Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

Chữ nôm cơ sở và nâng cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.34 MB, 172 trang )

Tai Lieu Chat Luong

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN KHUÊ

CHỮ NÔM
CƠ SỞ VÀ NÂNG CAO

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA
TP HỒ CHÍ MINH - 2009


LỜI NĨI ĐẦU
Thư tịch Hán Nơm nói chung, tư liệu chữ Nơm nói riêng, là một phần rất quan
trọng trong tồn bộ di sản văn hóa của dân tộc ta. Đó là những tư liệu quý báu về cổ
văn, cổ ngữ và cổ sử, là vốn cũ của dân tộc mà ngày nay chúng ta có trách nhiệm giữ
gìn bảo quản cho thật tốt và khai thác một cách khoa học.
Để làm tốt công tác bảo quản, và nhất là để có thể tham khảo, nghiên cứu tư liệu
chữ Nơm, tất nhiên chúng ta phải đọc được thứ chữ này. Chữ Nôm là công cụ không
thể thiếu được của các nhà nghiên cứu văn học cổ cận đại; của các nhà ngôn ngữ học
muốn nghiên cứu các văn bản Nôm, tìm hiểu mối tương quan ngơn ngữ - văn tự và
ngữ âm lịch sử tiếng Việt căn cứ vào cách viết thứ chữ này qua các thời kỳ; và của
các nhà sử học muốn tìm đến tư liệu chữ Nơm như một nguồn sử liệu để tìm hiểu quá
khứ của dân tộc.
Việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu chữ Nơm khơng chỉ có ý nghĩa đơn thuần
về khoa học, mà cịn thể hiện sự kế thừa có chọn lọc trong tinh thần lấy xưa phục vụ
nay, và thái độ trân trọng đối với những giá trị của di sản văn hóa dân tộc.
Tập giáo trình chữ Nơm này nhằm trang bị cho sinh viên những tri thức cơ bản
về chữ Nôm, giúp sinh viên bước đầu tiếp cận với văn bản Nơm, để sau này nếu muốn


họ có thể đi vào con đường nghiên cứu. Các chương 1, 2, 3 trình bày phần lý thuyết,
những vấn đề cơ bản của chữ Nôm, chương 4 là cách đọc một số bài văn Nơm.
Do mục đích, u cầu như vậy, chúng tơi khơng thể khơng điểm qua và hệ thống
hóa những tri thức, những thành tựu từ những cơng trình nghiên cứu của các học giả
tiền bối, đồng thời thêm phần đóng góp khiêm tốn của mình.
Nhân đây, chúng tơi xin chân thành cảm ơn những nhà nghiên cứu có những giả
thuyết, những ý kiến quý báu đã được dùng làm chất liệu xây dựng tập giáo trình này.

Soạn giả


Chương 1
THỜI KỲ XUẤT HIỆN CỦA
CHỮ NƠM

Chữ Nơm là một thứ chữ do nhân dân ta vận dụng chữ Hán mà chế tác ra để ghi
tiếng nói của dân tộc. Dân tộc ta từ thời đại các vua Hùng đã có một nền văn hóa và
tiếng nói riêng. Sự xuất hiện của chữ Nôm là một bước phát triển quan trọng của nền
văn hóa dân tộc. Đó là sự kiện lịch sử mang một ý nghĩa rất lớn, chứng tỏ sức sống
mãnh liệt, trí thơng minh sáng tạo, ý thức độc lập và tinh thần dân tộc trên lĩnh vực
văn hóa.
Chính cái tên gọi của thứ chữ này, chữ Nơm, đã nói lên rõ ràng đầy đủ ý nghĩa đó.
Nơm 喃 (khẩu + nam) hoặc 諵 (ngôn + nam) là thứ chữ viết để ghi tiếng nói của
người Việt, người phương Nam, thường gọi là quốc ngữ hay quốc âm, đối lập với chữ
Hán của người phương Bắc, người Trung Quốc.
Vấn đề đầu tiên đặt ra cho bất cứ ai muốn tìm hiểu, nghiên cứu chữ Nơm vẫn là
chữ Nơm có từ bao giờ? Câu trả lời khơng phải đơn giản. Thật vậy, về niên đại xuất
hiện của chữ Nôm, cho đến nay các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều thời điểm khác
nhau dựa trên những cơ sở khác nhau. Thậm chí đã có những ý kiến khác hẳn nhau
xuất phát từ cùng một cơ sở.

1.1. NHỮNG GIẢ THUYẾT TRƯỚC NAY VỀ THỜI KỲ XUẤT HIỆN
CỦA CHỮ NÔM
1.1.1. Những giả thuyết dựa trên nhu cầu xã hội và cứ liệu lịch sử
a. Chữ Nơm có từ thời Hùng Vương (2879 - 258 trước Tây lịch)
Người duy nhất đưa ra giả thuyết chữ Nơm đã có từ đời các vua Hùng là Phạm
Huy Hổ. Ông viết: “Thiết tưởng ta biết chữ Hán ấy ngay từ khi họ Hồng Bàng mới
dựng nước […] Xem như hiệu nước hiệu vua, tên mười tám đời, tên mười lăm bộ,
và các bách thần đời Hùng, các làng di tích đời Hùng, đều phân minh bằng chữ
Hán cả […] Nay xem các thần đời Hùng có nhiều vị duệ hiệu bán tự bán nơm, có
vị nơm na q, như là Ơng Cổng, Ơng Chấu, Chàng Cả, Chàng Hai, v.v… Những
tên nôm ấy nếu đổi ra chữ Hán thì có khó gì, thế mà dân đề hiệu, liệt triều sắc


phong, vẫn cứ để nguyên, là tục ta rất kính cẩn việc sự thần, không dám thay đổi
một nét. Nhân thế lại biết thêm được rằng chữ Nôm ta cũng sinh ra tự bấy giờ” 1.
b. Chữ Nơm có từ thời Sĩ Nhiếp (187 - 226)
Giả thuyết xưa nhất được biết hiện nay về thời kỳ xuất hiện của chữ Nơm là
của Pháp Tính, tác giả sách Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa 1. Thuyết này dựa trên
nhu cầu truyền bá học thuật và cho rằng chữ Nôm do Sĩ Nhiếp đặt ra để dạy người
Việt học chữ Hán. Bài tựa sách ấy có đoạn viết: “Chí ư Sĩ vương chi thời, di xa
tựu quốc, tứ thập dư niên, đại hành giáo hóa, giải nghĩa Nam tục dĩ thơng chương
cú, tập thành quốc ngữ thi ca dĩ chí hiệu danh, vận tác Chỉ nam phẩm vựng thượng
hạ nhị quyển”. (Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22, 1761) (= Đến khi Sĩ vương dời xe
tới nước ta, hơn bốn mươi năm, truyền bá giáo hóa, giải nghĩa bằng lời thơng tục
nước Nam để thông hiểu từng đoạn từng câu, họp lại thành thơ ca quốc ngữ để ghi
tên gọi, theo vần làm sách Chỉ nam phẩm vựng gồm hai quyển thượng và hạ).
Văn Đa cư sĩ (Nguyễn Văn San), tác giả sách Đại Nam quốc ngữ (đề tựa năm
Tự Đức thứ 33, 1880), ở thiên “Nghĩa lệ” cũng có ý kiến giống như Pháp Tính:
“Liệt quốc ngơn ngữ bất đồng, nhất quốc hữu nhất quốc ngữ. Ngã quốc tự Sĩ
vương dịch dĩ Bắc âm, kỳ gian bách vật do vị tường chí, như “thư cưu” bất tri hà

điểu, “dương đào” bất tri hà mộc”. (= Các nước ngôn ngữ khác nhau, nước nào có
tiếng nói của nước ấy. Nước ta từ Sĩ vương lấy tiếng phương Bắc mà dịch ra tiếng
ta, trong đó tên các vật cịn chưa ghi rõ, như “thư cưu” khơng biết ta gọi là chim gì,
“dương đào” khơng biết ta gọi là cây gì).
Để làm sáng tỏ thêm giả thuyết của Văn Đa cư sĩ, Sở Cuồng Lê Dư cho rằng
đương thời ta học sách chữ Hán tất phải lấy tiếng Việt để giải thích mới hiểu được,
và do đó phải có chữ Nơm để ghi tiếng Việt. Ơng viết: “Lấy ý riêng của tơi xét ra,
thì tưởng đương thời ta học sách chữ Tàu, thầy dạy hay là học trò học, thế nào cũng
phải lấy tiếng nước ta mà giải thích, mới có thể hiểu; lại cần phải có một thứ chữ gì
để làm phù hiệu, ghi cho dễ nhớ, nhân vậy Sĩ vương mới lựa những thứ chữ Hán
1

Phạm Huy Hổ, “Việt Nam ta biết chữ Hán từ đời nào?”, Nam phong tập V, số 29, 1 – 1919, tr.
416.
1
Trần Văn Giáp cho rằng Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa được biên soạn khoảng giữa thế kỷ XVII
và khắc in vào thế kỷ XVIII (“Lược khảo về nguồn gốc chữ Nôm”, Nghiên cứu lịch sử số 127,
10-1969, tr. 10). Đào Duy Anh đoán rằng sách ấy được soạn vào thời Lê sơ (thế kỷ XV) đồng
thời với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (Chữ Nôm - nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, Hà Nội,
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1975, tr. 115). Lê Văn Quán cho rằng sách ấy xuất hiện sau thế
kỷ XVI (Nghiên cứu về chữ Nôm, Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1981, tr. 153). Theo
Trần Xuân Ngọc Lan, sách ấy có nhiều khả năng xuất hiện khoảng giữa hai thế kỷ XVI và XVII
(Sơ bộ khảo sát quyển từ điển Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, Tóm tắt luận án Phó tiến sĩ, Hà Nội,
1982, tr. 34).


nào phát âm như tiếng ta, lấy những thứ chữ ấy để làm phù hiệu, âm cái tiếng chữ
Tàu; học trị học sách mà muốn nhớ tiếng chữ Hán, thì cũng phải nhớ lấy chữ Hán
hay là thứ tiếng chữ Hán khác, âm vào để cho khỏi quên, nhưng vì dùng chữ Hán
cũng không âm hết được thứ tiếng của mình, tỏ hết ý của mình, nhân vậy mới lấy

một nửa cái hình chữ Hán và một nửa chữ Hán khác hợp lại thành chữ, hoặc dùng
tiếng, hoặc dùng nghĩa, hoặc cùng ý hội, đem mà làm phù hiệu, dịch cái tiếng của ta;
đấy là một cái nguyên do bắt đầu bày ra thứ chữ Nôm”.
Một luận điểm nữa của Sở Cuồng là Sĩ Nhiếp vốn người Quảng Tây, ở đấy từ
xưa đã có một thứ tục tự giống như chữ Nôm, nên đã phỏng theo thứ chữ ấy mà
đặt ra chữ Nơm. Ơng viết tiếp: “Vả chăng Sĩ vương là người đất Quảng Tín, quận
Thương Ngơ, thuộc về đất tỉnh Quảng Tây nước Tàu bây giờ, mà bên ấy từ xưa đã
có một thứ chữ tục tự hệt như thứ chữ Nôm của ta, loại như: tiếng “ngánh” là nhỏ
thì viết ra chữ là
mà đọc là ngánh; tiếng “oảnh” là yên ổn thì viết ra chữ là
mà đọc là oảnh, tồn là thể thức như chữ Nơm của ta; cứ theo trong bộ sách Lĩnh
ngoại đại đáp của ông Chu Khử Phi đời Tống chép lại, thì rõ ràng thứ chữ tục ấy
tồn như thứ chữ Nơm của ta. Sĩ vương sang làm thứ sử nước ta mới suy theo lối
chữ tục của Quảng Tây, bày ra chữ Nôm ta, như lời Văn Đa cư sĩ nói”1.
Sau Sở Cuồng, mãi đến gần đây một số học giả vẫn còn tán thành ý kiến của
Pháp Tính và Văn Đa cư sĩ, như Nguyễn Đổng Chi 2, Trần Văn Giáp 3, Hồng
Trọng Miên 4.
c. Chữ Nơm có từ thời nước ta bị phong kiến phương Bắc thống trị
Theo Liên Giang, chữ Nôm là do các tăng lữ sáng chế sau khi đạo Phật đã
truyền bá sang nước ta. Các nhà sư khi viết sớ điệp, gặp những tên nôm na tất phải
đặt ra chữ mà viết 5.
Nghiêm Toản cũng cho rằng chữ Nơm đã có từ thời nước ta bị phong kiến
phương Bắc thống trị, phát sinh bởi nhu cầu về hành chính và giao dịch trong xã
hội. Ơng viết: “Người Tàu trong thời Bắc thuộc […] dạy ta dăm ba chữ Hán để
dùng trong đơn từ kiện tụng, công văn khế ước… Nhưng trong khi dùng những
chữ Hán như thế, có những tên (tên người, tên xứ, tên đồ vật), tỷ dụ: cu Mít, chị
Kếu, làng Rươi, làng Viềng, cái gàu, cái gáo… bắt buộc phải nói đến trong giấy
thì viết thế nào? Ắt là phải bịa ra chữ, viết na ná theo chữ Tàu. Như ở Ninh Bình
1


Sở Cuồng, “Chữ Nôm với quốc ngữ”, Nam phong tập XXX, số 172, 5 - 1932, tr. 495 - 496.
Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, tái bản, Sài Gòn, 1970, tr. 91 - 92.
3
Trần Văn Giáp, “Lược khảo về nguồn gốc chữ Nôm”, báo đã dẫn, tr. 7 - 25.
4
Hoàng Trọng Miên, “Từ nguồn gốc dân tộc Việt đến lịch sử chữ Nôm”, Lửa thiêng, số 2, 1 - 1975, tr.
119 - 132.
5
Liên Giang, “Chữ Nơm ta có tự bao giờ và ai sáng chế ra chữ ấy?”, Tri tân, số 40, 3 - 1942, tr. 4,
5, 20.
2


cịn một tấm bia từ đời Trần Dụ Tơng (1343), trong lịng bia có khắc tới 20 tên
làng bằng chữ Nơm. Đó là một bằng cớ làm cho ta có thể nhận lẽ trên là đúng”1.
d. Chữ Nơm có từ thế kỷ VIII
Một số học giả như Nguyễn Văn Tố, Dương Quảng Hàm căn cứ vào tôn hiệu
của Phùng Hưng để cho rằng chữ Nơm đã có từ cuối thế kỷ VIII 2. Dưới thời thuộc
Đường, Phùng Hưng đã lãnh đạo nghĩa qn nổi dậy chống chính quyền đơ hộ,
làm chủ đất nước (766 - 791). Sau khi ông mất, con là Phùng An nối ngôi, tôn ông
là Bố cái đại vương 布蓋大王. “Bố” là cha, “cái” là mẹ, là tiếng Việt thuần túy3.
Tôn hiệu này chứng tỏ rằng thời bấy giờ đã có chữ Nơm rồi.
đ. Chữ Nơm có từ đời Trần (từ thế kỷ XIII)
Một số học giả khác như L. Cadière, P. Pelliot, H. Maspéro thấy sử chép
Nguyễn Thuyên là người đầu tiên làm thơ phú bằng quốc âm, vội cho rằng chữ
Nôm xuất hiện vào thời Nguyễn Thuyên. Cadière và Pelliot viết: “[…] Như vậy vào
cuối thế kỷ XIII và đầu thế kỷ XIV văn học Nơm đã phát triển. Rất có khả năng là,
để ghi văn học này, vào lúc ấy người ta đã sáng chế những chữ biểu âm phát sinh từ
chữ Hán mà người ta gọi là chữ Nơm”1. Sau đó, trong một bài viết về ngữ âm lịch
sử tiếng Việt, Maspéro đã dẫn thuật giả thuyết trên đây của Cadière và Pelliot, và kể

đến tấm bia ở Hộ Thành Sơn (Ninh Bình) đề năm 1343 như là chứng tích xưa nhất
về chữ Nơm2.
1.1.2. Những giả thuyết dựa trên sự hình thành âm Hán Việt
Chữ Nôm được cấu tạo với những chất liệu vay mượn từ chữ Hán đọc theo âm
Hán Việt, do đó một số học giả đã coi sự hình thành âm Hán Việt là tiền đề cần
thiết cho sự xuất hiện của chữ Nơm, và suy đốn nguồn gốc chữ Nơm trên cơ sở
sự xác định thời kỳ hình thành âm Hán Việt. Những ý kiến thuộc loại này tuy xuất

1

Nghiêm Toản, Việt Nam văn học sử trích yếu, in lần thứ 2, Sài Gòn, 1949, tr. 63.
Xem Nguyễn Văn Tố, “Langue et littérature annamites - Notes critiques”, BEFEO, tập XXX, số
1 – 2, tr. 144, 145; Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, in lần thứ 2, Hà Nội, 1951, tr.
100, 101.
3
Sách Việt sử thông giám cương mục tiền biên, quyển 4, tờ 26b, chép: “Cổ tục hiệu phụ viết bố,
mẫu viết cái.” (= Tục xưa gọi cha là bố, mẹ là cái).
1
L. Cadière và P. Pelliot, “Première étude sur les sources annamites de ľ histoire ďAnnam”,
BEFEO, tập IV, số 3, 1904, tr. 621, chú.
2
H. Maspéro, “Etudes sur la phonétique historique de la langue annamite - Les initiales, BEFEO,
tập XII, số 1, 1912, tr. 7, chú 1.
2


phát từ cùng một khởi điểm, nhưng việc đoán định niên đại xuất hiện của chữ
Nơm khơng phải là hồn tồn giống nhau.
a. Chữ Nơm xuất hiện trong khoảng thế kỷ VIII – IX
Nguyễn Tài Cẩn, trong một loạt ba bài viết về chữ Nôm, đã so sánh hai hệ

thống ngữ âm tiếng Hán và Hán Việt, và căn cứ vào thanh mẫu và vận mẫu để
chứng minh rằng âm Hán Việt tương ứng với âm thời Đường - Tống chứ khơng
phải bắt nguồn từ thời thượng cổ, từ đó đi tới kết luận: “Nhìn chung, loại chữ Nơm
hiện có là một loại chữ khơng thể nào hình thành đồng thời hay sớm hơn thời Sĩ
Nhiếp. Chỉ từ thế kỷ thứ VIII thứ IX trở đi, nghĩa là sau khi hệ thống phát âm
Đường - Tống ghi trong Thiết vận, Quảng vận đã xác lập được ở Việt Nam (hệ
thống này về sau sẽ diễn biến dần và chuyển thành cách đọc Hán Việt hiện nay)
thì loại chữ Nơm mà chúng ta hiện thấy mới thực sự có đầy đủ tiền đề cần thiết để
xuất hiện”1.
Tiếp theo, Lê Văn Quán cũng căn cứ vào các cứ liệu ngữ âm lịch sử, so sánh
mối tương quan giữa âm tiết Hán và Hán Việt thể hiện ở ba mặt là âm đầu, vần và
thanh điệu để đi đến nhất trí với Nguyễn Tài Cẩn rằng âm Hán Việt hình thành
cuối đời Đường, và do đó loại chữ Nơm hiện có cũng khơng thể xuất hiện trước
cái mốc thời gian ấy. Ông viết: “Chữ Nôm chỉ xuất hiện khi âm Hán Việt đã được
hình thành ở Việt Nam, lúc nước nhà đang chuyển mình sang thời kỳ độc lập, tự
chủ tức là khoảng thế kỷ thứ VIII - IX”1.
b. Chữ Nôm xuất hiện trong khoảng thế kỷ X - XI
Đào Duy Anh cũng cho rằng chữ Nôm được cấu tạo trên cơ sở chữ Hán đọc
theo âm Hán Việt, mà quá trình ổn định của âm Hán Việt, theo ơng, có thể bắt đầu
từ khi họ Khúc dấy nghiệp (905) và tiếp diễn trong thời gian đầu của thời tự chủ.
Ông viết: “Chúng ta có thể suy rằng do yêu cầu mới của xã hội từ sau cuộc giải
phóng, đặc biệt dưới các triều Đinh, Lê và đầu triều Lý, chữ Nôm đã xuất hiện”2.

1

Xem Nguyễn Tài Cẩn, “Cứ liệu ngữ âm lịch sử với vấn đề thời kỳ xuất hiện của chữ Nôm”,
Ngôn ngữ , số 1, 1971; “Bổ sung thêm một số cứ liệu ngữ âm lịch sử có liên quan đến vấn đề thời
kỳ xuất hiện của chữ Nôm”, Thông báo khoa học (Văn học - Ngôn ngữ) tập V, Trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội, 1972; “Chữ Nôm, một thành tựu văn hóa của thời đại Lý - Trần” (viết chung
với N.V. Xtankêvich), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,

Hà Nội, 1980. Cả ba bài này được in lại trong Một số vấn đề về chữ Nôm của Nguyễn Tài Cẩn,
Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985, tr. 11 - 47, 86 - 137.
1
Lê Văn Quán, Nghiên cứu về chữ Nôm, sđd, tr. 69.
2
Đào Duy Anh, Chữ Nôm - nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, sđd, tr. 53.


Theo Đào Duy Anh, tấm bia Báo Ân thiền tự bi ký ở chùa Tháp Miếu huyện
Yên Lãng tỉnh Vĩnh Phú, đề niên hiệu Trị bình long ứng năm thứ 5 (1210) đời Lý
Cao Tơng, có 24 chữ Nơm là chứng tích chữ Nơm đầy đủ xưa nhất mà chúng ta
cịn giữ được3.
c. Chữ Nơm xuất hiện từ đời Lý (từ thế kỷ XI)
Trần Kinh Hòa đưa ra một thời điểm muộn hơn cho sự xuất hiện của chữ Nôm.
Theo ông, âm Hán Việt, mà ông gọi là “Việt độc”, hình thành vào đời Lý, và do
đó niên đại của chữ Nôm cũng bắt đầu từ đấy: “Sự chỉnh đốn về chế độ văn vật, sự
xuất hiện cuộc vận động văn hóa, sự thiết lập chế độ khoa cử đều bắt đầu từ triều
đại nhà Lý (1010 – 1225) […]. Bởi thế chúng ta suy luận rằng Việt độc (sinoannamite) đại khái được thành lập trong thời đại nhà Lý […] Chữ Nôm được chế
tác trong thời kỳ tương đối muộn nghĩa là sau khi Việt độc thành lập mới có sản
xuất chữ Nơm. Sở dĩ thế mà chúng tơi có thể đốn định niên đại thượng hạn của
chữ Nơm là bắt đầu từ triều đại nhà Lý”.1
1.1.3. Giả thuyết tổng hợp
Trong bài viết “Nguồn gốc chữ Nôm”, và sau đó, trong tập giáo trình Chữ
Nơm nhập mơn, Bửu Cầm tổng hợp một số ý kiến đã có để nêu lên giả thuyết: “Có
lẽ chữ Nơm đã manh nha vào khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ X, tức là
khoảng chuyển tiếp của hai thời kỳ tối cổ và tiền cổ Việt ngữ rồi hình thành vào
triều đại nhà Lý để thịnh hành vào triều đại nhà Trần”1.

3


Trước kia, khi nói đến tự tích xưa nhất về chữ Nôm, các nhà nghiên cứu thường nhắc đến tấm
bia ở Hộ Thành Sơn (tức núi Dục Thúy) ở Ninh Bình đề năm Thiệu Phong thứ 3 (1343) đời Trần
Dụ Tơng, trên có khắc 20 tên làng bằng chữ Nơm. Mới đây, Lê Văn Quán cho biết trong số văn
bia hiện có ở Thư viện Khoa học Xã hội thì bia Phụng thánh phu nhân Lê thị mộ chí dựng ở chùa
Diên Linh thuộc xã Hương Nộn tổng Dị Nậu huyện Tam Nơng tỉnh Vĩnh Phú, tạo năm Chính
long bảo ứng thứ 11 (1173) đời Lý Anh Tơng, có 8 chữ Nơm là chứng tích chữ Nơm xưa nhất.
1
Trần Kinh Hịa, “Hình thái và niên đại sản xuất của chữ Nơm” ngun bằng Hán văn, Đồn
Khốch dịch đăng tạp chí Đại học ở Huế số 35-36, tháng 10 và 12 - 1963, tr. 766, 767.
1
Xem Bửu Cầm, “Nguồn gốc chữ Nơm”, Văn hóa nguyệt san, số 50, 5 - 1960, tr. 354 - 355; Chữ
Nơm nhập mơn, giáo trình Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh (in ronéo), không ghi năm
tháng, tr. 12, 13.
Trong bài “Etudes sur la phonétique historique de la langue annamite – Les initiales”, bđd, tr. 10,
H. Maspéro đã chia lịch sử tiếng Việt ra làm năm thời kỳ như sau:
- Tối cổ Việt ngữ (Protoannamite) là tiếng Việt trước khi tiếng Hán Việt được hình thành;
- Tiền cổ Việt ngữ (Annamite archaique) có thêm tiếng Hán Việt (từ thế kỷ X);
- Cổ Việt ngữ (Annamite ancien) là tiếng Việt như trong tập từ vựng Hán - Việt của sách Hoa di
dịch ngữ (thế kỷ XV);


1.2. Ý KIẾN CỦA CHÚNG TÔI
1.2.1. Xét những giả thuyết nêu trên
Trở lên là những ý kiến đã có trước nay về vấn đề thời kỳ xuất hiện của chữ
Nôm. Nhìn chung, ý kiến khá phân tán, một số giả thuyết rõ ràng là sai lầm không
thể chấp nhận được, nhưng càng ngày các giả thuyết đưa ra càng có tính khoa học
cao và do đó có sức thuyết phục nhiều hơn.
a. Xét các giả thuyết trên, thuyết của Phạm Huy Hổ khơng hợp lý. Tự tích xưa
nhất của Trung Quốc là giáp cốt văn, thứ chữ bói tốn khắc trên những mảnh
xương trinh bốc (mai rùa và xương thú) mà theo sự nghiên cứu của các nhà khảo

cổ học Trung Quốc thì thuộc về đời Thương (1766 - 1123 trước Tây lịch); vậy
người Việt không thể biết chữ Hán và chế tác chữ Nôm từ thời đại Hùng Vương
(khoảng 2879 - 258 trước Tây lịch). Phải đến đầu kỷ nguyên Tây lịch người nước
ta mới tiếp xúc với nền văn hóa Hán, và từ thời Sĩ Nhiếp (cuối thế kỷ II - đầu thế
kỷ III) Hán học mới truyền bá sâu rộng vào nước ta; sau đó phải trải qua một giai
đoạn hoàn toàn dùng chữ Hán, người nước ta mới có thể vận dụng những yếu tố
sẵn có trong chữ Hán để đặt ra chữ Nôm.
b. Về giả thuyết của Pháp Tính, Văn Đa cư sĩ và Sở Cuồng, chúng ta khó có
thể tin rằng Sĩ Nhiếp là người sáng tạo ra chữ Nơm vì nhiều lẽ. Trước hết, sách
Chỉ nam phẩm vựng mà Pháp Tính cho là Sĩ Nhiếp biên soạn, thì ngồi Chỉ nam
ngọc âm giải nghĩa, khơng thấy một tư liệu nào khác nói đến. Còn bảo rằng Sĩ
Nhiếp là người Quảng Tây nên đã phỏng theo thứ tục tự Quảng Tây để chế tác chữ
Nơm thì cũng khơng đúng, bởi lẽ thứ tục tự ấy thuộc đời Tống chứ không phải
thuộc thời đại Sĩ Nhiếp; và trong sách Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khử Phi mà Sở
Cuồng viện dẫn có chép 13 tục tự Quảng Tây, tất cả đều là loại chữ hội ý, trái lại
chữ Nôm của ta chủ yếu là loại chữ hình thanh1. Ngồi ra, Nguyễn Tài Cẩn cũng
dùng những cứ liệu ngữ âm học lịch sử để bác bỏ giả thuyết này1.
Tuy nhiên, chúng ta có thể tán thành ý kiến cho rằng do yêu cầu của việc
giảng dạy và học tập trong thời Bắc thuộc, thầy dạy cũng như học trò tất đã dùng
những chữ Hán đồng âm với từ Việt để ghi âm tiếng Việt cho dễ hiểu dễ nhớ.
- Trung đại Việt ngữ (Annamite moyen) là tiếng Việt như trong từ điển của Alexandre de
Rhodes (thế kỷ XVII);
- Cận đại Việt ngữ (Annamite moderne) là tiếng Việt thế kỷ XIX.
Maspéro cũng dùng thuật ngữ “tiền Việt ngữ” (préannamite) để chỉ tiếng nói chung của người
Việt và người Mường trước khi có sự phân ly thành hai thứ tiếng khác nhau.
1
Xem Trần Kinh Hịa, “Hình thái và niên đại sản xuất của chữ Nôm”, bđd, tr. 750 - 751, 762.
1
Xem Nguyễn Tài Cẩn, “Cứ liệu ngữ âm lịch sử với vấn đề thời kỳ xuất hiện của chữ Nôm”, bđd,
tr. 26 - 43.



c. Giả thuyết của L. Cadière và P. Pelliot rõ ràng là sai lầm, vì Nguyễn
Thuyên là người đầu tiên làm thơ phú chữ Nôm, chứ không phải là người đầu tiên
đặt ra chữ Nơm. Sách Hải đơng chí lược (A.103, tờ 38b) của Ngơ Thì Nhậm chép:
“Ngã quốc văn tự đa dụng quốc ngữ tự Thuyên thủy” (= Văn tự nước ta dùng
nhiều quốc ngữ bắt đầu từ Nguyễn Thuyên). Hơn nữa, những tấm bia đời Lý trên
có khắc một số chữ Nôm là bằng cớ cho thấy chữ Nôm đã xuất hiện trước thời
Nguyễn Thuyên. Vả chăng, sự kiện Nguyễn Thuyên và những người đồng thời với
ông như Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An dùng chữ Nôm làm thơ phú chứng tỏ đến thế
kỷ XIII thứ chữ này đã phát triển thành một hệ thống văn tự có thể dùng để sáng
tác văn học. Cũng có khả năng là trong khi làm thơ phú quốc âm, các tác giả này
đã đặt thêm một số chữ Nôm mới, nhưng như vậy khơng có nghĩa là chữ Nơm mới
bắt đầu xuất hiện.
d. Giả thuyết của Liên Giang, của Nghiêm Toản có thể tin được. Ngay cả
Nguyễn Tài Cẩn, mặc dù đứng ở địa hạt ngữ âm học lịch sử để nghiên cứu vấn đề
thời kỳ xuất hiện của chữ Nôm, cũng cho rằng “thời kỳ này chắc hẳn cũng có cả
một số hiện tượng ngược lại: hiện tượng chen những địa danh, nhân danh hay chen
những tiếng chỉ những sản vật địa phương mà chỉ ở Việt Nam mới có, v.v… Tất
yếu tình hình này cũng đã làm nảy sinh ra một hậu quả là lắm khi trong khi viết, bắt
buộc phải chen cả những trường hợp dùng chữ Hán để ghi tiếng Việt” và rằng “Chữ
Nôm lúc đầu chắc là một lối chữ được sản sinh ra và được sử dụng chủ yếu là ở nhà
chùa”1. Tuy nhiên, ý kiến của Liên Giang, Nghiêm Toản là những suy đoán có phần
đơn giản, chúng tơi sẽ bàn rõ thêm ở một đoạn sau.
đ. Về giả thuyết của Nguyễn Văn Tố, Dương Quảng Hàm dựa vào tôn hiệu
“Bố cái đại vương” để cho rằng chữ Nôm đã xuất hiện từ thế kỷ VIII, Đào Duy
Anh nêu nghi vấn là tôn hiệu ấy có ngay sau khi Phùng Hưng mất, nhưng được
chép vào sử sách thì phải ở khi bắt đầu có sử, mà mãi đến Đại Việt sử ký toàn thư
ở thời Lê sơ mới thấy chép hiệu “Bố cái đại vương”; và tấm bia ở đền thờ Phùng
Hưng thuộc xã Cam Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây, dựng năm Quang Thái

thứ 3 (1390) đời Trần Thuận Tông, cũng không thấy chép hiệu ấy, vậy làm sao có
thể tin chắc những chữ Nơm “bố” và “cái” đã có từ thế kỷ VIII2. Theo ý chúng tơi
thì danh hiệu “Bố cái đại vương” là để truy tôn một vị chủ tể trong nước, nên chắc
chắn đương thời phải được ghi chép vào một loại giấy tờ nào đó chẳng hạn như
sắc phong, văn tế, sớ điệp.
Trần Kinh Hịa, ngồi hồi nghi về sử sách tương tự như của Đào Duy Anh, còn
đặt vấn đề là giả sử hai tiếng “bố cái” đã được chép từ thế kỷ VIII thì do những chữ
1

Nguyễn Tài Cẩn và N.V. Xtankêvich, “Chữ Nôm, một thành tựu văn hóa của thời đại Lý - Trần”
in lại trong Một số vấn đề về chữ Nôm, sđd, tr. 33, 42.
2
Xem Đào Duy Anh, Chữ Nôm - nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, sđd, tr. 42.


gì biểu ký, vì hai chữ “bố cái” được chép trong Cương mục chưa chắc thể theo chữ
Nôm hồi thế kỷ VIII1. Chúng tôi cho rằng vấn đề hai tiếng “bố cái” được viết theo
lối nào chỉ có ý nghĩa đối với phương thức cấu tạo chữ Nôm, chứ không ảnh hưởng
gì đến việc đốn định thời điểm xuất hiện của nó. Nói chung, giả thuyết này được
nhiều người cho là xác thực vì có căn cứ lịch sử 2.
e. Các ý kiến của Nguyễn Tài Cẩn, Lê Văn Quán, Đào Duy Anh, Trần Kinh
Hịa và Bửu Cầm, tuy có sai biệt nhau ít nhiều về niên đại, song đều là những giả
thuyết hợp lý và có cơ sở khoa học.
1.2.2. Q trình hình thành của chữ Nơm
Việc chế tác chữ Nôm là công việc của nhiều người và nhiều thế hệ. Sự hình
thành chữ Nơm là một q trình lâu dài trong đó sự kiện Nguyễn Thuyên bắt đầu
làm thơ phú quốc âm nổi bật lên như một cái mốc lớn đánh dấu một bước phát
triển, một bước ngoặt quan trọng của lịch sử chữ Nôm. Một cái mốc khác trước cái
mốc thế kỷ XIII phải là thế kỷ X, bởi lẽ từ đầu thế kỷ này nước nhà bước vào kỷ
nguyên độc lập tự chủ, cách đọc Hán Việt bắt đầu hình thành; thêm nữa, cũng ở

thế kỷ này, quốc hiệu nửa Hán nửa Nôm “Đại Cồ Việt” (968) cho thấy chữ Nơm
mặc nhiên được nhìn nhận như một thực thể. Xa hơn trong quá khứ, tôn hiệu “Bố
cái đại vương” của Phùng Hưng (791) chỉ cho biết ở thời điểm cuối thế kỷ VIII
chữ Nôm đã xuất hiện, chứ khơng có nghĩa là bắt đầu xuất hiện, và như vậy chúng
ta thiếu cái mốc đầu.
Với hai cái mốc thế kỷ X và XIII, chúng tôi chia quá trình hình thành của chữ
Nơm ra làm ba thời kỳ như sau:
a. Thời kỳ manh nha (thời Bắc thuộc)
Trong hơn một ngàn năm bị phong kiến phương Bắc thống trị, thiết tưởng do
yêu cầu của xã hội về các mặt truyền bá học thuật, tơn giáo, hành chính, giao dịch,
khi cần ghi chép những tên người, tên đất, tên vật nôm na vào giấy tờ, chắc chắn
người ta phải nghĩ cách viết, và thế là chữ Nôm bắt đầu xuất hiện. Đó là những chữ
Nơm lẻ tẻ được dùng xen vào giữa những hàng chữ Hán trong các công văn, đơn từ,
sớ điệp và trên các bia đá, chuông đồng mà chỉ một số ít bia và chng thuộc thời
kỳ sau (đời Lý) còn giữ được cho đến ngày nay. Vào buổi đầu, chữ Nôm mới chỉ là
những chữ Hán được dùng ghi âm tiếng Việt giống như cách dùng chữ Hán phiên

1

Xem Trần Kinh Hịa, “Hình thái và niên đại sản xuất của chữ Nôm”, bđd, tr. 762 - 763.
Xem Bửu Cầm, “Nguồn gốc chữ Nôm”, bđd, tr. 354; Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Lịch
sử Việt Nam, tập I, Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1971, tr. 133, chú 1.
2


âm tiếng Việt để thích nghĩa trong Sứ Giao Châu thi tập của Trần Cương Trung đời
Nguyên1 và trong An Nam dịch ngữ đời Minh2.
Ở thời kỳ này, chúng ta khơng có một tự tích chữ Nơm nào ngồi cứ liệu lịch
sử là tôn hiệu “Bố cái đại vương”, trong đó hai tiếng “bố cái” được viết bằng hai
chữ 布蓋 là chữ thuộc loại tá âm. Xem vậy đủ rõ buổi đầu chữ Nơm là những chữ

Hán có sẵn được mượn âm để ghi âm tiếng Việt. Tất nhiên những chữ Hán tá âm
này được dùng ghi âm tiếng Việt trong tình hình ngữ âm tiếng Hán và ngữ âm tiếng
Việt đương thời. Hơn nữa, nhìn ở khía cạnh chế tác mà nói, chữ Nơm đúng nghĩa
phải là những chữ sáng tạo, mà vào buổi đầu loại chữ này nếu có thì cũng rất hiếm.
Cho nên có thể xem đây là thời kỳ manh nha của chữ Nôm, chữ Nôm chỉ mới xuất
hiện lẻ tẻ, chưa thành một hệ thống văn tự và cũng chưa thông dụng.
b. Thời kỳ thành lập (thế kỷ X - XII)

1

Trong Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn dẫn Sứ Giao Châu thi tập của Trần Cương Trung đời
Nguyên (thế kỷ XIII) có đoạn dùng chữ Hán phiên âm tiếng Việt để thích nghĩa chữ Hán, trong
đó có những chữ gần như chữ Nơm của ta:
Chữ Hán
Thích nghĩa
天 thiên
勃 耒 bột lỗi (blời > trời)
地 địa



đát

(đất)

風 phong



giáo


(gió)

雲 vân



mai

(mây)

眼 nhãn



mạt

(mắt)

口 khẩu



mãnh

(miệng)

父 phụ




tra

(cha)

夫 phu



trùng

(chồng)

2

Hoa di dịch ngữ là bộ sách phiên dịch chữ Hán ra 13 thứ tiếng nước ngồi, trong đó có phần An
Nam dịch ngữ mà nhà Hán học người Pháp E. Gaspardone cho là được biên soạn vào khoảng thế
kỷ XVI. Phần từ vựng Hán - Việt này có 716 từ, ở đây xin dẫn một số chữ:
Chữ Hán
Thích nghĩa
天 thiên



lơi

(lời > trời)

地 địa




đắc

(đất)

風 phong



giáo

(gió)

雲 vân



mai

(mây)

星 tinh



sao

(sao)



Chữ Nôm, như chúng ta thấy hiện nay, là một hệ thống văn tự với quy cách
cấu tạo đa dạng, được xây dựng trên cơ sở chất liệu chữ Hán đọc theo âm Hán
Việt bắt nguồn từ âm Đường. Cách đọc theo âm Đường do người Trung Quốc dạy
người Việt ở khoảng thế kỷ VIII – IX. Nhưng từ khi Việt Nam giành được độc lập
từ tay bọn phong kiến phương Bắc – từ 905 khi Khúc Thừa Dụ xây dựng một
chính quyền tự chủ và nhất là từ 938 khi Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán ở
sông Bạch Đằng – tiếng Hán ở Việt Nam hoàn toàn cách ly với tiếng Hán ở Trung
Quốc và âm Đường mà người Việt đã học được dần dần biến đổi dưới tác động
của quy luật ngữ âm tiếng Việt mà hình thành cách đọc Hán Việt. Xét ở góc độ ấy
thì chữ Nơm khơng thể hình thành trước khi âm Hán Việt ổn định vào đời Lý. Tuy
nhiên có khả năng là chữ Nơm hình thành đồng thời với sự hình thành âm Hán
Việt tức từ thế kỷ thứ X, chứ không phải đợi cho cách đọc Hán Việt ổn định rồi
người ta mới chế tác chữ Nôm. Thật vậy, để hiểu điều này, trước hết chúng ta có
thể bằng vào tình hình là tuy chữ Nơm được cấu tạo trên cơ sở những chất liệu vay
mượn từ chữ Hán đọc âm Hán Việt, nhưng vẫn có một số chữ mượn nguyên chữ
Hán đọc theo âm Hán Việt cổ có trước cách đọc Hán Việt, như chữ
Hán Việt là phù),

符 bùa (âm

歲 tuổi (âm Hán Việt là tuế), 務 mùa (âm Hán Việt là vụ),

v.v… hoặc một số chữ khác thuộc loại hình thanh có thành tố chỉ âm đọc theo âm
Hán Việt cổ, như chữ

múa (thủ + vũ đọc theo âm Hán Việt cổ là múa),

mùa (nhật + vụ đọc âm Hán Việt cổ là mùa), v.v… Mặt khác, chúng ta cũng có
thể dẫn vài cứ liệu chữ Nơm cấu tạo theo mơ hình âm + âm (gồm hai thành tố đều

biểu âm) ở thời kỳ sau để chứng minh cho luận điểm này, như chữ

hoặc

trước. Trên cơ sở cách đọc Hán Việt thì cấu thức của nó là xa + lược, ghi âm tlước
> trước. Nhưng một vài nhà ngôn ngữ học đã không dừng lại ở âm Hán Việt xa
của chữ

車, mà đi xa hơn, tìm đến âm Hán trung cổ của nó là cư (cửu ngư thiết

hoặc cân ư thiết), thuộc thanh mẫu kiến, có âm trị /k/, và phân tích thành cư +
lược để phục nguyên âm cổ klước. Tương tự như vậy, chữ
sau được phân tích
1
thành cư + lâu .

1

Xem Nguyễn Tài Cẩn, “Một vài nhận xét về tình hình diễn biến của chữ Nơm”, Ngôn ngữ số 4,
1983; Trần Xuân Ngọc Lan, “Dấu vết tổ hợp âm đầu trên chữ Nôm”, Ngôn ngữ số 3, 1984.


Cứ liệu để nghiên cứu tình hình chữ Nơm ở thời kỳ này gồm có quốc hiệu
“Đại Cồ Việt” (968) và ba tự tích là chng đồng chùa Vân Bản ở Đồ Sơn (1076) 2,
bia Phụng thánh phu nhân Lê thị mộ chí (1173) và bia Báo Ân thiền tự bi ký
(1210).
Chữ 瞿 cồ trong “Đại Cồ Việt” là chữ Nôm thuộc loại chữ Hán mượn âm (giả
tá hoặc tá âm).
Trong hai chữ Nôm trên chuông đồng chùa Vân Bản, chữ


翁 ông thuộc loại

chữ Hán mượn cả âm lẫn nghĩa, chữ 何 hà là chữ Hán mượn âm.
Bia Phụng thánh phu nhân Lê thị mộ chí có 8 chữ Nơm, trong đó 3 chữ thuộc
loại chữ Hán mượn cả âm lẫn nghĩa (婆 bà,
chữ Hán mượn âm (感 cảm,
thanh (

cửa,

頭 đầu, 亭 đình), 3 chữ thuộc loại

午 ngõ) và 2 chữ sáng tạo theo phép hình

bến, 滝 sơng).

Bia Báo Ân thiền tự bi ký có tất cả 40 chữ Nơm kể cả 2 chữ ở đầu đề bài ký là
“Hội thích giáo thiền tự già Báo Ân tự bi ký”1, nhưng vì có một số chữ được dùng
nhiều lần và 2 chữ tên người bị cạo mất, nên thật ra chỉ có 22 mặt chữ: 會 hội, 禪
thiền,

bơi (4 lần),

塘 đường, 山 sơn,

幡 phướn (2 lần), 酒 dậu, 同 đồng (3 lần),
nhe,

oản (2 lần),


hấp,

chài,

尚 thượng (10 lần), 咸 hàm, 豸 trãi,

皂 tạo, 來 lai, 滯 trệ, 炎 viêm, 越 việt, 穩 ổn, 拋 phao, phân loại chữ như sau:

2

Chuông đồng chùa Vân Bản ở Đồ Sơn được ngư dân địa phương vớt ở đáy biển lên năm 1958
và được giới thiệu trên báo Tổ quốc số 3 năm 1963. Niên đại đúc chng này được cho là vào
năm Bính Thìn (1076) đời Lý Nhân Tơng, trên có hai chữ Nơm. Đây là chứng tích xưa nhất về
chữ Nơm, nhưng vì số chữ Nơm trên đó q ít nên khơng được các nhà nghiên cứu xem là quan
trọng như bia Phụng thánh phu nhân Lê thị mộ chí và bia Báo Ân thiền tự bi ký có nhiều chữ
Nơm hơn. (Xem Đào Duy Anh, Chữ Nôm - nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, sđd, tr. 12 - 14).
1
Chữ hội và chữ thiền tuy là chữ Hán, nhưng dùng theo ngữ pháp tiếng Việt, nên phải coi đấy là
chữ Nôm.


- Chữ Hán mượn cả âm lẫn nghĩa đọc âm Hán Việt: 3 chữ (hội, thiền,
thượng).
- Chữ Hán mượn âm Hán Việt cổ: 1 chữ (phướn).
- Chữ Hán mượn âm Hán Việt: 13 chữ (đồng, hấp, đường, sơn, hàm, trãi, tạo,
lai, trệ, viêm, việt, ổn, phao).
- Chữ sáng tạo hình thanh: 5 chữ (bơi, dậu, chài, nhe, oản).
Trong một bài văn bia bằng chữ Hán chỉ dùng xen kẽ một số chữ Nôm, thế mà
cách cấu tạo đã gần đầy đủ với số chữ hình thanh chiếm tỷ lệ 22,7%, chứng tỏ ở
thời kỳ này việc chế tác chữ Nôm về cơ bản đã hình thành.

Một cứ liệu khác hồn tồn ủng hộ cho đốn định này là trong sách Lĩnh ngoại
đại đáp, Chu Khử Phi có chua thêm dưới 13 tục tự Quảng Tây (thứ chữ của người
Choang) rằng: “Án Giao Chỉ ngữ tự, tự hữu dị …” (= Xét chữ tiếng Giao Chỉ, chữ
có khác …) 1. Thứ chữ mà tác giả sách Lĩnh ngoại đại đáp gọi là “Giao Chỉ ngữ
tự” chính là chữ Nơm, “hữu dị” ý muốn nói chữ Nơm là chữ hình thanh, khác với
chữ của người Choang là chữ hội ý. Sách này được biên soạn năm 1178, nên câu
trên đây là một bằng chứng quý báu và vững chắc cho thấy ở nửa sau thế kỷ XII
chữ Nôm đã được thành lập.
c. Thời kỳ phát triển (từ đời Trần, thế kỷ XIII)
Đến thế kỷ XIII, chữ Nôm đã phát triển đủ để có thể đáp ứng cho yêu cầu sáng
tác văn học bằng tiếng nói của dân tộc. Với phong trào làm thơ phú quốc âm do
Nguyễn Thuyên khởi xướng, chữ Nôm dần dần thịnh hành.
Trải qua các triều đại phong kiến, chữ Nơm chưa bao giờ được chính quyền
cơng nhận là thứ văn tự quốc gia, và do đó cũng chưa bao giờ được điển chế hóa
thành một hệ thống chữ viết chính thức để mọi người theo đó mà dùng. Mỗi người
theo ý riêng mà đặt chữ, nên cùng một từ có thể có nhiều cách viết khác nhau,
thiếu nhất trí về tự dạng. Chữ Nơm từ khi xuất hiện cho đến lúc suy tàn vào đầu
thế kỷ XX, vẫn không ngừng sản sinh thêm những chữ mới để ghi những từ mới
nhằm bổ sung khối lượng chữ đã có, và những cách ghi mới để cải tiến những chữ
đã có trước cho được hợp lý hơn hoặc cho phù hợp hơn với sự thay đổi của ngữ
âm. Và ở chặng cuối cuộc hành trình của nó, chữ Nơm phản ánh cách phát âm của
các tỉnh miền Nam, tạo thành một thứ chữ Nôm địa phương mà một số nhà nghiên
cứu gọi là chữ Nôm Nam Bộ.
1

Dẫn bởi Trần Kinh Hịa, “Hình thái và niên đại sản xuất của chữ Nôm”, bđd, tr. 768.


Chương 2
CẤU THỨC CỦA CHỮ NƠM

Muốn đọc được chữ Nơm, trước hết cần hiểu rõ cách cấu tạo thứ chữ này. Mặt
khác, do mối tương quan mật thiết giữa ngôn ngữ và văn tự, việc nghiên cứu
phương thức cấu tạo chữ Nôm cũng giúp thêm những cứ liệu quý báu cho ngơn
ngữ học lịch sử. Trước nay khơng ít học giả trong và ngoài nước đã đề cập cách
cấu tạo chữ Nơm, thế nên về vấn đề này cũng có nhiều ý kiến khơng kém gì vấn
đề niên đại xuất hiện của chữ Nôm.
2.1. NHỮNG CÁCH PHÂN LOẠI CẤU THỨC CỦA CHỮ NƠM ĐÃ CĨ
TRƯỚC NAY
Nhìn lại những ý kiến đã phát biểu về vấn đề phương thức cấu tạo chữ Nơm,
đại để chúng ta thấy có ba cách phân loại khác nhau: phân loại theo lục thư, phân
loại dựa vào nguồn gốc tiếng Việt trong mối tương quan với tiếng Hán Việt và
phân loại theo hướng ngữ âm và ngữ âm lịch sử.
2.1.1. Phân loại cấu thức của chữ Nôm theo lục thư
Chữ Nôm được cấu tạo với những thành tố mượn từ chữ Hán, vì thế xưa nay
giới nghiên cứu Hán Nôm thường cho rằng cách cấu tạo chữ Nôm của ta là phỏng
theo lục thư, tức sáu phép cấu tạo chữ Hán của Trung Quốc. Trong bài tựa sách Tự
học toản yếu soạn ở thế kỷ XVIII, Ngơ Thì Nhậm viết: “Lục thư thùy tắc, tứ hải
đồng văn” (= Lục thư để phép tắc lại, bốn biển cùng theo một lối chữ như nhau), ý
nói chữ Nơm cũng được cấu tạo theo cách cấu tạo chữ Hán1.
Mãi về sau này nhiều người còn đi theo con đường lục thư để tìm hiểu phương
thức cấu tạo chữ Nơm, như Vương Lực2, Nguyễn Quang Xỹ và Vũ Văn Kính3,
Đào Duy Anh4, v.v… Trong số này, Đào Duy Anh nghiên cứu vấn đề thấu đáo

1

Lục thư là tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú và giả tá, trong đó chuyển chú và
giả tá khơng sản sinh ra chữ mới. Cách cấu tạo chữ Nôm của ta chỉ mượn ba phép của lục thư là
hội ý, giả tá và hình thanh.
2
Xem Vương Lực, Hán ngữ sử cảo, Bắc Kinh, Khoa học xuất bản xã, 1958, tr. 608 - 609.

3
Xem Nguyễn Quang Xỹ và Vũ Văn Kính, Tự điển chữ Nơm, Sài Gịn, Trung tâm Học liệu, 1971,
tr. IX - XIII.
4
Xem Đào Duy Anh, Chữ Nôm – nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, sđd, tr. 59 - 113.


hơn cả, nên chúng ta phân tích ý kiến của ơng để làm thí dụ điển hình cho cách
phân loại theo lục thư.
Đào Duy Anh chia chữ Nôm ra làm ba loại: hội ý, giả tá và hình thanh.
1. Phép hội ý
Phép này dùng hai chữ Hán, lấy ý nghĩa của hai chữ ghép lại với nhau mà gợi
lên cái khái niệm muốn ghi. Thí dụ:
Chữ trời

thì viết chữ thiên

天(= trời) ở trên chữ thượng 上 (= trên), tức

là trên trời, để gợi lên khái niệm trời.
Chữ trùm

gồm có chữ nhân 人 (= người) ở trên chữ thượng 上 (= trên) để

chỉ người ở trên người khác, tức người đứng đầu cả làng mà tục gọi là ông trùm.
Chữ seo

chỉ người làm việc hầu hạ như là tôi tớ ở trong làng, tức người ở

dưới mọi người, nên viết chữ nhân 人 (= người) ở trên chữ hạ 下 (= dưới).

Chữ rằm

viết một bên chữ vọng 望 (= ngày rằm) và một bên chữ ngũ 五

(= số 5) để gợi ý ngày mười lăm.
Chữ mấy 氽 có lẽ nguyên viết là 众 gồm ba chữ nhân 人 (= người) để gợi ý
mấy người, mượn ý ấy mà biểu hiện khái niệm mấy; về sau người ta quên đây là
chữ hội ý, tiện tay viết thành 氽 hoặc

, 尒.

2. Phép giả tá
Theo Đào Duy Anh, giả tá là phép mượn nguyên cả chữ Hán để viết chữ Nơm,
có năm cách:
a. Cách mượn chữ Hán đọc theo âm xưa, tức theo âm chữ Hán từ thời Đường
về trước, trước khi âm Hán Việt được tương đối ổn định. Thí dụ:
Tuổi 歲 (âm Hán Việt là tuế)
Mùa 務 (âm Hán Việt là vụ)
b. Cách mượn chữ Hán để biểu hiện những từ Hán Việt. Thí dụ:


Thành 城, thị 市, sơn 山, lâm 林
c. Cách mượn chữ Hán theo âm Hán Việt để biểu hiện những từ đồng âm mà
không đồng nghĩa. Theo Đào Duy Anh, vì những âm trùng nhau giữa tiếng Việt và
tiếng Hán Việt tương đối ít, nên những chữ về loại này khơng nhiều. Thí dụ:
Chữ

腰 âm Hán Việt là u (= lưng) được mượn ghi âm nôm yêu với nghĩa

yêu quý.

Chữ 撑 âm Hán Việt là xanh (= chống giữ) được mượn ghi âm nôm xanh với
nghĩa xanh tốt.
Chữ 卒 âm Hán Việt là tốt (= binh lính) được mượn ghi từ Việt đồng âm với
nghĩa xanh tốt.
Chữ 半 âm Hán Việt là bán (= một nửa) được mượn ghi từ Việt đồng âm với
nghĩa bán chác.
d. Cách mượn chữ Hán mà âm Hán Việt gần với từ Việt để biểu hiện từ ấy
một cách gần giống. Thí dụ:

Việt

Hán Việt

Biết

Biệt





Cố



Cịn

Quần




Chăng, chẳng

Trang



Chơi

Chế



Được

Đặc



Hơn

Hân




Mới

Mãi




Nữa

Nữ



Về

Vệ

Có khi người ta thêm dấu cá hay nhấp nháy < ở bên phải của chữ để chỉ
rằng chữ ấy phải đọc chệch đi mới đúng. Thí dụ:
Lặng
Chác

(âm Hán Việt là lãng)
(âm Hán Việt là giác)

Này
(âm Hán Việt là ni)
Rồi
(âm Hán Việt là lỗi)
đ. Cách mượn chữ Hán đọc theo nghĩa, nhưng nghĩa ấy không phải là âm Hán
xưa như ở trường hợp giả tá thứ nhất. Thí dụ:
Làm 爫 là chữ vi 為(= làm) viết tắt.
3. Phép hình thanh
Đào Duy Anh phân biệt hai cách hình thanh:
a. Dùng một bộ thủ làm nghĩa phù và một chữ Hán làm âm phù. Thí dụ:


伵 (bộ nhân 亻 chỉ nghĩa + chữ tứ

Tớ

四 chỉ âm)

刂 chỉ nghĩa + chữ chiếm 占 chỉ âm)

Chém

(bộ đao

Bể

(bộ thủy 氵

chỉ nghĩa + chữ bỉ

彼 chỉ âm)

Bắt

扒 (bộ thủ 扌 chỉ nghĩa + chữ bát

八 chỉ âm)

Bảo

(bộ khẩu 口 chỉ nghĩa + chữ bảo


保 chỉ âm)

Núi

(bộ sơn

山 chỉ nghĩa + chữ nội

内 chỉ âm)

(bộ tử

子 chỉ nghĩa + chữ côn

昆 chỉ âm)

(bộ nữ

女 chỉ nghĩa + chữ cái

丐 chỉ âm)

Con
Gái
Cọc

梮 (bộ mộc 木 chỉ nghĩa + chữ cục 局 chỉ âm)



Da

(bộ nhục 肉 chỉ nghĩa + chữ đa

Nghe

(bộ nhĩ

耳 chỉ nghĩa + chữ nghi 宜 chỉ âm)

Tấm

(bộ mễ

米 chỉ nghĩa + chữ tâm

Búa

鈽 (bộ kim 金 chỉ nghĩa + chữ bố

Cơm

(bộ thực 食 chỉ nghĩa + chữ cam

Vẩy

(bộ ngư

魚 chỉ nghĩa + chữ vĩ


多 chỉ âm)

心 chỉ âm)
布 chỉ âm)
甘 chỉ âm)
尾 chỉ âm)

b. Dùng một chữ Hán làm nghĩa phù và một chữ Hán làm âm phù.
Thí dụ:
Ắt

(tất



ắt

+ ất)

Ba

(tam



ba

+ ba)

Cỏ


(thảo



cỏ

+ cổ)

Già
Lành

(lão
(thiện




già + trà)
lành + lệnh)

Mặt

(diện



mặt + mạt)

Nên


(thành là

nên + niên)

Ra

(xuất



ra

Tay

(thủ



tay + tây)

+ la)

(vương là vua + bố)
Vua
So với những người đi trước, Đào Duy Anh nghiên cứu vấn đề một cách toàn
diện hơn và sử dụng khá nhiều cứ liệu ngữ âm lịch sử, do đó cũng có tính khoa
học hơn. Tuy nhiên, trước hết, cách phân loại của ông có vài điểm chưa được thỏa
đáng do cách ông dùng từ ngữ ‘‘giả tá’’.
‘‘Giả tá’’ nghĩa rộng là vay mượn, và nghĩa hẹp là nghĩa của thuật ngữ ‘‘giả

tá’’ trong lục thư. Trong sách Thuyết văn giải tự, Hứa Thận giải thích loại chữ giả
tá như sau: “假借者本無其字依聲託事令長是也 Giả tá giả bản vô kỳ tự,
y thanh thác sự, lệnh trưởng thị dã’’. (= Chữ giả tá là vốn không có chữ ấy, nhân


mượn âm gửi việc, như chữ lệnh, chữ trưởng là loại chữ đó). Nói cách khác, giả tá
khơng phải là phép sáng tạo ra chữ mới, mà chỉ là cách mượn cái vỏ ngữ âm của
một chữ sẵn có để ghi một từ đồng âm khác nghĩa, tức là phép tá âm. Chính vì vậy,
một học giả đời Thanh chú giải sách Thuyết văn giải tự là Đoàn Ngọc Tài nói rõ
thêm: “有假借而一字可數義也 Hữu giả tá nhi nhất tự khả sổ nghĩa dã’’. (=
Có phép giả tá nên một chữ mới có thể có tới mấy nghĩa). Trong chữ Nơm của ta,
giả tá là phương thức mượn âm của chữ Hán sẵn có để ghi từ Việt đồng âm khác
nghĩa. Thí dụ:
Chữ ta 些(= ít) được mượn để ghi âm ta trong “người ta’’, “chúng ta’’.
Chữ qua

戈(= một thứ binh khí ngày xưa) được mượn để ghi âm qua với

nghĩa ‘‘trải qua’’.
Ngồi ra, người ta cũng dùng những chữ Nơm sẵn có để ghi những từ đồng âm
khác nghĩa, gọi là cách giả tá Nôm, như:
Chữ Nôm chơi

(= đi chơi) được mượn để ghi âm chơi trong từ ‘‘chơi vơi’’.

Chữ Nôm chột

(= chột mắt) được mượn để ghi âm chột trong từ “chột dạ’’.

Thế nên, trong năm cách giả tá mà Đào Duy Anh phân loại, chỉ có cách thứ ba

(cách c) và thứ tư (cách d) mới đúng là giả tá. Trường hợp những chữ Hán đọc
theo âm xưa (cách a) và đọc theo âm Hán Việt (cách b) với ý nghĩa vốn có của
chúng, khơng thể xem là giả tá được. Cũng vậy, chúng ta không thể xếp những
chữ Hán đọc theo nghĩa (cách đ) vào loại giả tá, bởi lẽ, như đã nói ở trên, giả tá là
phương thức mượn cái vỏ ngữ âm của một chữ sẵn có để biểu hiện một nghĩa mới.
Ngồi ra, về phép hình thanh cũng có vấn đề cần bàn thêm. Trong số những
chữ Nơm hình thanh mà Đào Duy Anh dẫn làm thí dụ, có một số chữ như 伴 bạn,

幔 màn, 幀 tranh, 姨 dì, 艚 tàu, 鉦 chiêng… Thật ra, đó là những chữ Hán:
bạn (= chúng bạn), mạn (= cái màn), tránh (= bức tranh), di (= dì, chị em của mẹ),
tào (= tàu thuyền), chinh (= cái chiêng). Lại nữa, Đào Duy Anh đặt thêm một bộ
mới là bộ 巨 cự (trong 214 bộ chữ Hán khơng có bộ này, vì chữ

工 cơng) để đưa vào đó những chữ như

giàu,

sang,

巨 cự thuộc bộ

to … Chữ

巨 có thể


là thành tố biểu âm để ghi tổ hợp âm đầu /kl/, như chữ
klang > sang. Nó cũng có thể là thành tố biểu ý, như chữ
biểu ý + tô biểu âm. Trong trường hợp này, nên đưa chữ


gồm cự + lang →
to gồm cự (= lớn)
to vào loại chữ hình

thanh gồm một chữ Hán biểu ý (cự) và một chữ Hán biểu âm (tô), chứ không nên
đặt thêm bộ 巨 cự.
2.1.2. Phân loại cấu thức của chữ Nôm theo nguồn gốc tiếng Việt trong mối
tương quan với tiếng Hán Việt
Phân loại cấu thức của chữ Nôm theo cách này, trước hết có Dương Quảng
Hàm 1, Nguyễn Đình Hịa 2. Sau đó, Bửu Cầm cũng đi theo con đường này và có
bổ sung thêm ít nhiều cho ý kiến của Dương Quảng Hàm 3.
Bửu Cầm phân biệt tiếng Việt ra bốn loại:
- Những tiếng gốc ở chữ Hán mà cách đọc hoặc giống hẳn âm chữ Hán, như
dân 民, tỉnh 省; hoặc hơi khác âm chữ Hán, như côi (do chữ Hán cô

孤), cuộc

(do chữ Hán cục 局).
- Những tiếng có lẽ cũng gốc ở chữ Hán, nhưng âm đã biến đổi nhiều, chỉ
còn giữ được nghĩa của chữ Hán, như nhà (do chữ gia

家), ghế (do chữ kỷ 几),

cuốn (do chữ quyển 卷).
- Những tiếng không phải gốc ở chữ Hán, nhưng âm hoặc giống hẳn hoặc
tương tự với âm một chữ Hán, như một (chỉ số) đồng âm với chữ một 沒 (= mất),
là có âm tương tự với chữ la 羅 (= cái lưới).
- Những tiếng không phải gốc ở chữ Hán mà cũng không đồng âm với một
chữ Hán nào, như đến, nói, trời.


1

Xem Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, sđd, tr. 101 - 103.
Xem Nguyễn Đình Hịa, “Chữ Nơm (The demotic system of writing in Việt Nam)”, Đại học
Văn khoa (Annales de la Faculté des Lettres de Saigon) 1957 – 1958, tr. 93 - 97.
3
Xem Bửu Cầm, Chữ Nôm nhập môn, sđd, tr. 14 - 16.
2


Ông xét thấy rằng những tiếng thuộc loại thứ nhất bao giờ cũng dùng một chữ
Hán để viết, những tiếng thuộc loại thứ hai và thứ ba thường cũng dùng một chữ
Hán, cịn những tiếng thuộc loại thứ tư thì dùng hai, ba chữ Hán ghép lại để viết.
Trên cơ sở những nhận xét đó, phép viết chữ Nơm được chia ra làm bốn cách như
sau:
1. Dùng nguyên hình chữ Hán để viết
a. Những tiếng gốc ở chữ Hán, âm và nghĩa khơng đổi. Thí dụ:
Tài 才, mệnh 命
b. Những tiếng gốc ở chữ Hán, âm hơi đổi nhưng nghĩa khơng đổi. Thí dụ:
Cơ 孤 = cơi, cục 局 = cuộc
c. Những tiếng có lẽ cũng gốc ở chữ Hán, nhưng âm biến đổi nhiều, chỉ cịn
giữ được nghĩa. Thí dụ:
Kỷ 几 = ghế, quyển 卷 = cuốn
d. Những tiếng khác hẳn nghĩa nhưng âm hoặc giống hoặc na ná với chữ
Hán ấy. Thí dụ:
Một 沒 (= số một), qua 戈 (= trải qua)
đ. Những tiếng khác âm nhưng đồng nghĩa với chữ Hán ấy. Thí dụ:
Mùi 味 (âm Hán Việt là vị = mùi), việc 役 (âm Hán Việt là dịch = việc)
2. Dùng một bộ phận của chữ Hán để viết
Thí dụ:

Làm

爫 (một bộ phận của chữ vi 為 = làm), ấy

(một bộ phận của chữ 衣

có hai âm y = cái áo, và ý = mặc áo).
3. Ghép hai chữ Hán thành một dấu hiệu riêng
a. Thông lệ
Mỗi chữ gồm hai phần: một phần chỉ nghĩa và một phần chỉ âm. Thí dụ:
Chữ đến
phần chỉ âm.

gồm có chữ chí 至 (= đến) là phần chỉ nghĩa và chữ điển 典 là


Chữ năm

gồm có chữ nam 南 là phần chỉ âm và chữ niên

年 (= năm) là

phần chỉ nghĩa.
Chữ trăm

gồm có chữ bách 百 (= trăm) là phần chỉ nghĩa và chữ lâm 林

là phần chỉ âm.
Phần chỉ nghĩa có khi là chữ thường, có khi là chữ bộ trong tự điển chữ Hán,
như


ăn

chữ



gồm



bộ

khẩu



(= miệng) chỉ nghĩa và chữ an 安 chỉ âm.
b. Biệt lệ
Có khi hai phần của một chữ Nơm đều chỉ nghĩa cả. Thí dụ:
Chữ trời

gồm có hai phần là chữ thiên

天 (= trời) và chữ thượng 上 (=

trên) đều chỉ nghĩa.
Thông lệ tức là phép hài thanh, còn biệt lệ là phép hội ý.
4. Ghép một chữ Hán chỉ nghĩa với một chữ Nơm chỉ âm
Thí dụ:

Chữ lời

là do chữ 口 (= miệng) là chữ Hán chỉ nghĩa và chữ trời

là chữ

Nôm chỉ âm ghép lại mà thành.
Xét về cơ bản, cách phân loại này là cố gắng bước đầu tách ra khỏi con đường
lục thư cổ truyền, có ưu điểm là khảo sát cấu thức của chữ Nôm dựa vào mối quan
hệ giữa tiếng Việt và chữ Hán mà những chất liệu của thứ văn tự này được dùng
để chế tác chữ Nôm, và phân biệt các phép viết chữ Nôm khá rõ ràng. Tuy nhiên,
cách này chỉ mới nhìn cấu thức của chữ Nơm ở đại thể, chưa phản ánh đầy đủ tất
cả các phương thức cấu tạo. Mặt khác, cách phân loại này dựa trên sự phân tích
nguồn gốc tiếng Việt có phần đơn giản, chưa đi sâu vào việc tìm hiểu nguồn gốc
các tiếng, nên không phân biệt rõ những chữ đọc theo âm Hán Việt với những chữ
đọc theo âm Hán Việt cổ và những chữ đọc theo âm Hán Việt Việt hóa hay những
chữ đọc theo nghĩa.
2.1.3. Phân loại cấu thức của chữ Nôm theo hướng ngữ âm
Trong khoảng mười năm trở lại đây, một số nhà ngôn ngữ học bắt đầu nghiên
cứu chữ Nôm dựa vào âm Việt cổ, âm Hán cổ, đối chiếu hệ thống ngữ âm tiếng


Hán và tiếng Việt, xét tới mối tương quan giữa tiếng Việt và các phương ngôn của
ngôn ngữ Việt với các ngơn ngữ Mường, Mơn - Khơme, v.v… Từ đó đưa ra
những cách phân loại mới về cấu thức của chữ Nôm.
a. Cách phân loại của Nguyễn Tài Cẩn và N.V. Xtankêvich
Đi theo hướng này trước hết phải kể đến Nguyễn Tài Cẩn và N.V. Xtankêvich
. Hai ông bà chia chữ Nôm ra làm hai loại lớn là mượn Hán và tự tạo để từ đó
chia nhỏ thành 10 kiểu. Loại mượn Hán được xem là loại chữ đơn, không có cấu
trúc nội tại, gồm có 5 kiểu:

1

- Kiểu A1 mượn cả hai mặt âm và nghĩa, ghi tiếng Hán Việt: tài 才.
- Kiểu A2 cũng mượn cả hai mặt, ghi tiếng gốc Hán (âm cổ Hán Việt hoặc
Hán Việt Việt hóa): bùa 符 (âm Hán Việt là phù).
- Kiểu B mượn nghĩa (mượn một mặt): vuốt 爪 (âm Hán Việt là trảo = móng
vuốt).
- Kiểu C1 mượn âm Hán Việt đọc chính xác (mượn một mặt): một 沒 (âm
Hán Việt là một).
- Kiểu C2 mượn âm Hán Việt đọc chệch (mượn một mặt): biết 別 (âm Hán
Việt là biệt).
Loại tự tạo là loại chữ có cấu trúc bên trong, cũng gồm có 5 kiểu:
- Kiểu D gồm có một thành tố chính gia thêm dấu phụ: mới
nháy).

(= mãi + dấu

- Kiểu Đ gồm có hai thành tố đều chỉ âm, dùng để ghi các tiếng có tổ hợp phụ
âm đầu: trái

(ba + lại = blái > trái).

- Kiểu E gồm có hai thành tố đều góp phần giải thích về mặt nghĩa: trời
(= thiên + thượng).

1

Xem Nguyễn Tài Cẩn – N.V. Xtankêvich, “Điểm qua vài nét về tình hình cấu tạo chữ Nôm”,
Ngôn ngữ số 2 và 3, 1976.



×