Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới cho học sinh cấp trung học cơ sở trên địa bàn quận liên chiểu, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.57 KB, 60 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
------------------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI:
TUN TRUYỀN, PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI CHO
HỌC SINH CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Bá Kim Khánh.

Lớp

: 19SCD.

Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hoài Thương.

Đà Nẵng, tháng 05 năm 2023


LỜI CẢM ƠN
Đề tài “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới trên địa bàn
quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng” là nội dung mà em đã nghiên cứu và làm
khoá luận tốt nghiệp sau thời gian theo học tại khoa Giáo dục Chính trị, trường
Đại học Sư Phạm – Đại học Đà Nẵng. Trong quá trình nghiên cứu và hồn thiện
khố luận, em đã nhận được nhiều sự quan tâm, giúp đỡ từ các thầy cô giáo trong
Khoa và trong Trường để khoa luận thành công nhất.


Em xin gửi lời cảm ơn đến Giảng viên hướng dẫn cơ: Nguyễn Thị Hồi
Thương là người cơ tâm huyết, đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá
trình nghiên cứu và thực hiện đề tài. Cơ đã có những trao đổi và góp ý để em có
thể hồn thành tốt đề tài nghiên cứu này.
Và em xin bày tỏ lời cảm ơn tới ban lãnh đạo Khoa Giáo dục Chính trị,
Trường Đại học Sư Phạm – Đại học Đà Nẵng đã tạo môi trường học tập và rèn
luyện rất tốt, cung cấp cho em những kiến thức và kỹ năng bổ ích giúp em có thể
áp dụng và thuận lợi thực hiện khoá luận.
Em xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, tháng 5 năm 2023
Tác giả

Nguyễn Bá Kim Khánh


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... 2
A. MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Tổng quan tình hình của đề tài ...................................................................... 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài .................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi của đề tài .................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4
6. Nội dung nghiên cứu đề tài ............................................................................ 4
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TUYÊN TRUYỀN, PHỔ
BIẾN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI .................................................... 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
bình đẳng giới ...................................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tuyên truyền, phổ biến pháp luật............................ 5
1.1.2. Khái niệm về bình đẳng giới...................................................................... 6

1.1.3. Khái niệm, đặc điểm tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng
giới ........................................................................................................................ 8
1.1.3. Vai trị của tun truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới ........... 12
1.2. Nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới .............. 15
1.3. Hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới. ........... 22
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng và điều kiện bảo đảm đối với tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về bình đẳng giới ..................................................................... 26
1.4.1. Quan điểm, đường lối chính trị của Đảng .............................................. 26
1.4.2. Hệ thống pháp luật quốc gia ................................................................... 27
1.4.3. Điều kiện kinh tế - văn hóa ..................................................................... 28
1.4.4. Năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức và điều kiện nguồn lực thực
hiện ..................................................................................................................... 28
Tiểu kết Chương 1............................................................................................. 30


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TUYÊN
TRUYỀN PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI CHO HỌC
SINH CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LIÊN CHIỂU,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ................................................................................. 31
2.1. Khái quát về học sinh cấp trung học cơ sở trên địa bàn quận Liên Chiểu,
thành phố Đà Nẵng ........................................................................................... 31
2.2. Thực trạng tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới cho học
sinh cấp Trung học cơ sở trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng
............................................................................................................................. 34
2.2.1. Thực trạng tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới tại một số
trường trung học cơ sở trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà
Nẵng…………………………………………………………………………………...……34
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về bình đẳng giới cho học sinh cấp Trung học cơ sở trên địa bàn quận Liên
Chiểu, thành phố Đà Nẵng ............................................................................... 37

2.3. Quan điểm đảm bảo tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới
ở nước ta hiện nay ............................................................................................. 38
2.3.1. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, quán triệt đầy đủ chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề bình đẳng giới gắn với việc kiên quyết
và kiên trì chống tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” phân biệt đối xử với phụ nữ
............................................................................................................................. 38
2.3.2. Đảm bảo tăng cường trách nhiệm của Nhà nước trong việc tun truyền
chính sách, pháp luật về bình đẳng giới ........................................................... 40
2.3.3. Chính sách pháp luật về bình đẳng giới và tuyên truyền pháp luật về bình
đẳng giới phải phản ánh đúng đắn nhu cầu xã hội, xử lý hài hòa các yếu tố lợi
ích, khách quan, tồn diện và sát với yêu cầu thực tiễn .................................. 42
2.4. Giải pháp đảm bảo tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới
ở cấp trung học cơ sở trên địa bàn Quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng 44
2.4.1. Nhóm giải pháp chung đảm bảo tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình
đẳng giới ............................................................................................................. 44
2.4.2. Nhóm giải pháp cụ thể đảm bảo hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật cấp trung học cơ sở trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà
Nẵng.................................................................................................................... 47
Tiểu kết Chương 2............................................................................................. 52
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................... 54


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời gian gần đây vấn đề bình đẳng giới đang được cả cộng đồng
quốc tế đặc biệt quan tâm. Bởi vì thực tế tình trạng bất bình đẳng giới đã và
đang diễn ra phổ biến, đây là một trong những nguyên nhân hạn chế quá trình
phát triển kinh tế- xã hội. Bất bình đẳng giới cũng là ngun nhân làm tăng đói
nghèo, cản trở việc chăm sóc sức khỏe dân cư, hạn chế các cơ hội tăng thu nhập

và gây nên hàng loạt tổn thất khác cho xã hội. Những nước tích cực thúc đẩy
bình đẳng giới thường đạt được tốc độ phát triển kinh tế xã hội cao và phát triển
bền vững hơn.
Tuy nhiên, thực tế tác động của nó mang lại khơng ít bất cơng, thực trạng
bất bình đẳng giới, khoảng cách giới, phân biệt đối xử về giới vẫn đang tồn tại
trong đời sống xã hội, tiêu biểu như: định kiến giới, bạo lực gia đình, bất bình
đẳng về vị trí, vai trị của phụ nữ so với nam giới trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Bên cạnh đó, một số chế tài pháp luật chưa nghiêm đối với những
hành vi vi phạm quyền, nhân phẩm phụ nữ, quyền trẻ em…Để đạt được một
cách hoàn toàn đầy đủ và vững chắc các mục tiêu bình đẳng giới ở nước ta vẫn
cịn là một q trình dài và khó khăn, do nhiều nguyên nhân khác nhau như hệ
thống pháp luật, nhận thức của cán bộ và người dân về vấn đề này cịn hạn chế,
q trình thi hành luật bình đẳng giới cịn bất cập. Thực trạng này địi hỏi phải
có thêm những nghiên cứu để tìm ra giải pháp tiếp tục thúc đẩy bình đẳng giới
ở nước ta. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về bình đẳng giới
khơng chỉ là u cầu của các nhà nghiên cứu khoa học mà còn là nhu cầu thiết
thực của từng cơng dân trong xã hội.
Chính vì lý do đó nên em đã nghiên cứu và chọn đề tài: “Tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về bình đẳng giới cho học sinh cấp trung học cơ sở trên địa
bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng”làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cho
mình.

1


1. Tổng quan tình hình của đề tài
Bình đẳng giới và tuyên truyền, pháp luật về bình đẳng giới là chủ đề thu
hút sự quan tâm của nhiều tầng lớp, nhiều giới và nhà nghiên cứu. Liên quan
trực tiếp đến đề tài có những bài viết, cơng trình nghiên cứu sau:
- Trần Thị Quốc Khánh (2012), Luận án tiến sỹ Luật học, "Hồn thiện

pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam". Cơng trình đã đề cập đến những vấn
đề lý luận như: bình đẳng giới, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng
giới, đặc điểm của tuyên truyền, phổ biến pháp luật bình đẳng giới và các yếu
tố ảnh hưởng. Nghiên cứu về tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng
giới một số nước trên thế giới và rút ra bài học kinh nghiệm tham khảo cho Việt
Nam.
- Lê Thị Hằng (2012), Luận văn thạc sỹ luật học. “Tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay", đã để cập đến thực
trạng tuyên truyền, phổ biến pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam, đánh giá
những thành tựu hạn chế tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới và
nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Phạm Thị Lê Dung (2017), Luận văn thạc sỹ chun ngành Chính sách
cơng, “Thực hiện chính sách bình đẳng giới từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi". Đã
đề cập đến những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bình đẳng giới tại Việt
Nam, đánh giá việc thực hiện chính sách bình đẳng giới tại tỉnh Quảng Ngãi.
Ngồi ra, cịn có một số cơng trình nghiên cứu về tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về bình đẳng giới trên nội dung và khía cạnh khác nhau như: Lê Thị
(2011), “Những vấn đề lý luận cơ bản về giới và kinh nghiệm giải quyết vấn
đề giới ở một số nước” của Viện gia đình và giới Viện khoa học xã hội Việt
Nam; Trần Thị Vân Anh, Nguyễn Hữu Minh (2008), “Bình đẳng giới ở Việt
Nam”, Nxb Khoa học xã hội; Bài viết "Thơng điệp bình đẳng – Bất bình đẳng
trong lĩnh vực kinh tế được đề cập trên truyền thông đại chúng" của Phạm Võ
Quỳnh Hạnh trên tạp chí giáo dục lý luận (2016); Bài viết, "Kinh nghiệm bình
đẳng giới ở một số nước trên thế giới " của Hà Thị Thủy Dương trên tạp chí Tổ
chức nhà nước (2015); Bài viết "Đảm bảo bình đẳng giới trong chính trị ở Việt
2


Nam. Thực trạng và giải pháp" của Phạm Võ Quỳnh Hạnh, trên tạp chính Lịch
sử Đảng (2016); Xây dựng Đảng (2016); Bài viết "Bình đẳng giỏi ở Việt Nam

qua các Chi số trong báo cáo phát triển con người" của Vũ Thị Thanh, trên tạp
chí Nghiên cứu con người (2015)...
Tuy nhiên, tuyên truyền và phổ biến pháp luật về bình đẳng giới cho học
sinh cấp Trung học cơ sở ở quận Liên Chiểu, Đà Nẵng cho đến nay vẫn chưa
có cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và cụ thể. Do đó, việc
nghiên cứu pháp luật về bình đẳng giới và tuyên truyền và phổ biến pháp luật
về bình đẳng giới cho học sinh cấp Trung học cơ sở quận Liên Chiểu, Đà Nẵng
sẽ mang lại giá trị và ý nghĩa thiết thực
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục tiêu của đề tài
Trên cơ sở đánh giá thực trạng tuyên truyền và phổ biến pháp luật về bình
đẳng giới cho học sinh cấp Trung học cơ sở ở quận Liên Chiểu, thành phố Đà
Nẵng. Đề tài nghiên cứu những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng pháp
luật bình đẳng giới. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
trong quá trình thực hiện mục tiêu tuyên truyền và phổ biến pháp luật về bình
đẳng giới cho học sinh cấp Trung học cơ sở ở quận Liên Chiểu, thành phố Đà
Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ cơ sở lý luận của tuyên truyền phổ biến pháp luậtvề bình đẳng
giới cho học sinh cấp Trung học cơ sở ở Việt Nam;
- Đánh giá thực trạng tuyên truyền phổ biến pháp luật về bình đẳng giới
cho học sinh cấp Trung học cơ sởở quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng;
- Đề xuất một số biện pháp nhằm tuyên truyền phổ biến pháp luật về
bình đẳng giới cho học sinh cấp Trung học cơ sở ở quận Liên Chiểu, thành phố
Đà Nẵng trong thời gian tới.

3


4. Đối tượng và phạm vi của đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài có đối tượng nghiên cứu: Học sinh cấp Trung học cơ sở ở quận
Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài có phạm vi nghiên cứu: Trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà
Nẵng
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp cụ thể được sử dụng nghiên cứu đề tài bao gồm:
phương pháp tổng hợp.
5.3. Nội dung nghiên cứu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận đề tài bao gồm 2 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
bình đẳng giới.
Chương 2. Thực trạng và giải pháp nhằm tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về bình đẳng giới cho học sinh cấp trung học cơ sở trên địa bàn quận
Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng

4


CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TUYÊN TRUYỀN, PHỔ
BIẾN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
bình đẳng giới
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật là một nguyên tắc quan trọng
của quản lý ở nhà nước ta đã được quy định tại Điều 8 Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Trong đời sống xã hội, pháp luật có
vai trị đặc biệt quan trọng, là phương tiện khơng thể thiếu bảo đảm cho sự tồn
tại, vận hành binh thưởng của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng.
Khơng chỉ là một cơng cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, pháp luật cịn tạo mơi
trưởng thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh đời sống
xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới.
Trong hầu hết các văn kiện của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật
của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ liên quan, tuyên
truyền, phổ biến pháp luật được sử dụng một cách thường xuyên và phổ biến.
Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tác giả sử dụng thuật ngữ
tuyên truyền, phổ biến pháp luật với ý nghĩa chung đó.
Theo Từ và ngữ Hán Việt thì tuyên truyền phổ biển là làm cho đông đảo
mọi người biết đến một vấn đề, một trí thức bằng cách truyền đạt trực tiếp hay
thơng qua hình thức nào đó hoặc làm cho mọi người đều biết đến.
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật có đối tượng tác động rộng rãi, mang ý
nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc, bởi trong lịch sử đã có lúc pháp luật được ban
hành nhưng không được phổ biển công khai mà chỉ được coi là công cụ để Nhà
nước dùng để trị dân, khơng phải để bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người.
Bên cạnh đó phổ biến pháp luật cịn mang tính tác nghiệp, truyền đạt nội dung
pháp luật cho các đối tượng cụ thể. Ở những mức độ khác nhau, phổ biến pháp
luật còn nhằm làm cho các đối tượng cụ thể hiểu thấu suốt các quy định của

5


pháp luật từ đỏ hình thành thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật.
Nghiên cứu về tuyên truyền, phổ biến pháp luật, theo Đỗ Hồng Kỷ đó là

hoạt động có mục đích, có hệ thống và có định hướng của các cơ quan Nhà
nước, các tổ chức xã hội và các tập thể lao động để hình thành và nâng cao ý
thức pháp luật và văn hóa pháp lý cho mọi cơng dân và những người có chức
vụ. [10, tr.35]
Như vậy, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới là hoạt động
có định hướng, có tổ chức của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng được
phổ biến về pháp luật bình đẳng giới một cách có hệ thống và thường xun
nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi
phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành.
1.1.2. Khái niệm về bình đẳng giới
UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc)
định nghĩa bình đẳng giới là sự cơng bằng và đồng tình giữa nam giới và nữ
giới trong đời sống công cộng cả trong lịch vực giáo dục, khoa học, nghệ thuật,
văn hóa và kinh tế. Bình đẳng giới là một nguyên tắc cơ bản của nhân quyền,
được UNESCO khuyến khích mọi quốc gia thực hiện phát triển bền vững và
thúc đẩy sự tiến bộ của toàn xã hội.
Bình đẳng giới là một nguyên tắc quan trọng trong pháp luật Việt Nam.
Cụ thể, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ việc bảo đảm bình đẳng giới, đặc biệt
trong các lĩnh vực như quyền và nghĩa vụ công dân, tuyển dụng lao động, giáo
dục, y tế, văn hóa, thể thao, tơn giáo, tội phạm và tịa án.
Luật Bình đẳng giới năm 2006 đã quy định rõ các nguyên tắc cơ bản về
bình đẳng giới, theo đó nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội và gia đình. Luật Bình đẳng giới đưa ra ba nguyên tắc cụ thể áp dụng trong
lĩnh vực giáo dục và đào tạo như sau:
Thứ nhất, nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng.
Nguyên tắc này xuất phát từ quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân tại Điều 39 Hiến pháp năm 2013: “Cơng dân có quyền và nghĩa vụ học
6



tập”. Theo đó, nam, nữ được đi học tập, đào tạo, bồi dưỡng khi có đáp ứng quy
định về độ tuổi mà khơng có sự phân biệt về giới tính. Nguyên tắc này cũng
được ghi nhận trong các văn bản pháp luật khác như Luật Giáo dục năm 2019,
Luật Giáo dục đại học năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018), Luật Giáo dục
nghề nghiệp năm 2014, Luật Trẻ em năm 2016. Hệ thống giáo dục quốc dân
hiện nay bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp
và giáo dục đại học. Trên cơ sở nhu cầu, đặc điểm và khả năng khác nhau của
người học, họ có thể tham gia vào các cấp học, trình độ đào tạo khác nhau tùy
thuộc vào độ tuổi mà khơng có sự phân biệt về giới tính.
Thứ hai, nam, nữ bình đẳng trong việc lựa chọn ngành, nghề học tập, đào
tạo. Nguyên tắc này xuất phát từ quyền lựa chọn ngành, nghề, việc làm được
quy định tại khoản 1 Điều 35 Hiến pháp năm 2013: “Cơng dân có quyền làm
việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc”. Các cơ sở dạy nghề, cơ
sở giáo dục thực hiện việc tuyển sinh trên cơ sở các điều kiện về năng lực của
thí sinh thể hiện qua điểm thi, khơng phân biệt giới tính của thí sinh ứng tuyển.
Qua đó, nam, nữ đều có cơ hội ngang nhau trong việc lựa chọn học tập
những ngành nghề, lĩnh lực phù hợp với sở thích, khả năng, năng khiếu của bản
thân.
Sau Hiến pháp 1946, các Hiến pháp 1956, Hiến pháp 1980, Hiến pháp
1992 đều tiếp tục khẳng định bình đẳng giới trong các lĩnh vực. Hiến pháp 1992
quy định rõ: “Cơng dân nam nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử
với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ” (Điều 63) [18, tr.12].
Luật lao động năm 2019 cũng quy định rõ về bình đẳng giới trong tuyển
dụng lao động, trả lương, phúc lợi, đào tạo nghề, bảo vệ lao động và giải quyết
tranh chấp lao động.
Ngồi ra cịn nhiều chính sách và quy định khác của pháp luật Việt
Nam nhằm đảm bảo bình đẳng giới. Tuy nhiên, vẫn cịn nhiều thách thức và
vấn đề cần phải giải quyết để đảm bảo bình đẳng giới thực sự được thực hiện
trên mọi lĩnh vực.

7


Bình đẳng giới vừa là mục tiêu, thước đo sự phát triển và tiến bộ của xã
hội, vừa là tiêu chuẩn văn hóa. Bình đẳng giới có thể xuất hiện ở nhiều khía
cạnh, cụ thể có thể: phản đối bình đẳng, cơ hội bình đẳng, hưởng lợi và hưởng
lợi như nhau, kiểm soát quyền hạn và ra quyết định ngang nhau... Vì vậy, bình
đẳng giới khơng chỉ là số lượng phụ nữ và nam giới hoặc trẻ em trai và trẻ em
gái tham gia như nhau. mọi hoạt động, cũng khơng có nghĩa là nam nữ bình
đẳng, mà bình đẳng giới có nghĩa là nam giới và nữ giới được công nhận trong
xã hội và được hưởng các địa vị ngang nhau. Nam và nữ có điều kiện bình đẳng
để phát huy hết khả năng và cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và hưởng
lợi khi tham gia các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và kinh tế. Ở nước ta,
Hiến pháp ghi nhận nam nữ bình đẳng về mọi mặt vì quyền con người. Tiến bộ
là rất nhiều, nhưng nếu cứ ở mức này thì phụ nữ vẫn chưa thực sự bình đẳng.
Bình đẳng giới là nguyên tắc tất cả mọi người đều có quyền đối xử cơng
bằng và có cơ hội ngang nhau trong các lĩnh vực của đời sống bao gồm cả giáo
dục, việc làm và các quyền lợi khác. Bình đẳng giới cũng là sự tôn trọng đối
với những khác biệt giới tính và giới tính được cơng nhận và đảm bảo rằng
khơng ai bị kì thị, phân biệt đối xử hoặc bị bất cơng vì lí do giới tính.
Như vậy, tun truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới là một q
trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về bình
đẳng giới đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các
chủ thể pháp luật. Hay nói cách khác, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình
đẳng giới là hoạt động thực tiễn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được tiến
hành theo những hình thức pháp lý nhất định, có mối liên hệ và quy định lẫn
nhau trong một cơ chế phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn lịch sử, nhằm
hiện thực hóa các yêu cầu, nội dung của quy phạm tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về bình đẳng giới.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng

giới
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 1992, tuyên truyền, phổ biến là làm cho
đông đảo người biết bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thơng qua hình thức,
8


phương tiện nào đó (ví dụ: phổ biến chính sách của Nhà nước về xóa đói, giảm
nghèo, phổ biến quy định mới của pháp luật về bảo hiểm xã hội…).
Phổ biến pháp luật là hoạt động hoặc nhiều hoạt động bằng hình thức
truyền đạt trực tiếp hay thơng qua hình thức, phương tiện nào đó làm cho đơng
đảo người biết các quy định của pháp luật với mục đích là để cho mọi người
hiểu biết pháp luật và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật.
Từ những nội dung nêu trên, có thể hiểu: tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về bình đẳng giới là hoạt động hoặc nhiều hoạt động cụ thể, thực hiện việc
truyền bá pháp luật về bình đẳng giới cho đối tượng bằng một hoặc nhiều hình
thức, nhằm nâng cao kiến thức, niềm tin pháp luật, từ đó nâng cao nhận thức
về pháp luật, ý thức tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành và bảo vệ pháp luật
của đối tượng đó.
Cơng tác tun truyền, phổ biến pháp luật là những công việc cụ thể của
cơ quan, tổ chức, cá nhân, trường học có trách nhiệm trong cơng tác tun
truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới.
Đối với cơ quan, tổ chức: theo chức năng, nhiệm vụ, thực hiện việc xây
dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch về tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới; chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức
thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới; bồi
dưỡng kiến thức pháp luật, tập huấn nghiệp vụ, kỹ năng tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về bình đẳng giới; xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp
luật về bình đẳng giới; thống kê, tổng kết về tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về bình đẳng giới; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm trong tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới; hợp tác quốc tế

về tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới.
Đối với cá nhân: cơng tác tun truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng
giới là các hoạt động cụ thể của cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ, chiến sĩ
trong lực lượng vũ trang nhân dân, người được mời tham gia tuyên truyền, phổ
biến pháp luật ở cơ sở để tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch của cơ

9


quan, đơn vị, tổ chức; xác định đối tượng có nhu cầu tìm hiểu pháp luật, đối
tượng cần tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới.
Trên cơ sở khái niệm tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới,
có thể rút ra những đặc điểm về tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng
giới như sau:
Thứ nhất, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới phải ln
gắn bó mật thiết với vấn đề chính trị, tư tưởng, đạo đức: V.ILê-nin đã từng nói:
“Pháp luật là một biện pháp chính trị, là chính trị”. Pháp luật nước ta suy cho
cùng là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành các quy phạm, các
chuẩn mực pháp luật của Nhà nước có tính bắt buộc chung và được bảo đảm
bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Do vậy tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về bình đẳng giới nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp nhân dân
chính là tạo ra khả năng và thuận lợi cho việc giáo dục chính trị - tư tưởng, tạo
sự thống nhất cao trong quá trình triển khai tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
bình đẳng giới ở tất cả các cấp, các ngành, các đơn vị. Thông qua công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới gắn với việc tuyên truyền chủ
trương, chính sách pháp luật sẽ phát huy được truyền thống yêu nước, tinh thần
đoàn kết dân tộc, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động điều
hành, quản lý của Nhà nước và nâng cao ý thức, trách nhiệm cũng như động
viên nhân dân tích cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng Đảng, chính quyền
trong sạch, vững mạnh, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam

xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và hội nhập quốc tế.
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới cho nhân dân khơng
chỉ là giáo dục kiến thức pháp luật đơn thuần mà còn phải kết hợp với việc giáo
dục đạo đức, lối sống. Giáo dục đạo đức tạo điều kiện cần thiết để hình thành
ở mỗi người dân tình cảm và thái độ tơn trọng pháp luật. Bên cạnh đó, các tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp,
tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức kinh tế, các đơn vị sự
nghiệp, các gia đình, dịng họ và cơng dân Việt Nam đều là chủ thể có liên quan
đến việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới. Chất lượng, hiệu
10


quả của công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới chỉ có thể
từng bước đạt được nếu có sự gắn bỏ mật thiết giữa tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về bình đẳng giới với giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức.
Thứ hai, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới có mối quan
hệ chặt chẽ với công tác xây dựng pháp luật về bình đẳng giới: Trong cơ chế
điều chỉnh của pháp luật, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới là
giai đoạn thứ hai sau khi đã tiến hành giai đoạn xây dựng pháp luật. Pháp luật
chỉ có thể phát huy được vai trị và những giá trị của mình trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi pháp
luật đó được tơn trọng và thực hiện đầy đủ, nghiêm minh trong thực tế. Xuất
phát từ tính đặc thù trong nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình
đẳng giới phạm vi thực hiện cịn địi hỏi sự kết hợp đồng bộ trong quá trình
thực hiện của các chủ thể trong phạm vi không gian, địa lý nhất định.
Để đạt được điều đó, thì phải đưa pháp luật vào cuộc sống thông qua
hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới, góp phần nâng
cao hiểu biết pháp luật của nhân dân để pháp luật luôn thường trực trong tư
duy, hành vi của mỗi người, khơi dậy tình cảm. lịng tin và thái độ đúng đắn
đối với pháp luật. Có lịng tin vào cơng lý, lẽ công bằng của pháp luật, thông

qua hoạt động pháp luật sẽ giúp định hưởng hành vi của các chủ thể mang tính
tích cực, thuận chiều, phù hợp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật hiện hành.
Do vậy, cơng tác tun truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới ln đóng
vai trị quan trọng trong xã hội, là cầu nối giữa xây dựng pháp luật và tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới, là khâu đầu tiên của hoạt động
thực thi pháp luật
Thứ ba, tuyên truyền phổ biến pháp luật về bình đẳng giới nhằm hình
thành tri thức pháp luật về bình đẳng giới cần thiết, sự hiểu biết pháp luật, nâng
cao khả năng nhận thức pháp lý cho các chủ thể.
Tổ chức và cá nhân xác định đúng phạm vi, mức độ điều chỉnh của pháp
luật về bình đẳng giới từ đó chấp hành nghiêm minh, đúng pháp luật.

11


Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng - pháp lý thiết yếu đối với quá trình
quản lý xã hội bằng pháp luật. Có nhiều biện pháp để nâng cao ý thức pháp
luật, nhận thức pháp lý của chủ thể, trong đó tun truyền, phổ biến pháp luật
về bình đẳng giới được xác định là hoạt động cơ bản.
Trên cơ sở nhận thức rõ về quyền và lợi ích hợp pháp của mình dựa trên
các quy định của pháp luật về bình đẳng giới, từ đó hình thành thái độ xử sự
tích cực, phát huy ý thức tơn trọng và tuân thủ pháp luật trong các quan hệ đời
sống xã hội hoặc có sự phản kháng, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật. Điều
này khắc phục tư tưởng coi thường, bất chấp pháp luật; khắc phục tình trạng
làm giảm hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong thực tế; khơng ngừng mở rộng,
khuyến khích đấu tranh phịng và chống các hành vi thiếu tôn trọng pháp luật,
vi phạm pháp luật, hạn chế và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã
hội từ đỏ nâng cao giá trị và uy tín của pháp luật, thực hiện công bằng xã hội.
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới khơng chỉ là mối
quan tâm và trách nhiệm của riêng quốc gia nào, mà nó đã trở thành trách nhiệm

và nghĩa vụ chung của cả cộng đồng quốc tế. Việt Nam là một trong những
quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia Công ước Xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), ngày 29/7/1980 và phê chuẩn ngày
27/11/1981. Điều 4 Công ước khẳng định: “Việc các nước tham gia Công ước
thông qua những biện pháp đặc biệt tạm thời nhằm thúc đẩy nhanh sự bình
đẳng trong thực tế giữa nam và nữ sẽ không bị coi là phân biệt đối xử theo định
nghĩa đề ra tại Công ước này nhưng sẽ khơng vì thế mà đưa đến việc duy trì
những tiêu chuẩn khơng bình đẳng hoặc khác nhau. Những biện pháp này sẽ
chấm dứt khi các mục tiêu bình đẳng về cơ hội và đối xử đã đạt được”. [8,
tr.11]
1.1.4. Vai trò của tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới
Xuất phát từ khái niệm và đặc điểm tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
bình đẳng giới trên đây, có thể thấy tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình
đẳng giới pháp luật về bình đẳng nam - nữ có vai trị đặc biệt quan trọng trong
đời sống xã hội.
12


Thứ nhất, thông qua hoạt tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng
giới góp phần hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức
pháp luật về bình đẳng giới cho cơng dân - mục đích nhận thức. Hành vi phù
hợp với các chuẩn mực pháp lý chỉ được hình thành dựa trên sự am hiểu đầy
đủ về pháp luật, có lịng tin và tỉnh cảm đúng đắn đối với pháp luật. Do đó, đi
đơi với việc xây dựng trật tự, kỷ cương xã hội là việc tạo lập môi trường pháp
lý thuận lợi trong tư duy, ý thức tự giác chấp hành pháp luật, nâng cao dân trí,
hình thành thói quen, nếp sống, nếp nghĩ “ Sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật”. Đó là văn minh, là tiến bộ xã hội, là nền tảng xây dựng đất nước xã
hội chủ nghĩa, con người xã hội chủ nghĩa phát triển bền vững. Để làm được
điều đó, việc đưa pháp luật vào đời sống thông qua hoạt động tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về bình đẳng giới là nhiệm vụ trọng tâm khơng chỉ giúp nâng

cao ý thức pháp luật cho cán bộ, nhân dân mà hình thành những tri thức về
chuẩn mực đạo đức và pháp luật, nâng cao ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm
công dân, ngăn chặn các biểu hiện xâm phạm lợi ích của nhà nước và cơng dân,
khuyến khích những hành vi hợp pháp và hợp đạo lý trong xã hội. Tuyên truyền,
phổ biến pháp luật bình đẳng giới là cách thức, biện pháp bảo đảm bình đẳng
giới trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội; trong tham
gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định,
quy chế của cơ quan tổ chức; trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử
đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, tự ứng cử và được giới thiệu
ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp; bình đẳng về tiêu chuẩn chun mơn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm
vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan tổ chức được thể hiện trong các
quy phạm pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực trong thực tiễn. Do
vậy, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới là cách thức cơ bản, có
hiệu lực, hiệu quả nhất để chủ trương, chính sách đi vào cuộc sống và phát huy
hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ xã hội và đến với các chủ thể; giúp họ
nắm bắt đầy đủ và thực hiện tốt hơn chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
13


luật của Nhà nước. Qua đó giúp Đảng, Nhà nước kiểm nghiệm tính đúng đắn
của các chính sách, pháp luật đã được ban hành trong thực tiễn để kịp thời sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp trong tổ chức thực hiện để bảo đảm thực hiện tốt hơn
các chính sách bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực.
Thứ hai, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới nhằm khơi
dậy tình cảm, lịng tin và thái độ đúng đắn đối với pháp luật về bình đẳng giới
– mục đích cảm xúc. Pháp luật được xây dựng là để ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ
quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo sự hài hịa lợi ích chung của cộng đồng,
đảm bảo công bằng và dân chủ xã hội. Mặc dù ý chí, nguyện vọng của đơng

đảo quần chủng nhân dân trong xã hội được xác định là cơ sở, tiền đề để xây
dựng pháp luật, nhưng pháp luật cũng như mọi hiện tượng xã hội khác bao giờ
cũng có hai mặt, không phải lúc nào cũng phản ánh được đầy đủ mong muốn
của tất cả mọi người trong xã hội.
Tình cảm và lịng tin đối với pháp luật của mỗi đối tượng không giống
nhau, ở những cấp độ khác nhau, nhưng tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
bình đẳng giới phải đạt được mục đích: hình thành tình cảm công bằng, khoan
dung, ý thức trách nhiệm, thái độ không khoan nhượng đối với những hành vi
vi phạm pháp luật và thái độ tôn trọng pháp luật, pháp chế.
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới là một trong những
phương tiện thực hiện mục tiêu của Nhà nước ta là xóa bỏ phân biệt đối xử về
giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa
nam và nữ trong mọi lĩnh vực; là phương thức đề cao trách nhiệm của cơ quan,
người có thẩm quyền trong bảo đảm cơng bằng chính trị - xã hội; bảo đảm bình
đẳng giới góp phần thúc đẩy phụ nữ tham chính ngày càng nhiều hơn, chủ động
hơn, đóng góp ngày càng lớn hơn cho phát triển của cộng đồng, đất nước. Vì
vậy, các cơ quan, cán bộ, công chức, công dân phải nghiêm chỉnh tuân thủ,
chấp hành và thực hiện đúng pháp luật; tích cực phòng ngừa, đấu tranh và chống
các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Thứ ba, tuyên truyền phổ biến pháp luật về bình đẳng giới đóng vai trị
quan trọng trong việc củng cố, nâng cao ý thức pháp luật về bình đẳng giới
14


đồng thời bồi dưỡng năng lực làm chủ để tham gia quản lý nhà nước và xã hội,
giải quyết công việc chung của cộng đồng; giúp các cơ quan, tổ chức, gia đình,
cá nhân nắm vững pháp luật, nhận thức sâu sắc, hiểu biết đầy đủ hơn về chuẩn
mực xã hội, thấy được giới hạn của các hành vi bình đẳng và bất bình đẳng;
biết được những nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới, những hành vi bị nghiêm
cấm. Nhờ đó, các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân nhận thức được bản chất

pháp lý của các tình huống, sự kiện; biết lựa chọn hành vi xử sự phù hợp; biết
tìm kiếm giải pháp tốt tối ưu cho mình. Các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân
sẽ nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trị của pháp luật, từ đó, tích cực, chủ
động áp dụng pháp luật để bảo đảm mục tiêu bình đẳng giới trong tham gia các
lĩnh vực. Hiểu biết pháp luật giúp các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tơn
trọng quyền hợp pháp của chủ thể khác; yêu cầu các chủ thể thực hiện đầy đủ
quyền, nghĩa vụ; tham gia quản lý Nhà nước, hoạt động xã hội, góp phần thực
thi công lý, bảo đảm công bằng xã hội. Các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân
sẽ nhận thức đầy đủ hơn về vai trị, trách nhiệm của mình trước Nhà nước và
xã hội, trong thúc đẩy bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực.
Thứ tư, tuyên truyền phổ biến pháp luật về bình đẳng giới đóng vai trị
quan trọng trong việc khẳng định uy tín và trách nhiệm của Nhà nước trước
cộng đồng quốc tế trong việc đảm bảo và thúc đẩy quyền con người
Việc ban hành các quy định pháp luật về bình đẳng giới đã nâng vị thế
của Việt Nam. Tuy nhiên, để khẳng định về thực tiễn thì chỉ có tiến hành
tun truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới mới là biện pháp có hiệu
quả, đảm bảo rằng pháp luật về bình đẳng giới đang hiện hữu.
1.2. Nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới
Để đạt được chất lượng, hiệu quả cao trong công tác tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về bình đẳng giới như mong muốn đó phải là sự tổng hòa, kết
hợp của nhiều nhân tố khác nhau. Bên cạnh sự nhận thức của các cấp ủy Đảng,
chính quyền về tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về bình đẳng giới, trình độ văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ làm cơng tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật, hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
15


bình đẳng giới... thì xác định đúng nội dung pháp luật về bình đẳng giới là đảm
bảo cần thiết để tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới có hiệu quả
thiết thực, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới là những
quy định pháp luật cần được truyền đạt đến đối tượng cần tuyên truyền, phổ
biến. Nhìn nhận từ góc độ pháp luật thực định, Điều 10 Luật phổ biến pháp luật
có quy định về các nội dung phổ biến pháp luật bao gồm:
-

Quy định của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trọng

tâm là các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hơn nhân và
gia đình, bình đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo
dục, y tế, quốc phịng, an ninh, giao thơng, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, các
văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành;
-

Các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế;
-

Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật;

lợi ích của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới
Đối với pháp luật về bình đẳng giới, nội dung tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về bình đẳng giới có thể chia làm những nội dung cơ bản sau:
Mục tiêu và các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới: Điều 4 của Luật
bình đẳng giới quy định mục tiêu bình đẳng giới là xóa bỏ phân biệt đối xử về
giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát
triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết

lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và gia đình.
Điều 6 của Luật bình đẳng giới quy định các nguyên tắc cơ bản về bình
đẳng giới, bao gồm: Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
và gia đình, khơng bị phân biệt đối xử về giới; biện pháp thúc đẩy bình đẳng
giới khơng bị coi là phân biệt đối xử về giới; chính sách bảo vệ và hỗ trợ người
16


mẹ không bị coi là phân biệt đối xử về giới; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình
đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật; thực hiện bình đẳng giới là trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân. Các nguyên tắc này thể hiện rõ
những điểm mới trong quy định của pháp luật nhằm bảo đảm bình đẳng giới
thực chất trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Với việc xác lập mục tiêu và nguyên tắc cơ bản này, Việt Nam khơng
những thực hiện cam kết quốc tế mà cịn xác định rõ «tư tưởng trọng nam hơn
nữ khơng cịn chỗ để tồn tại.
Chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới, trong các quy định tại Điều
7, ngoài quy định thống nhất với pháp luật hiện hành như: “Bảo đảm bình đẳng
giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội và gia đình”, đã quy
định nhiều điểm mới như: Hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả
năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng
thành quả của sự phát triển; bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và
nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình; áp dụng
những biện pháp thích hợp để xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực
hiện mục tiêu bình đẳng giới; khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân
tham gia các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới; hỗ trợ hoạt động bình đẳng
giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện
kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần thiết để nâng chỉ
số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số phát triển

giới thấp hơn mức trung bình của cả nước.
Nội dung quản lý Nhà nước về bình đẳng giới, theo quy định tại Điều 8
của Luật bình đẳng giới, nội dung quản lý Nhà nước về bình đẳng giới bao gồm:
Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, mục tiêu quốc gia về
bình đẳng giới; ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về
bình đẳng giới; ban hành và tổ chức thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng
giới; tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bình đẳng giới; xây dựng,
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hoạt động về bình đẳng giới; thanh tra, kiểm
tra việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới; giải quyết khiếu
17


nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới; thực hiện cơng tác
thống kê, thơng tin, báo cáo về bình đẳng giới; hợp tác quốc tế về bình đẳng
giới.
Cơ quan quản lý Nhà nước về bình đẳng giới, Điều 9 của Luật bình đẳng
giới quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bình đẳng giới; Bộ
hoặc cơ quan ngang bộ được Chính phủ phân cơng chủ trì chịu trách nhiệm
trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới; Bộ, cơ quan
ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối
hợp với cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới thực hiện quản lý nhà nước
về bình đẳng giới; Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về bình
đẳng giới trong phạm vi địa phương theo phân cấp của Chính phủ. Quy định
này phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính, sắp xếp lại bộ máy nhà nước theo
hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, trong đó cơ quan quản lý Nhà nước sẽ được
Chính phủ phân công cho một Bộ hoặc cơ quan ngang Bộ.
Các hành vi bị nghiêm cấm, Điều 10 của Luật bình đẳng giới quy định
chung có 4 loại hành vi: cản trở nam, nữ thực hiện bình đẳng giới; phân biệt
đối xử về giới dưới mọi hình thức; bạo lực trên cơ sở giới; các hành vi khác bị
nghiêm cấm theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình về bình đẳng
giới có những nội dung như sau:
Về Chính trị, Khoản 1, 2, 3 Điều 11 của Luật bình đẳng giới quy định nội
dung thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành như: Nam, nữ
bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội; nam,
nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của
cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức; nam, nữ bình đẳng
trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

18


Khoản 4, 5 Điều 11 của Luật bình đẳng giới quy định một số điểm mới:
Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ
nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức; biện pháp thúc
đẩy bình đẳng giới gồm: bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới; bảo
đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước
phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
Về kinh tế, Điều 12 của Luật bình đẳng giới quy định: Nam, nữ bình đẳng
trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh,
quản lý doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cịn quy định mới: Nam, nữ bình đẳng
trong việc tiếp cận thông tin, nguồn vốn, thị trường và nguồn lao động; biện
pháp thúc đẩy bình đẳng giới gồm: doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ
được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật; lao động nữ khu
vực nơng thơn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư
theo quy định của pháp luật.

Về lao động, Điều 13 của Luật bình đẳng giới quy định nhiều điểm mới
và cụ thể hoá một số quy định của pháp luật hiện hành. Đó là: Nam, nữ bình
đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm
việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động
và các điều kiện làm việc khác. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi
được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn
chức danh; biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:
quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
năng lực cho lao động nữ; người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn
lao động cho lao động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy
hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại.
Về giáo dục và đào tạo, nhằm khắc phục một số hạn chế của pháp luật
và thực thi pháp luật hiện hành, Điều 14 của Luật bình đẳng giới quy định một
số điểm mới: Nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng; nam,
nữ bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, đào
19


tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; nữ cán bộ, công chức, viên chức khi
tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được
hỗ trợ theo quy định của Chính phủ; biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong
lĩnh vực giáo dục và đào tạo bao gồm: quy định tỷ lệ nam, nữ tham gia học tập,
đào tạo; lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ dạy nghề theo quy định
của pháp luật.
Về khoa học và cơng nghệ, văn hố, thơng tin, thể dục, thể thao, Điều 15, 16
của Luật bình đẳng giới quy định rõ quyền bình đẳng nam, nữ trong việc tiếp
cận, ứng dụng khoa học và công nghệ, các khố đào tạo về khoa học và cơng
nghệ, phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và phát minh, sáng chế;
tham gia các hoạt động văn hố, thơng tin, thể dục, thể thao, hưởng thụ văn
hoá, tiếp cận và sử dụng các nguồn thông tin.

Về y tế, Điều 17 của Luật bình đẳng giới quy định một số điểm mới như:
Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động giáo dục, truyền thơng về
chăm sóc sức khỏe, sức khoẻ sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế; lựa chọn,
quyết định sử dụng biện pháp tránh thai, biện pháp an tồn tình dục, phịng,
chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Đặc
biệt, Luật quy định phụ nữ nghèo cư trú ở vùng sâu, vùng xa, là đồng bào dân
tộc thiểu số, trừ các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, khi sinh con
đúng chính sách dân số được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ, nhằm từng
bước giảm khoảng cách về giới hiện còn tồn tại trong thực tiễn thi hành pháp
luật hiện nay.
Về gia đình, ngồi các quy định thống nhất với pháp luật hiện hành như:
Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên
quan đến hôn nhân và gia đình; vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong
sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ
chồng, Điều 18 của Luật bình đẳng giới quy định một số điểm mới như: Vợ
chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong quyết định các nguồn lực trong gia
đình; vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và
sử dụng biện pháp kế hoạch hố gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm
20


sóc con ốm theo quy định của pháp luật; con trai, con gái được gia đình chăm
sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí
và phát triển; các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ cơng
việc gia đình.
Các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới: Chương III quy định các biện
pháp bảo đảm bình đẳng giới (từ Điều 19 đến Điều 24) bao gồm:
-

Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới. Theo quy định tại Điều 5 của


Luật bình đẳng giới về giải thích từ ngữ, thì biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực chất, do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ
về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả
của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không
làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực
hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đó
đạt được.
Điều 19 của Luật bình đẳng giới quy định các biện pháp thúc đẩy bình
đẳng giới bao gồm: quy định tỷ lệ nam, nữ hoặc bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng
tham gia, thụ hưởng; đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ năng lực cho nữ
hoặc nam; hỗ trợ để tạo điều kiện, cơ hội cho nữ hoặc nam; quy định tiêu chuẩn,
điều kiện đặc thù cho nữ hoặc nam; quy định nữ được quyền lựa chọn trong
trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam; quy định việc ưu tiên nữ
trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam; các biện pháp thúc
đẩy bình đẳng giới được quy định tại Luật này.
-

Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ có thẩm quyền

quy định biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới nêu trên, có trách nhiệm xem xét
việc thực hiện biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới và quyết định chấm dứt thực
hiện khi mục đích bình đẳng giới đó đạt được.
-

Bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong việc hồn

thiện hệ thống pháp luật, Điều 20 của Luật bình đẳng giới quy định một số
điểm mới: việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật phải

21


×