.
(iii) Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về định tội danh Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Trên cơ sở đó, nêu
ra những vướng mắc, bất cập cịn tồn tại trên thực tế và nguyên nhân của những hạn
chế đó.
(iv) Đưa ra kiến nghị hồn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
a. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu quy định của BLHS năm 2015 về Tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB GTĐB (Điều 260 BLHS năm 2015) và thực tiễn
áp dụng.
b. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, khóa luận tiến hành thực hiện ở góc nhìn khoa học luật hình sự
với chun ngành là Luật Hình sự.
Về tội danh, khóa luận chỉ nghiên cứu tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB được quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015.
Về phạm vi không gian, tác giả nghiên cứu đề tài trên phạm vi cả nước.
Về phạm vi thời gian, khóa luận sử dụng các quy định pháp luật hình sự liên
quan đến tội vi phạm quy định tham gia GTĐB như BLHS năm 1999, Thông tư liên
tịch 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC ngày 28/8/2013 về hướng dẫn áp
dụng một số quy định tại Chương XIX của BLHS về các Tội xâm phạm trật tự, an


7

tồn giao thơng, BLHS năm 2015,... Bên cạnh đó, các số liệu thực tiễn được tham
khảo trong thời gian từ 2018 đến 2022.

5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận được tác giả sử dụng là Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về
GTĐB trong các thời kỳ.
Phương pháp phân tích và tổng hợp được tác giả sử dụng xun suốt trong
khóa luận để phân tích các nội dung cần nghiên cứu và nhận thức vấn đề trọng tâm.
Từ đó, chọn lọc những thơng tin cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Phương pháp so sánh: phương pháp này được dùng để so sánh những quy định
pháp luật của thời kỳ với nhau, những quan điểm của các cơ quan có thẩm quyền
trong việc áp dụng quy định pháp luật vào thực tiễn,... Từ đó tìm ra nét tương đồng
cũng như khác biệt của các quy định pháp luật phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu án điển hình được tác giả sử dụng để phân tích các
vấn đề thực tiễn nhằm phục vụ để minh chứng những bất cập còn tồn tại trong thực
tiễn áp dụng.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử: phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu
lịch sử hình thành và phát triển các quy định về tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB theo pháp luật hình sự Việt Nam.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Là một trong các nguồn tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu,
những người làm thực tiễn và những người có quan tâm về tội danh Tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB trong Luật Hình sự Việt Nam.
Trong hoạt động thực tiễn, tác giả hy vọng có thể góp một phần nhỏ vào việc
nâng cao nhận thức của những người làm công tác điều tra, truy tố, xét xử về Tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB.
Trong hoạt động lập pháp, nếu những kiến nghị hoàn thiện nêu ra trong khóa
luận được tham khảo tác giả hy vọng có thể sẽ góp phần nhỏ vào việc hồn thiện
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB. Đồng thời, sẽ giúp những nhà nghiên cứu khoa học pháp lý nói chung cũng
như tác giả nói riêng có thêm động lực trong cơng cuộc xây dựng, hồn thiện pháp
luật hình sự Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng,

chống tội phạm, bảo vệ các quyền và tự do dân chủ của công dân trong giải quyết
vụ án hình sự.


8

7. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận tốt nghiệp này ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài
liệu tham khảo thì được chia làm 02 chương với nội dung như sau:
Chương 1. Những vấn đề chung về Tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2. Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện Tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam.


9

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM
GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ VÀ QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông, giao thông được hiểu là “việc đi lại từ nơi
này đến nơi khác của người và phương tiện chuyên chở”.2
Ở Việt Nam hiện nay, giao thông vận tải gồm: đường sắt, đường ô tô (đường
bộ), đường sông, đường biển, đường hàng không và đường ống. Trong đó, đường ơ
tơ hay cịn gọi là đường bộ là loại hình giao thơng xuất hiện sớm nhất và cũng là
loại hình được sử dụng phổ biến, rộng rãi nhất. Đường bộ được hiểu là “đường đi
trên đất liền, dùng cho người đi bộ và cho xe cộ (nói khái quát)”.3 Theo khoản 1
Điều 3 Luật GTĐB năm 2008 thì “đường bộ” được hiểu là gồm đường, cầu đường

bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ.
Hiện nay, chưa có định nghĩa cụ thể về “giao thơng đường bộ” nhưng thơng
qua các khái niệm được hiểu bên trên, có thể rút ra kết luận về “giao thông đường
bộ” như sau: “GTĐB là hình thức di chuyển, đi lại trên bề mặt trái đất từ nơi này
đến nơi khác của các đối tượng như người đi bộ, các phương tiện GTĐB và động
vật”.
Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB được quy định tại Điều 260 BLHS
năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuy nhiên, ở BLHS năm 2015 không quy
định khái niệm cụ thể Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Dẫu vậy, dưới góc
độ luật hình sự, các nhà khoa học đã có những quan điểm khác nhau về khái niệm
Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Có thể khái quát một số quan điểm nổi
bật như sau:
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
GTĐB là hành vi vi phạm quy định về an tồn GTĐB gây thiệt hại cho tính mạng
hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác”.4
Tác giả Đinh Cơng Thành thì cho rằng “Vi phạm quy định về tham gia GTĐB
là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
Viện Ngơn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thơng, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, trang 348.
Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, trang 318.
4
Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm, Tập VII – Các
tội xâm phạm quy định về an tồn giao thơng, NXB TP. Hồ Chí Minh.
2
3


10

hiện khi tham gia GTĐB, vi phạm các quy định về tham gia GTĐB, gây thiệt hại
cho tính mạng hoặc gây thiệt hại về sức khỏe hoặc tài sản của cơ quan, tổ chức, cá

nhân”.5
Theo tác giả, để xây dựng khái niệm pháp lý của tội danh này, cần phải tiếp
cận từ khái niệm, đặc điểm của tội phạm; các dấu hiệu pháp lý về Tội vi phạm quy
định về tham gia GTĐB được quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015.
Tội phạm là “hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật
này phải bị xử lý hình sự”.6
Từ định nghĩa “tội phạm” nêu ra, có thể thấy các đặc điểm của hành vi bị coi
là tội phạm được xác định trong định nghĩa bao gồm: tính nguy hiểm cho xã hội;
tính có lỗi của tội phạm; tính trái pháp luật; do người khơng ở trong tình trạng
khơng có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện; tính phải chịu hình phạt của tội
phạm. Cụ thể:
Một là, tính nguy hiểm cho xã hội, dấu hiệu cơ bản cũng như quan trọng nhất
trong các dấu hiệu của tội phạm. Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB đã xâm
hại đến các khách thể được Bộ luật hình sự bảo vệ. Cụ thể, sự an toàn về GTĐB, sự
an tồn về tính mạng, sức khỏe và tài sản của người.
Hai là, tính có lỗi của tội phạm. Lỗi là trạng thái tâm lý của người thực hiện
tội phạm đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà mình thực hiện và hậu quả cho
xã hội do hành vi đó gây ra. Lỗi của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB được
thể hiện dưới hình thức vơ ý.
Ba là, tính trái pháp luật. Tính trái pháp luật được hiểu là hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị coi là tội phạm nếu được quy định trong Luật Hình sự. Đối với Tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB khi một người phạm tội thực hiện hành vi trái

Đinh Cơng Thành (2018), Bình luận Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong BLHS

năm 2015, Tạp chí Kiểm sát số 03, tháng 02 năm 2018.
6
Điều 8 BLHS năm 2015.
5


11

quy định của luật chuyên ngành (Luật GTĐB) gây hậu quả được quy định trong
Điều 260 BLHS năm 2015 thì bị coi là tội phạm.
Bốn là, do người không ở trong tình trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142,
143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266,
286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.7 Người khơng ở trong tình
trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình sự là người đạt độ tuổi do pháp luật hình
sự quy định, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
khi tham gia GTĐB.
Năm là, tính phải chịu hình phạt của tội phạm. Hình phạt là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật hình sự, do Tòa
án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm
tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó. 8 Khi thực
hiện hành vi vi phạm quy định về an toàn GTĐB mà gây hậu quả theo luật định thì
sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự và hình phạt theo đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, từ những phân tích trên, khái niệm pháp lý của tội vi phạm quy định
về tham gia GTĐB có thể khái quát như sau:“Tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB là hành vi vi phạm quy định về an toàn GTĐB, do người có năng lực trách

nhiệm hình sự, đạt độ tuổi nhất định và tham gia GTĐB thực hiện với lỗi vơ ý gây
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản hoặc có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả
gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe. tài sản của người khác nếu không được ngăn
chặn kịp thời”.
Có thể thấy, Điều 260 BLHS năm 2015 quy định về Tội vi phạm quy định về
tham gia GTĐB đã thực hiện đúng nhiệm vụ của mình. Điều luật đã bảo vệ những
mối quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Ngồi ra, giáo dục mọi người ý
thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung và tội
phạm GTĐB nói riêng.

7
8

Điều 12 BLHS năm 2015.
Điều 30 BLHS năm 2015.


12

1.2. Sơ lược về lịch sử hình thành các quy định về Tội vi phạm quy định
về tham gia giao thơng đường bộ trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945
Trong lịch sử hàng nghìn năm tồn tại và phát triển, các nhà nước quân chủ và
phong kiến ở Việt Nam đã nhận thức được vai trò của luật pháp và đã quan tâm, đầu
tư cho việc ban hành pháp luật. Hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ này gồm các
bộ luật tổng hợp và các văn bản pháp luật khác như: Chiếu, Chỉ, Lệ, Lệnh, Dụ,
Sắc… Trong đó, các bộ luật: Hình thư (thời Lý), Quốc triều Hình luật (thời Trần),
Quốc triều Hình luật (gịn gọi là Bộ luật Hồng Đức - thời Lê), và Hồng Việt Luật
lệ (cịn gọi là Bộ luật Gia Long - Thời Nguyễn) là những bộ luật cổ tiêu biểu nhất
được xây dựng và ban hành trong lịch sử Việt Nam (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX).9

Tuy thời kỳ này chưa có những quy định cụ thể, rõ ràng về tội phạm trong lĩnh
vực GTĐB nhưng vẫn có những quy định thể hiện ý chí điều chỉnh đến những vấn
đề giao thơng có liên quan. Đầu tiên, có thể nhắc đến là vấn đề đi lại, được ghi nhận
chủ yếu trong Quốc triều Hình luật (Bộ luật Hồng Đức), Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật
Gia Long) và cả trong Quốc triều luật lệ toát yếu.
Chẳng hạn, trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức), tại chương Tạp
luật, Điều 553 quy định: “Người vô cớ mà phóng ngựa chạy trong phố phường,
đường ngõ trong kinh thành, hay là trong đám đơng người, thì xử phạt 60 trượng
nếu vì thế mà làm bị thương hay chết người thì xử nhẹ hơn tội đánh bị thương hay
chết người một bậc; làm bị thương hay chết các súc vật, thì phải đền số tiền theo sự
mất giá (ví như con vật đáng 10 phần, nay làm chết giá chỉ cịn 2 phần, thì phải đền
giá 8 phần; làm bị thương mất giá 1 phần, thì phải đền giá 1 phần). Nếu vì việc
cơng hay tư cần phải đi gấp mà phóng ngựa chạy, thì khơng phải tội; vì thế mà làm
bị thương hay chết người thì theo tội vì lầm lỡ để xảy ra. Nếu vì ngựa sợ hãi lồng
lên, khơng thể kìm được để xảy ra việc làm bị thương, chết người, thì được xử giảm
nhẹ hơn tội lầm lỡ hai bậc”.
Hay trong Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) cũng có quy định tội phạm
liên quan đến vấn đề đi lại, cụ thể tại Điều 265 về Tội sử dụng ngựa xe gây tử
thương: “Phàm vô cớ không được cho xe, ngựa chạy lung tung nơi đồng vắng
khơng người, nhân đó làm bị thương người ta, khơng đến nỗi chết người thì khơng
nói; nếu làm chết người thì phạt 100 trượng, lưu 3000 dặm. Ở nơi thôn dã, nếu vô
PGS.TS. Vũ Thị Phụng (2008), “Những bộ luật cổ Việt Nam và một số giá trị đối với đương đại”, Hội thảo
quốc tế Việt Nam học lần thứ III - Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức.
9


13

cớ quất ngựa chạy lung tung thuộc những nơi đồng vắng khơng người, nhân đó mà
làm bị thương người khác nhưng khơng đến nỗi chết người thì khơng nói; cịn nếu

như đã gây ra chết người thì phạt 100 trượng và lưu 3000 dặm, đồng thời phải chi
cấp cho gia đình người ta 10 lạng bạc để lo việc chơn cất. Nhưng nếu vì cơng cụ
khẩn cấp mà cho ngựa phi nhanh qua các nơi phố chợ, chỗ buôn bán hoặc là nơi
thơn q đồng vắng, trong đó đã gây ra tử thương cho người thì bị xử theo tội lầm
lỡ gây chết người, y theo luật chuộc tội bằng tiền để đền bù cho gia đình nạn nhân.
Điều Luật: “Phàm quất ngựa đang cưỡi làm cho người bị thương thì ngồi việc xử
theo luật cịn phải đem con ngựa đang cưỡi ấy giao cho người bị nó đá. Nếu người
bị ngựa đá chết thì giao cho quan”. Hoặc trong Quốc triều luật lệ toát yếu dưới triều
vua Duy Tân vào năm 1980, trong quyển Hạ, phần Hình luật cũng có điều “Đi ngựa
xe gây sát thương người khác” điều chỉnh vấn đề đi lại lúc bấy giờ như sau: “Vơ cớ
phóng ngựa ở đường sá, phố chợ khiến người ta bị thương, xử giảm một bậc so với
tội người thường đánh nhau; gây chết người xử mãn lưu. Ở ngồi đồng ruộng
khơng người mà phóng nhanh gây chết người xử mãn trượng, đồng thời truy thu 10
lạng bạc mai tang. Nếu vì việc cơng cấp bách phóng ngựa gây sát thương người
khác, luận theo tội “Lỡ chết người” (cho y luật “nộp chộc” để cấp cho gia đình
người bị hại). Điều Luật: “Cưỡi ngựa va người khác làm người ta bị thương, ngoài
việc y luật xét xử ra lại đem con ngựa kẻ đó cưỡi, cấp cho người bị va chạm. Nếu
người bị va chạm chết, con ngựa đó nộp cho nhà nước”.
Nhìn chung, pháp luật điều chỉnh vấn đề giao thơng thời này cịn hạn chế,
chưa có nhiều quy định điều chỉnh các hành vi liên quan đến vấn đề GTĐB. Bởi lẽ,
giao thơng nói chung và đường bộ nói riêng ở thời kỳ này chưa phát triển khi chỉ di
chuyển chủ yếu bằng: kiệu, xe ngựa, ngựa, đi bộ,… hơn nữa nhu cầu đi lại của con
người lúc đó cũng khơng cao. Có thể chính vì những lý do đó mà chưa có nhiều quy
định pháp luật điều chỉnh.
Tuy vậy, qua một số quy định về vấn đề đi lại nêu trên cho thấy phần nào sự
quan tâm của Nhà nước đối với lĩnh vực GTĐB. Các quy định của điều luật đều mô
tả cụ thể, dễ hiểu. Các quy định nêu rõ hành vi vi phạm và đi kèm theo đó là các chế
tài, chỉ định rõ sự phân hóa giữa các khung hình phạt khi có tăng nặng và có giảm
nhẹ. Hậu quả mà hành vi vi phạm càng nặng thì chế tài tương ứng cũng sẽ càng
nặng. Dẫu còn nhiều hạn chế về quy định vi phạm GTĐB nhưng đây cũng chính là

tiền đề, là cơ sở để thế hệ ở các giai đoạn sau xây dựng hoàn chỉnh Tội vi phạm quy
định về tham gia GTĐB.


14

1.2.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi ban hành
Bộ luật Hình sự năm 1985
- Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 – 1954
Cách mạng tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Cùng với dòng chảy các sự kiện trên thế giới đã giúp chúng ta không ít về
những thuận lợi trong việc quản lý và xây dựng đất nước song dân tộc ta lại không
thể tránh khỏi được nhiều khó khăn khi “thù trong, giặc ngồi” và những tàn dư
sau chiến tranh đang ngày càng tàn phá mạnh mẽ.
Do đó, ngày 03/9/1945 tại phiên họp thứ nhất của Chính phủ Lâm thời được
diễn ra, vấn đề đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Trước chúng ta đã bị chế
độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chun
chế, nên nước ta khơng có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do
dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ…”. Và từ thực tế đó, ngày
09/11/1946, Quốc hội biểu quyết thơng qua Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Cùng với việc ban hành Hiến pháp, chính quyền ta đã tập trung giải
quyết những vấn đề quan trọng, cấp bách trước mắt bằng việc ban hành nhiều văn
bản pháp luật, đặc biệt là các sắc lệnh. Tiêu biểu có thể kể đến như: Ngày 04/9/1945
ban hành Sắc lệnh ấn định Quốc kỳ Việt Nam và Sắc lệnh tổ chức Quỹ Độc lập;
Ngày 07/9/1945 ban hành Sắc lệnh bãi bỏ thuế thân; Ngày 08/9/1945 ban hành Sắc
lệnh thành lập Nhà Bình dân học vụ để phụ trách việc chống nạn mù chữ trong cả
nước và Sắc lệnh mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc dân đại hội (Quốc hội); ngày
10/9/1945 ban hành Sắc lệnh số 23-SL cử ông Vĩnh Thụy (Bảo Đại) làm Cố vấn
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Ngày 20/9/945 ban Sắc lệnh
số 34-SL thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

(gồm 07 người); Ngày 22/9/1945, Sắc lệnh bãi bỏ thuế cho các mơn bài có mức
dưới 50 đồng, bãi bỏ thuế chợ, thuế xe đạp, thuế thổ trạch ở nơng thơn… Có thể
thấy, với điều kiện khó khăn của một đất nước mới thành lập cịn non trẻ, yếu kém,
vấn đề đặt lên hàng đầu phải là an ninh quốc gia. Chính vì lẽ đó mà chưa có những
quy định liên quan về tội vi phạm GTĐB. Tuy nhiên, bởi vì bảo vệ an ninh quốc gia
mà vào ngày 25/02/1946, Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 26-SL quy định
những hành vi phá hoại tài sản công bị coi là trọng tội, sẽ bị truy tố và phạt tù hoặc
xử tử, trong đó có điều chỉnh hành vi phá hoại đường giao thông.


15

- Giai đoạn từ năm 1954 – 1975
Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết (tháng 07/1954), cách mạng Việt
Nam có những thuận lợi mới nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.
Pháp luật ở giai đoạn này đã có những bước tiến, khi có nhiều quy định pháp luật
hơn, đặc biệt là trong lĩnh vực GTĐB. Theo đó một số văn bản pháp luật đã ra đời
như: Nghị định 348-NĐ năm 1955 ban hành luật đi đường bộ của Bộ trưởng Bộ
Giao Thông và Bưu Điện – đây được xem là văn bản pháp lý đầu tiên của nhà nước
tạo tiền đề vững chắc cho việc hình thành nên quy định về Tội vi phạm quy định về
tham gia GTĐB; Nghị định số 09/NĐLB ngày 07/3/1956 của Bộ Công an - Bộ Giao
thông và Bưu điện ban hành Bản thể lệ tạm thời về vận tải đường bộ; Nghị định
139/NĐ ngày 19/12/1956 của Bộ giao thông và bưu điện; Nghị định số 44/NĐ ngày
27/5/1958,… Như vậy, từ các quy định trên có thể thấy được sự quan tâm sâu sắc
của Nhà nước đối với lĩnh vực GTĐB nói riêng cũng như tồn ngành giao thơng nói
chung. Đây rõ là các tiền đề cho những văn bản pháp luật hình sự quy định về lĩnh
vực giao thơng sau và đặc biệt là quy định về Tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB.
- Giai đoạn từ năm 1976 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm
1985

Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất. Một trang sử
mới nữa được mở ra khi vào ngày 15/3/1976, Chính phủ mới ban hành Sắc luật số
03-SL/76 quy định Tội phạm và hình phạt đối với hành vi Xâm phạm trật tự cơng
cộng, an tồn cơng cộng và sức khỏe của nhân dân. Trong đó, tại Điều 9 Sắc luật
này quy định về Tội xâm phạm đến trật tự cơng cộng, an tồn cơng cộng và sức
khỏe của nhân dân như sau: “Tội vi phạm luật lệ giao thơng gây tai nạn nghiêm
trọng với các khung hình phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm, trường hợp nghiêm trọng
thì bị phạt tù đến 15 năm. Trong mọi trường hợp có thể bị phạt tiền đến 1000 đồng
ngân hàng”.
Như vậy, tiếp nối những quy định của những thời kỳ trước thì đến giai đoạn
này vẫn cho thấy quy định về tham gia GTĐB chưa được cụ thể hóa là một tội
phạm độc lập. Tuy nhiên, phần nào cho thấy sự phát triển ngày càng rõ nét về tội
phạm này. Bản sơ kết kinh nghiệm về đường lối xét xử tội vi phạm luật lệ giao
thông gây tai nạn của Tòa án nhân dân tối cao sẽ là văn bản chỉ ra đường lối xử lý
hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB.


16

1.2.3. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985
Được chỉ đạo của Bộ chính trị, Trung ương Đảng và trực tiếp là Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ), Ban dự thảo BLHS đã đưa ra dự thảo BLHS năm 1985.
Ngày 27/02/1985, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII, Bộ luật hình sự đầu tiên của
nước ta ra đời trên cơ sở của nền kinh tế bao cấp và thực tiễn của tình hình tội phạm
thời kỳ đó. BLHS năm 1985 này là văn bản pháp lý cao nhất quy định lĩnh vực hình
sự, thơng qua và có hiệu lực vào ngày 01/01/1986.
BLHS năm 1985 gồm 280 Điều, được chia thành 08 Chương. Trong đó, tại
Chương 08 “Các tội xâm phạm an tồn, trật tự cơng cộng và trật tự quản lý hành
chính”, mục A “Các tội xâm phạm an tồn cơng cộng” ghi nhận tội vi phạm các
quy định về tham gia GTĐB với quy định chung trong tội “Vi phạm các quy định về

an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng” tại Điều 186 BLHS năm
1985.
Thông qua quy định của Điều 186 BLHS năm 1985, xét thấy điều luật chủ yếu
quy định về hành vi điều khiển phương tiện giao thông mà không quy định về tất cả
hành vi tham gia GTĐB. Có lẽ do tình hình giao thơng lúc bấy giờ đơn giản, diễn
biến tội phạm về lĩnh vực này chưa diễn ra phức tạp. Tuy nhiên, đối chiếu với quy
định gần nhất – Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976, hay các quy định cũ hơn của
các giai đoạn trước đó thì nhận thấy đã có sự tiến bộ vượt bậc về cả nội dung lẫn kỹ
thuật lập pháp của tội phạm này.
Đối với nội dung của điều luật, các nhà lập pháp đã mô tả rõ ràng các dấu hiệu
pháp lý của một tội phạm. Theo đó, điều luật đã thể hiện được hết các mặt của cấu
thành tội phạm từ khách thể, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội
phạm cho đến chủ thể của tội phạm. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm giúp
xác định rõ hành vi phạm tội và định tội chính xác tội phạm.
Đối với kỹ thuật lập pháp, nhà làm luật đã quy định tội phạm này thành một
điều luật riêng, có tên tội danh riêng. Ngồi ra, điều luật cịn chi tiết hóa thành từng
khoản cụ thể và kèm theo là khung hình phạt tương thích cho từng hành vi. Điều đó
cho thấy có sự phân hóa cao về trách nhiệm hình sự và hình phạt. Bên cạnh sự tiến
bộ trên, đường lối xử lý cũng có sự thay đổi khi tăng mức hình phạt lẫn tình tiết
định khung. Trong đó, nổi bật là hình phạt cải tạo không giam giữ, điều này đồng
nghĩa với việc quyền tự do của con người khơng bị tước bỏ như hình phạt tù, thể
hiện được sự khoan hồng của pháp luật dành cho người phạm tội. Từ đó nêu lên


17

mục đích của pháp luật là đấu tranh phịng chống tội phạm, răn đe và giáo dục
người phạm tội.
Dù có nhiều điểm tiến bộ vượt bậc song với quy định mới cũng có nhiều điểm
hạn chế. Việc quy định chung các hành vi vi phạm ở các lĩnh vực giao thông vận tải

gồm: đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường không trong cùng một điều luật
dẫn đến sự ôm đồm, cản trở và gây khó khăn khi áp dụng pháp luật vào từng hành
vi vi phạm cụ thể ở từng lĩnh vực. Dẫu vậy, một lần nữa khẳng định điều luật mới
này đã góp phần xây dựng hồn thiện hơn các tội vi phạm quy định GTĐB.
1.2.4. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
Tiếp nối BLHS năm 1985 là sự ra đời của BLHS năm 1999. Bộ luật được
thông qua tại kỳ họp thứ VI của Quốc hội Việt Nam khóa 10 ngày 21/12/1999 và có
hiệu lực vào ngày 01/7/2000. Ở bộ luật mới này, trong Chương XIX “Các tội xâm
phạm an tồn cơng cộng, trật tự cơng cộng” tại Điều 202 BLHS năm 1999 có quy
định tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB”.
Các dấu hiệu pháp lý cấu thành Tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện GTĐB theo quy định của BLHS năm 1999:
- Dấu hiệu pháp lý
+ Khách thể. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB trực tiếp
xâm phạm sự an toàn, sự hoạt động bình thường của các phương tiện GTĐB, tính
mạng, sức khỏe, của nhân dân dân, tài sản của Nhà nước, của các tổ chức và công
dân.10
+ Về mặt khách quan của tội phạm. Cũng giống như các tội phạm khác, Tội vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB khi xảy ra đều có những biểu hiện
bên ngồi thế giới khách quan, đó là: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội; hậu
quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu
quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi tội phạm. So với quy định
cũ của BLHS năm 1985 trước đây, BLHS năm 1999 đã có những thay đổi, chỉnh
sửa khi đã giới hạn lại chỉ trong lĩnh vực GTĐB. Theo đó, hành vi vi phạm trật tự
an tồn giao thơng của người tham gia giao thông trên từng lĩnh vực giao thông
như: đường sắt, đường thủy, đường bộ được quy định riêng trong từng điều của Bộ
luật hình sự thành các tội phạm khác nhau. Điều 186 BLHS năm 1999 đã tách thành
bốn tội thuộc bốn lĩnh vực: Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB (Điều 202);
10


Bình luận khoa học BLHS năm 1999 (Phần các tội phạm), NXB Công an nhân dân, tr. 417.


18

Tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường sắt (Điều 208); Tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường thủy (Điều 212) và Tội vi phạm quy
định điều khiển tàu bay (Điều 216). Bên cạnh việc tách các hành vi vi phạm ra từng
lĩnh vực giao thơng riêng thì ở BLHS 1999 cũng bỏ luôn việc liệt kê hành vi vi
phạm quy định về an toàn GTĐB.
Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội của Tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện GTĐB được mô tả là hành vi vi phạm quy định an toàn GTĐB
khi điều khiển phương tiện GTĐB. Ví dụ: Người điều khiển phương tiện GTĐB
khơng thực hiện đúng quy định về tốc độ và khoảng cách giữa các xe, điều khiển xe
cơ giới khơng có giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe cơ giới chạy quá tốc
độ quy định, giành đường, vượt ẩu, điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên
dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn,...
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện GTĐB là thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho
sức khỏe, tài sản của người khác. Theo quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS năm
1999 thì tội phạm này có cấu thành tội phạm vật chất. Theo đó, hành vi vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện GTĐB chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đã
gây ra hậu quả là những thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức
khỏe, tài sản của người khác. BLHS năm 1999 đã sửa quy định “thiệt hại cho tính
mạng, cho sức khỏe của người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản” tại
khoản 1 Điều 186 BLHS năm 1985 thành “thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt
hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác”. Đây là một điều tiến bộ.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện GTĐB, hành vi vi phạm các quy định về tham gia GTĐB là
nguyên nhân dẫn đến hậu quả (tai nạn giao thông) gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe,

tính mạng của người khác. Nếu thiệt hại không phải do hành vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện GTĐB thì khơng cấu thành Tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện GTĐB.
+ Về mặt chủ quan của tội phạm. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện GTĐB có lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm cịn động cơ, mục
đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm này.
Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB được thực hiện với lỗi
vô ý (vơ ý vì q tự tin và vơ ý do cẩu thả). Tội này không thể thực hiện với lỗi cố


×